Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Diệu »»
(s: Navagrahā, 九曜): 9 loại thiên thể chiếu sáng rất quan trọng trong hiện tượng thiên văn, còn gọi là Cửu Chấp (九執), tùy theo ngày giờ mà không xa rời nhau, có nghĩa nắm chặt nhau (chấp trì). Nghi quỹ trọng yếu của Cửu Diệu được thuyết trong Túc Diệu Kinh (宿曜經, 2 quyển, Bất Không [不空] dịch, Taishō 21, 1299), Thất Diệu Nhương Tai Quyết (七曜攘災決, Đường Kim Câu Tra [唐倶金吒] soạn, Taishō 21, 1308), Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp (七曜星辰別行法, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1309), Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu (梵天火羅九曜, Nhất Hành [一行] soạn, Taishō 21, 1311). Về đồ hình của Cửu Diệu có Cửu Diệu Tôn Tượng (九曜尊像), Cửu Diệu Bí Lịch (九曜秘曆), v.v., phần lớn có các yếu tố thiên văn của Trung Quốc. Căn cứ vào lịch Ấn Độ bằng tiếng Phạn, Cửu Diệu được phân thành:
(1) Nhật Diệu (s: Āditya, 日曜): còn gọi là Thái Dương (太陽), Nhật Tinh (日精、日星), Nhật Đại Diệu (日大曜); hình tượng bàn tay phải xòe ra cầm nhật luân (bánh xe mặt trời), tai trái kê lên đầu gối, mang thiên y và cỡi trên mình 3 con bạch mã (hay 5 con ngựa, trong Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu có thể nhầm sao này với Nguyệt Diệu);
(2) Nguyệt Diệu (s: Soma, 月曜): còn gọi là Nguyệt Thiên Diệu (月天曜), Nguyệt Tinh (月精、月星), Mộ Thái Âm (暮太陰), Thái Âm (太陰); hình tượng bàn tai phải xòe ra cầm hình mặt trăng có con thỏ nằm trên, tay trái đưa lên ngang ngực và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; hoặc hình tượng trên đỉnh đầu có con chim bồ câu, mang y Yết Ma, hai tay bỏ trong tay áo và cầm nguyệt luân (vòng tròn mặt trăng), cỡi lên trên 5 cánh chim bồ câu;
(3) Hỏa Diệu (s: Aṅgāraka, 火曜): còn gọi là Huỳnh Hoặc Tinh (熒惑星, Sao Hỏa), Hỏa Tinh (火精、火星), Hỏa Đại Diệu (火大曜), Phạt Tinh (罰星); hình tượng tay phải đặt trên bắp đùi, tay trái cầm cái giáo dài mũi nhọn, chân phải hơi nhếch lên một chút, ngồi với tư thế hai bàn chân giao nhau; tuy nhiên trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La (北斗曼茶羅) thân hình vị này có màu đỏ, tóc rực lửa dựng ngược, mang áo và mũ trời, chung quanh lửa cháy, thân đứng với 4 tay;
(4) Thủy Diệu (s: Budha, 水曜): còn gọi là Thần Tinh (辰星), Thủy Tinh (水精、水星), Thần Tinh (辰星), Trích Tinh (滴星), Thủy Đại Diệu (水大曜); hình tượng chấp tay, ngồi xếp bằng hai bàn chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay phải cầm bình, tay trái cầm xâu chuổi và ngồi bán già trên tòa hoa sen;
(5) Mộc Diệu (s: Bṛhaspati, 木曜): còn gọi là Tuế Tinh (歳星), Nhiếp Đề (攝提), Đại Chủ (大主), Mộc Đại Diệu (木大曜), Mộc Tinh (木精); hình tượng ngón tay áp út và ngón giữa của bàn tay phải cong lên, ngón tay cái ấn xuống trên hai ngón kia, tai trái để lên bắp đùi và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng tay trái cầm cây gậy trên có hình bán nguyệt, hay hình ông lão đứng, đội mũ đầu heo, tay trái cầm cây gậy;
(6) Kim Diệu (s: Śukra, 金曜): còn gọi là Thái Bạch Tinh (太白星), Trường Canh (長庚), Na Hiệt (那頡), Kim Tinh (金星、金精), Kim Đại Diệu (金大曜); hình tượng mang thiên y, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên với 4 ngón tay bẻ gập lại và ngồi xếp bằng hai chân giao nhau; ngoài ra còn có hình tượng hai tay cầm bình và xâu chuỗi; hay hình người nữ đội con gà trên đầu và gãy đàn Tỳ Bà (琵琶);
(7) Thổ Diệu (s: Śanaiścara, 土曜): còn gọi là Trấn Tinh (鎭星), Thổ Tinh (土星、土精), Thổ Đại Diệu (土大曜); hình tượng ông lão khỏa thân đứng, mang quần da nai, tay phải cầm cây gậy tiên; hay hình Bồ Tát tay cầm bình; hoặc hình ông lão cỡi trâu, tay trái cầm tích trượng, có 2 đồng tử cầm giáo đứng hầu hai bên;
(8) La Hầu (s: Rāhu, 羅睺): còn gọi là Hoàng Phan Tinh (黃旛星), Thực Thần (蝕神), Thái Dương Thủ (太陽首); hình tượng ẩn trong mây với 2 bàn tay hai bên khuôn mặt giận dữ; bên cạnh đó còn có hình tượng giận dự với 3 mặt và tóc rực lửa, trên mỗi đỉnh đầu có đầu rắn và từ ngực trở xuống ẩn trong mây;
(9) Kế Đô (s: Ketu, 計都): còn gọi là Tuệ Tinh (彗星), Báo Vĩ Tinh (豹尾星), Kỳ Tinh (旗星), Thực Thần Vĩ (蝕神尾), Thái Âm Thủ (太陰首), Nguyệt Bộc Lực (月勃力); hình tượng nữa thân phải lộ ra khỏi mây, tay phải để ngang ngực, tay trái đưa lên cao; hay hình có khuôn mặt giận dữ, khỏa thể một nữa ẩn trong đám mây đen; hoặc hình tướng giận dữ có 3 mặt, trên mỗi mặt có 3 con rắn, từ ngực trở xuống ẩn trong mây. Trong đồ hình Bắc Đẩu Mạn Trà La thân hình vị này có màu đỏ, 3 mặt và 4 tay, tóc dựng ngược, mang áo và mũ trời, chân trái duỗi ra và cỡi lên con rồng. Ngoài ra còn có hình tượng tay phải ẩn trong đầu rồng, cầm lỗ tai con thỏ, tay trái cầm cương rồng và tóc người).
Trong Tân Đường Thư Lịch Chí (新唐書曆志) quyển 18 có ghi rằng vào năm thứ 6 (718) niên hiệu Khai Nguyên (開元) đời vua Huyền Tông, Thái Sử Giám Cù Đàm Tất Đạt (太史監瞿曇悉達) vâng chiếu phiên dịch Lịch Cửu Diệu; nó cũng tương tự với loại lịch Thái Dương bằng tiếng Phạn. Nếu phối hợp phương vị, Nhật Diệu thuộc về phương Sửu Dần, Nguyệt Diệu thuộc phương Tuất Hợi, Hỏa Diệu thuộc phương Nam, Thủy Diệu là phương Bắc, Mộc Diệu ở phương Đông, Kim Diệu ở phương Tây, Thổ Diệu ở trung ương, La Hầu ở phương Thìn Tỵ (Đông Bắc), Kế Đô thuộc phương Mùi Thân (Tây Nam). Hơn nữa, theo Thuyết Bản Địa của Nhật Bản, Nhật Diệu là Quan Âm (觀音, hay Hư Không Tạng [虛空藏]), Nguyệt Diệu là Thế Chí (勢至, hay Thiên Thủ Quan Âm [千手觀音]), Hỏa Diệu là Bảo Sanh Phật (寳生佛, hay A Rô Ca Quan Âm [阿嚕迦觀音]), Thủy Diệu là Vi Diệu Trang Nghiêm Thân Phật (微妙莊嚴身佛, hay Thủy Diện Quan Âm [水面觀音]), Mộc Diệu là Dược Sư Phật (藥師佛, hay Mã Đầu Quan Âm [馬頭觀音]), Kim Diệu là A Di Đà Phật (阿彌陀佛, hay Bất Không Quyên Sách [不空羂索]), Thổ Diệu là Tỳ Lô Giá Na Phật (毘盧遮那佛, hay Thập Nhất Diện Quan Âm [十一面觀音]), La Hầu là Tỳ Bà Thi Phật (毘婆尸佛), Kế Đô là Bất Không Quyên Sách (不空羂索). Người xưa thường phối hợp Cửu Diệu này với tuổi tác của con người để phán đoán tốt xấu.
(東極青華大帝): còn gọi là Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (青玄九陽上帝), là hóa thân của Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), tức Mộc Công (木公) hay Đoàn Hoa Mộc Công, ngự tại Đông Cực (東極). Hậu thế thường cho là Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế và Đông Hoa Đế Quân có cùng nguyên khí hóa hợp; nhưng thực thế thì Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến Đông Vương Công (東王公). Vương Công tức là Mộc Công, hay Đông Hoàng Thái Ất (東皇太乙), cùng với Tây Vương Mẫu (西王母) quản lý hai khí, phân thành âm dương, định ra càn khôn; về sau hóa thành Đông Hoa Đại Đế (東華大帝) và Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊). Khí của Thanh Hoa Đại Đế hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, thệ nguyện cứu độ chúng sanh, nên được tôn xưng là “Vạn Vị Đế Chúa Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế (萬彙帝主東極青華大帝)”, thuộc vào một trong Tứ Ngự của Đạo Giáo. Ngài Cứu Khổ Thiên Tôn cùng với Chu Lăng Thiên Tôn (朱陵天尊) và Độ Mạng Thiên Tôn (度命天尊) được gọi là Thái Ất Tam Cứu Khổ, là vị thần chủ tể tối cao cứu độ vạn loại. Sau khi biến hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế lại ứng hóa khắp mười phương, nên có hiệu là “Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (十方救苦天尊).” Chư vị Thiên Tôn trong 10 phương có hiệu là: Đông Phương Bảo Hoàng Thượng Thiên Tôn (東方寶皇上天尊), Nam Phương Huyền Chơn Vạn Phước Thiên Tôn (南方玄眞萬福天尊), Tây Phương Thái Diệu Chí Cực Thiên Tôn (西方太妙至極天尊), Bắc Phương Huyền Thượng Ngọc Thần Thiên Tôn (北方玄上玉宸天尊), Đông Nam Phương Hiếu Sanh Độ Thiên Tôn (東南方好生度天尊), Đông Bắc Phương Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn (東北方度仙上聖天尊), Tây Nam Phương Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn (西南方太靈虛皇天尊), Tây Bắc Phương Vô Lượng Thái Hoa Thiên Tôn (西北方無量太華天尊), Thượng Phương Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn (上方玉虛明皇天尊) và Hạ Phương Chơn Hoàng Động Thần Thiên Tôn (下方眞皇洞神天尊); được gọi chung là Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寶十方救苦天尊). Vị Thiên Tôn này còn quản lý luôn cả việc thần quỷ dưới Minh Phủ, hóa thành Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) như: Đông Phương Thiên Tôn hóa thành Tần Quảng Vương (秦廣王) của điện thứ nhất, cư trú ở Huyền Minh Cung (玄冥宮); Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Sở Giang Vương (楚江王) của điện thứ hai, cư tại Phổ Minh Cung (普明宮); Tây Phương Thiên Tôn hóa thành Tống Đế Vương (宋帝王) của điện thứ ba, cư tại Củ Tuyệt Cung (糾絕宮); Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Ngũ Quan Vương (五官王) của điện thứ tư, cư tại Thái Hòa Cung (太和宮); Đông Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Diêm La Vương (閻羅王) của điện thứ năm, cư tại Củ Luân Cung (糾倫宮); Đông Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Biện Thành Vương (卞城王) của điện thứ sáu, cư tại Minh Thần Cung (明晨宮); Tây Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Thái Sơn Vương (泰山王) của điện thứ bảy, cư tại Thần Hoa Cung (神華宮); Tây Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Bình Đẳng Vương (平等王) của điện thứ tám, cư tại Thất Phi Cung (七非宮); Thượng Phương Thiên Tôn hóa thành Đô Thị Vương (都市王) của điện thứ chín, cư tại Bích Chơn Cung (碧眞宮); và Hạ Phương Thiên Tôn hóa thành Chuyển Luân Vương (轉輪王) của điện thứ mười, cư tại Túc Anh Cung (肅英宮). Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn có đầy đủ thần lực tự tại, sức trí tuệ lớn vô lượng, thường giải ách nạn, phá tà, hàng ma, cũng như giải trừ hết thảy bệnh tật cho con người; cho nên cũng có tên là Thái Ất Y Vương (太乙醫王). Ngài có đủ sức thần thông nên có thể ngao du khắp nơi như lên trời, xuống cõi người, Địa Phủ, v.v. Vì vậy, trên Trời Ngài có tên là Thái Nhất Phước Thần (太一福神), trên đời gọi là Đại Từ Nhân Giả (大慈仁者), dưới lòng đất là Nhật Diệu Địa Quân (日耀地君), nơi chỗ ngoại đạo là Sư Tử Minh Vương (獅子明王), dưới Thủy Phủ là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君). Ngài thường hóa hiện các thân hình, theo âm thanh để cứu độ chúng sanh, nên cũng được gọi là Thái Ất Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙尋聲救苦天尊). Trong Tống Sử (宋史), phần Phương Kỷ Truyện Hạ (方技傳下), Lâm Linh Tố (林靈素) có câu: “Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương giả, Thượng Đế chi trưởng tử, kỳ đệ hiệu Thanh Hoa Đế Quân giả, chủ Đông phương (神霄玉清王者、上帝之長子、其弟號青華帝君者、主東方, Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương là trưởng tử của Thượng Đế, em trai ông hiệu Thanh Hoa Đế Quân, chủ quản phương Đông).” Hay như trong bài thơ Bộ Hư (步虛) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bán túy kỵ nhất hạc, khứ yết Thanh Hoa Quân (半醉騎一鶴、去謁青華君, nữa say cỡi con hạc, đến yết Thanh Hoa Quân).” Trong Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh (太上無極大道三十六部尊經) có câu kính lễ rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, Thất Bảo phương khiên lâm, Cửu Sắc Liên Hoa tòa, vạn chơn hoàn củng nội, bách ức thoại quang trung, Ngọc Thanh Linh Bảo Tôn, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Thập Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Ức Ức Kiếp Trung, Độ Nhân Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (志心皈命禮、青華長樂界、東極妙嚴宮、七寶芳騫林、九色蓮花座、萬真環拱內、百億瑞光中、玉清靈寶尊、應化玄元始、號劫垂慈濟、大千甘露門、妙道眞身、紫金瑞相、隨機赴感、誓願無邊、大聖大慈、大悲大願、十方化號、普度眾生、億億劫中、度人無量、尋聲赴感、太乙救苦天尊、青玄九陽上帝, Một lòng quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, rừng hương thơm Bảy Báu, tòa Hoa Sen Chín Sắc, vạn loài đều củng phục, trong trăm ức hào quang, Đấng Ngọc Thanh Linh Bảo, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Mười Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Trong Muôn Ức Kiếp, Độ Người Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế).” Ngày thánh đản của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là 11 tháng 11 Âm Lịch.
(日導, Nichidō, 1724-1789): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Đạo (日導), Vinh Nhã (榮雅), Nhật Thâm (日深); thông xưng là Cương Yếu Đạo Sư (綱要導師), tự Trí Khê (智溪), hiệu Nhất Diệu Viện (一妙院), xuất thân Kumamoto-ken (熊本縣). Ông theo học trường Trung Thôn Đàn Lâm (中村檀林) ở Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), rồi phê phán chương trình học của trường có tính thiên nặng về Thiên Thai Học. Ông cùng với nhóm bạn Nhật Long (日龍), Nhật Đáo (日到), Nhật Nghĩa (日義), Nhật Phương (日芳) cùng thệ ước với nhau sẽ phục hưng giáo học tông môn. Sau đó, ông làm trú trì đời thứ 10 của Huệ Quang Tự (慧光寺) ở Giang Hộ. Vào năm 1785, ông lấy bộ Quán Tâm Bổn Tôn Sao (觀心本尊抄) của Nhật Liên làm cơ sở để viết nên bộ Tổ Thư Cương Yếu (祖書綱要). Năm sau, ông làm trú trì đời thứ 21 của Bổn Diệu Tự (本妙寺) ở Hùng Bổn (熊本, Kumamoto), Phì Hậu (肥後, Higo). Trước tác của ông có khá nhiều như Tổ Thư Cương Yếu (祖書綱要) 23 quyển, Pháp Hoa Tức Thân Thành Phật Nghĩa (法華卽身成佛義) 1 quyển, Thảo Mộc Thành Phật Ký (草木成佛記) 1 quyển, Tứ Chủng Tam Đoạn Sao (四種三段抄) 1 quyển, Tài Đoạn Cảm Thuyết (裁斷感說) 1 quyển, v.v.
(日妙, Nichimyō, ?-1502): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Diệu (日妙); hiệu Pháp Tịnh Viện (法淨院); xuất thân vùng Yamanashi-ken (山梨縣). Năm lên 18 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Triêu (日朝), vị Tổ đời thứ 11 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji). Ông vốn có chí muốn truyền bá Kinh Pháp Hoa, nên giữa đường lên kinh đô thì sáng lập ra Pháp Liên Tự (法蓮寺) ở vùng Vĩ Trương (尾張, Owari).
(日光遍照): xem Nhật Diệu (日耀) bên trên.
(s: tri-ratna, ratna-traya, p: ti-ratana, ratanattaya, j: sampō, 三寶): chỉ cho ba ngôi báu, gồm Phật Bảo (佛寶), Pháp Bảo (法寶) và Tăng Bảo (僧寶), mà một tín đồ Phật Giáo cần phải tôn kính, cúng dường; còn gọi là Tam Tôn (三尊). (1) Phật (s, p: buddha, 佛), chỉ cho đấng tự giác ngộ mình và làm cho người khác giác ngộ, là vị giáo chủ phật giáo có thể dạy đỗ, hướng dẫn người khác; hoặc chỉ chung cho chư Phật. (2) Pháp (s: dharma, p: dhamma, 法), là giáo pháp, lời dạy được đức Phật giác ngộ và tuyên thuyết cho người khác. (3) Tăng (s, p: saṅgha, 僧), chỉ cho tập đoàn đệ tử của đức Phật chuyên hành tì, tu tập giáo pháp của Ngài. Thường giáo đoàn này phải 3 người trở lên mới được gọi là Tăng. Ba ngôi báu này có uy đức rất cao tột, vĩnh viễn không thay đổi, giống như bảo vật trên đời, nên có tên là Tam Bảo. Cứu Cánh Nhất Thừa Thật Tánh Luận (究竟一乘寶性論, Taishō Vol. 31, No. 1611) quyển 2 có nêu ra 6 nghĩa của Tam Bảo: (1) Hy hữu, hiếm có, nghĩa rằng ba ngôi này trãi qua trăm ngàn vạn kiếp khó mà găp được, giống như trân bảo trên thế gian vậy. (2) Minh tịnh, trong sạch, nghĩa là ba ngôi báu này xa lìa hết thảy các pháp Hữu Lậu (s: sāsava, p: sāsrava, 有漏); nên không nhơ nhớp mà trong sạch. (3) Có thế lực, nghĩa là ba ngôi báu này đầy đủ năng lực oai đức tự tại không thể nghĩa bàn. (4) Trang nghiêm, nghĩa là ba ngôi báu này có thể trang nghiêm cõi xuất thế gian; giống như các bảo vật có thể làm trang nghiêm thế gian vậy. (5) Tối thắng, nghĩa là trong các pháp xuất thế gian, ba ngôi báu này là pháp vượt hơn hết tất cả. (6) Bất biến, không thay đổi, nghĩa là ba ngôi báu này là pháp Vô Lậu (s: anāsrava, p: anāsava, 無漏), không bị Tám Pháp của thế gian làm cho lay động, thay đổi. Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (大乘法苑義林章, Taishō Vol. 45, No. 1861) quyển 6 lại đưa ra 4 nghĩa khác để làm sáng tỏ nguyên do sáng lập Tam Bảo: (1) Tà Tam Bảo (邪三寶) để đối trị ngoại đạo, nghĩa là phản tà quy chánh. (2) Đức Phật là bậc thầy điều ngự, Pháp là giáo pháp của vị thầy đó, Tăng là học trò của thầy đó. Sự chứng đắc của ba ngôi này là vô lượng, chủng loại giống nhau, nên hợp thành một pháp; nhưng vì nhân quả chứng đắc có khác nhau, nên phân thành thầy trò. (3) Người thượng căn muốn chứng quả Bồ Đề của Phật, nên gọi đó là Phật Bảo; người trung căn muốn cầu trí tự nhiên mà liễu đạt pháp nhân duyên, nên gọi đó là Pháp Bảo; người hạ căn nương vào thầy thọ pháp, lý sự không sai khác, nên gọi đó là Tăng Bảo. (4) Đức Phật như vị lương y, Pháp như phương thuốc mầu nhiệm; Tăng giống như người khán bệnh; đối với người bệnh mà nói thì vị lương y, phương thuốc mầu nhiệm và người khán bệnh không thể nào thiếu được. Trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) có đoạn: “Hựu phàm vi lễ bái, tất tu tiên kính Tam Bảo, Tam Bảo thị tối thắng cát tường, lương hựu phước điền, năng tiêu chúng sanh nghiệp cấu (又凡爲禮拜、必須先敬三寶、三寶是最勝吉祥、良祐福田、能消眾生業垢, lại phàm là lễ lạy, tất nên trước kính trọng Tam Bảo, Tam Bảo là điều tốt lành trên hết, là ruộng phước phù hộ tốt, có thể tiêu trừ nghiệp cấu của chúng sanh).” Hay trong Quy Giới Yếu Tập (歸戒要集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1129) quyển 1 cũng có đoạn: “Phù Tam Bảo giả, tánh tướng thường trụ, thể châu pháp giới, tiếp vật ứng cơ, như Nhật Diệu ư thiên giang, vi thế chu hàng (夫三寶者、性相常住、體周法界、接物應機、如日曜於千江、爲世舟航, phàm ba ngôi báu, tánh tướng thường trụ, thể khắp pháp giới, theo vật ứng cơ, như mặt trời tỏa sáng nơi ngàn sông, làm thuyền bè cho thế gian).”
(水府): nơi Thủy Thần trú ngụ. Ở Trung Quốc có Thủy Phủ Miếu (水府廟) được kiến lập vào năm thứ 12 (207) niên hiệu Kiến An (建安), cách 1.5 dặm về phía nam Thôn Trương Doanh (張營村), Làng Thành Giao (城郊鄉), Huyện Tân Dã (新野縣). Tương truyền, lúc bấy giờ Lưu Bị (劉僃) đang đóng binh tại Tân Dã (新野) để chiêu hiền nạp sĩ, sau ba lần đến thảo lư và cuối cùng mời được Gia Cát Lượng (諸葛亮) ra làm phụ tá. Khi Gia Cát Lượng tiến hành khảo sát địa lý quân sự vùng Tân Dã, phát hiện ra có hình dáng lưng con thủy xà (rắn nước) cách 3 dặm về phía nam Thành Tân Dã, lại gặp nước song tràn lên quá bờ đê, làm cho bá tánh phải khổ sở vì nạn nước lũ. Gia Cát Lượng đích thân thiết kế phương án trị thủy, động viên toàn quân dân cải cách đường sông, làm cho kiên cố đê điều và cho thiết lập một bến đò tại đây (tức Bến Đò Hán Tân [漢津碼頭]) để trấn thủy và đề phòng thủy tai. Người dân vùng này lại kiến lập một quần thể miếu điện ở phía đông bắc bến đò này trong vòng nửa năm trường, lấy tên là Thủy Phủ Miếu. Dưới thời nhà Đường và Tống, nơi đây trở thành trung tâm lưu thông các thương phẩm quan trọng của địa khu Trung Nguyên và trung tâm giao lưu văn hóa phồn thịnh. Đến thời nhà Minh, phần lớn các kiến trúc bị hư hại do binh hỏa. Bên trong điện có tôn thờ 58 tượng các vị thần như Thần Sông (河神), Ngọc Hoàng (玉皇), v.v. Mỗi năm những hoạt động tôn giáo quan trọng của khu miếu này có Miếu Hội vào ngày mồng 8 tháng 4, tế tự vào ngày mồng 3 tháng 3 Âm Lịch, v.v. Ngoài ra, theo tín ngưỡng của Đạo Mẫu ở Việt Nam, Thủy Phủ (miền sông nước) là một trong Tứ Phủ, do mẫu đệ tam (Mẫu Thoải) trị vì. Trong truyện cổ tích của Việt Nam có câu chuyện Kinh Dương Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình, sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân. Trong Thái Bình Quảng Ký (太平廣記) quyển 152, phần Trịnh Đức Cự (鄭德苣) có câu: “Vi thị nãi ngộ, khủng quý, chiêu Tẩu đăng thuyền, bái nhi tấn tửu quả, khấu đầu viết: 'Ngô chi phụ mẫu, đương tại Thủy Phủ, khả tỉnh cận phủ ?' (韋氏乃悟、恐悸、召叟登舟、拜而進酒果、叩頭曰、吾之父母、當在水府、可省覲否, Họ Vi bèn tỉnh ngộ, sợ mà động lòng, mời Tẩu lên thuyền, lạy và dâng rượu quả, cúi đầu thưa: 'Cha mẹ tôi đang ở tại Thủy Phủ, liệu có thể thức tỉnh mà thân cận chăng ?').” Hay như trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經) của Đạo Giáo lại có đoạn: “Thiên Tôn ngôn: 'Thiên hạ chúng sanh, giang hà hồ hải, chu hàng thương cổ, phong ba hung dũng, kinh hoàng ưu cụ; nhược tụng thử kinh, quy y thiên địa Thủy Quan, Thủy Phủ chúng Thánh, tức sử phong điềm lãng tĩnh, thủy đồ an thỏa' (天尊言、天下眾生、江河湖海、舟航商賈、風波洶湧、驚惶憂懼、若誦此經、皈依天地水官、水府眾聖、卽使風恬浪靜、水途安妥, Thiên Tôn dạy rằng: 'Chúng sanh trong thiên hạ, sông nước hồ biển, thuyền bè buôn bán, sóng gió ầm ầm, kinh hoàng hãi sợ; nếu tụng kinh này, quy y thiên địa Thủy Quan, các bậc Thánh của Thủy Phủ, tức sẽ khiến cho gió yên sóng lặng, đường thủy yên ổn).” Hoặc trong Thái Nhất Cứu Khổ Hộ Thân Diệu Kinh (太一救苦護身妙經) của Đạo Giáo cho rằng Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊) ở dưới Thủy Phủ thì được gọi là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君): “Thử Thánh tại thiên hô vi Thái Nhất Phước Thần, tại thế hô vi Đại Từ Hành Giả, tại Địa Ngục hô vi Nhật Diệu Đế Quân, tại ngoại đạo nhiếp tà hô vi Sư Tử Minh Vương, tại Thủy Phủ hô vi Động Uyên Đế Quân (此聖在天呼爲太一福神、在世呼爲大慈行者、在地獄呼爲日耀帝君、在外道攝邪呼爲獅子明王、在水府呼爲洞淵帝君, vị Thánh này ở trên trời được gọi là Thái Nhất Phước Thần, trên thế gian được gọi là Đại Từ Hành Giả, dưới Địa Ngục được gọi là Nhật Diệu Đế Quân, nơi ngoại đạo trừ tà được gọi là Sư Tử Minh Vương, dưới Thủy Phủ được gọi là Động Uyên Đế Quân).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập