Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhất chơn »»
(開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立地數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼、次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾爲余依不空譯、寫准提像於藥山園中、開光之日、忽有骨董家、以准提眞言梵書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、來助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列、爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷勝祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以敬于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福道塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相、獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、消五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野薩嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩賀)”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩曳吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)”; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)”; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)”; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)”; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩賀)” và “Án, nễ đát ra ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.
(s: go-ratha, 牛車): xe trâu, tên gọi của một trong 3 xe hay 4 xe. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) quyển 2, Phẩm Thí Dụ (譬喻品) có nêu ra 3 loại xe: dê, nai, trâu và Đại Bạch Ngưu Xa (大白牛車, xe trâu trắng lớn); xe trâu tỷ dụ cho Bồ Tát Thừa (s: bodhisattva-yāna, 菩薩乘). Như trong Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú (釋迦如來成道記註) quyển hạ do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường soạn, Huệ Ngộ Đại Sư (慧悟大師) ở Nguyệt Luân Sơn (月輪山), vùng Tiền Đường (錢唐) chú giải, có đoạn rằng: “Pháp Hoa Kinh Tam Xa dụ dã, Dương Xa dụ Thanh Văn Thừa, Lộc Xa dụ Duyên Giác Thừa, Ngưu Xa dụ Bồ Tát Thừa; Tam Thừa câu dĩ vận tải vi nghĩa; tiền Nhị Thừa thị phương tiện thi thiết, duy Đại Bạch Ngưu Xa thị thật (法華經三車喻也、羊車喻聲聞乘、鹿車喻緣覺乘、牛車喻菩薩乘、三乘俱以運載爲義、前二乘是方便施設、惟大白牛車是實, về thí dụ Ba Xe của Kinh Pháp Hoa, Xe Dê ví cho Thanh Văn Thừa, Xe Nai ví cho Duyên Giác Thừa, Xe Trâu ví cho Bồ Tát Thừa; cả Ba Thừa đều có nghĩa vận tải; Hai Thừa đầu là phương tiện đặt ra, chỉ có Xe Trâu Trắng Lớn là thật).” Hay trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ (大佛頂首楞嚴經正脈疏) quyển 17 do Giao Quang Đại Sư (交光大師) nhà Minh (1368-1662) thuật, có giải thích về Nhất Thừa rằng: “Nhất Thừa giả, Nhất Phật Thừa dã; tức Pháp Hoa Đại Bạch Ngưu Xa, tịch diệt trường địa, tức bản giác quả thể, vạn vọng bản không, Nhất chơn thanh tịnh (一乘者、一佛乘也、卽法華大白牛車、寂滅塲地、卽本覺果體、萬妄本空、一眞清淨, Nhất Thừa là Nhất Phật Thừa; tức là Xe Trâu Trắng Lớn của Kinh Pháp Hoa, là đạo tràng vắng lặng, tức là thể quả của bản giác, mọi hư vọng vốn không, nguồn chơn thanh tịnh).” Hoặc như trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Liệt Cương Sớ (大乘起信論裂網疏, Taishō No. 1850) quyển 1 do Linh Phong Ngẫu Ích Sa Môn Trí Húc (靈峰蕅益沙門智旭, 1599-1655) soạn, có đoạn: “Thỉ tùng danh tự, vận chí quán hành, nãi chí cứu cánh, tự vận công tất, vận tha bất hưu, danh vi Đại Bạch Ngưu Xa, kim ngôn Đại Thừa, chánh chỉ Đại Bạch Ngưu Xa, giản phi môn ngoại Tam Xa cố dã (始從名字、運至觀行、乃至究竟、自運功畢、運他不休、名爲大白牛車、今言大乘、正指大白牛車、揀非門外三車故也, ban đầu từ danh từ, vận chuyển đến quán sát và thực hành, cho đến cứu cánh; công phu tự vận chuyển mình xong, vận chuyển người khác chẳng ngừng nghỉ, đó gọi là Xe Trâu Trắng Lớn; nay nói Đại Thừa [cỗ xe lớn], chính là chỉ cho Xe Trâu Trắng Lớn; chẳng phải là ba cỗ xe ngoài cửa kia).”
(s: eka-citta, 一心): chỉ cho chơn như, tâm Như Lai Tạng (s: tathāgata-garbha, 如來藏); tức là nguyên lý căn bản của vũ trụ, tâm tánh tuyệt đối không hai. Như trong Nhập Lăng Già Kinh (入楞伽經, Taishō Vol. 16, No. 671) quyển 1, Phẩm Thỉnh Phật (請佛品) thứ nhất, có câu: “Tịch diệt giả danh vi nhất tâm, nhất tâm giả danh vi Như Lai Tạng (寂滅者名爲一心、一心者名爲如來藏, vắng lặng gọi là nhất tâm, nhất tâm gọi là Như Lai Tạng).” Trong Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao (華嚴經行願品疏鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 5, No. 229) quyển 2, Tông Mật (宗密, 780-841) lấy nhất tâm phối với 5 trường phái để giải thích: (1) Giả Thuyết Nhất Tâm (假說一心), hành giả Phật Giáo Nguyên Thủy thừa nhận rằng ngoài tâm ra còn tồn tại một ngoại cảnh khác, cho nên tâm có danh mà không thật. (2) Sự Nhất Tâm (事一心), chính là A Lại Da Thức (s: ālaya-vijñāna, p: ālaya-viññāṇa, 阿賴耶識) dị thục do Đại Thừa Quyền Giáo (大乘權敎) đề cập đến. (3) Nhất tâm sự lý vô ngại, tức là Tàng Thức (藏識) của Như Lai Tạng do Đại Thừa Thật Giáo (大乘實敎) đề cập đến. (4) Nhất tâm tuyệt đối, là cảnh giới siêu việt cả ô nhiễm lẫn trong sạch được đề xướng trong Đại Thừa Đốn Giáo (大乘頓敎). (5) Nhất tâm bao hàm cả vạn hữu; là cảnh giới xả tận vạn hữu của Biệt Giáo Nhất Thừa (別敎一乘); nên gọi nhất tâm là Nhất chơn Pháp Giới (一眞法界) hay Nhất Tâm Pháp Giới (一心法界), nghĩa là nhất tâm không ngoài bản thể vũ trụ. Trong khi đó, Thiên Thai Tông thì đưa ra thuyết Nhất Tâm Tam Quán (一心三觀), Nhất Niệm Tam Thiên (一念三千). Duy Thức Tông lấy Căn Bản Thức (s: mūla-vijñāna, 根本識) duy nhất là nhất tâm, chỉ cho tâm năng biến của vạn hữu, tức là A Lại Da Thức. Ngoài ra, Chuyên chú vào một đối tượng nào đó, không sanh khởi vọng niệm, được gọi là nhất tâm. Cho nên, chuyên tâm niệm Phật cũng được gọi là nhất tâm chuyên niệm. Theo thuyết của Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360), nhất tâm có đủ 3 yếu tố chính là chí tâm (至心, một lòng, dốc hết lòng), tín nhạo (信樂, tin tưởng và vui vẻ) và dục sanh ngã quốc (欲生我國, muốn sanh về nước ta). Bên cạnh đó, Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō Vol. 12, No. 365) thì cho rằng nhất tâm có 3 loại là chí thành tâm (至誠心), thâm tâm (深心), hồi hướng phát nguyện tâm (迴向發願心); đồng nghĩa với “nhất tâm bất loạn (一心不亂)” trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh (佛說阿彌陀經, Taishō Vol. 12, No. 366). Trong Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (金剛三昧經論, Taishō Vol. 34, No. 1730) do Sa Môn Nguyên Hiểu (元曉, 617-?), học tăng của Hoa Nghiêm Tông, người Tân La (新羅, Triều Tiên) trước thuật, giải thích rằng: “Phù nhất tâm chi nguyên ly hữu vô nhi độc tịnh, Tam Không chi hải dung chơn tục nhi trạm nhiên (夫一心之源離有無而獨淨、三空之海融眞俗而湛然, phàm nguồn của nhất tâm lìa có không mà thuần sạch, biển của Ba Không dung chứa cả chân lẫn tục mà lắng trong).” Trong Tây Quy Hành Nghi (西歸行儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1468), phần Vãng Sanh Tịnh Độ Thập Niệm Pháp Môn (往生淨土十念法門), có đoạn: “Nhất tâm quy mạng, Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật, nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã, từ thệ nhiếp ngã, ngã kim chánh niệm, xưng Như Lai danh, vị Bồ Đề đạo, cầu sanh Tịnh Độ (一心歸命、極樂世界、阿彌陀佛、願以淨光照我、慈誓攝我、我今正念、稱如來名、經十念頃、爲菩提道、求生淨土, một lòng quy mạng, Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật, nguyện lấy hào quang chiếu con, từ bi nhận con, con nay chánh niệm, gọi tên Như Lai, vì đạo Bồ Đề, cầu sanh Tịnh Độ).”
(二諦): chỉ cho Chơn Đế và Tục Đế. Đế (諦) là lý chân thật bất hư. Chơn Đế (s: paramārtha-satya, p: paramattha-sacca, 眞諦), còn gọi là Thắng Nghĩa Đế (勝義諦), là chân lý của xuất thế gian. Tục Đế (s: saṃvṛti-satya, p: sammuti-sacca, 俗諦), còn gọi là Thế Tục Đế (世俗諦), Thế Đế (世諦); tức là chân lý thế gian. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 4 cho rằng việc thế tục che trùm chân lý thế gian, nên Tục Đế được dịch là Phú Tục Đế (覆俗諦). Ý nghĩa của Nhị Đế được thuyết trong các kinh điển không thống nhất với nhau. Tùy theo kinh điển mà tên gọi của Nhị Đế cũng khác nhau. Như Niết Bàn Kinh (涅槃經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Đại Trí Độ Luận (大智度論), Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章), v.v., thì gọi là Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦). Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh Luận (金剛般若波羅蜜經破取著不壞假名論), Thành Thật Luận (成實論) thì gọi là Chơn Đế và Tục Đế. Trong khi đó, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經), Du Già Luận (瑜伽論), Duy Thức Luận (唯識論) thì gọi là Tục Đế và Thắng Nghĩa Đế. Trong đó, từ Chơn Đế và Tục Đế là thịnh hành nhất. Pháp của Nhị Đế cũng được diễn đạt khác nhau tùy theo các tông phái. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義, Taishō Vol. 33, No. 1716) quyển 2 cho rằng: “Phù Nhị Đế giả, danh xuất chúng kinh, nhi kỳ lý nan hiểu, thế gian phân vân, do lai thạc tranh (夫二諦者、名出眾經、而其理難曉、世間紛紜、由來碩諍, phàm Nhị Đế, tên có khắp trong các kinh, nhưng lý của nó khó hiểu, thế gian phân vân, tranh luận sôi nỗi xuất xứ của nó).” Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 24 của phái Nam Sơn lại liệt Nhị Đế thuộc vào dị thuyết của xưa nay. Trong khi đó, qua Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) 1, Pháp Sư Tịnh Ảnh Huệ Viễn (淨影慧遠, 523-592) thì giải thích rằng: “Đệ tứ tông trung, phân vi Nhị Đế, thể vi Chơn Đế, dụng vi Tục Đế (第四宗中、分爲二諦、體爲眞諦、用爲世諦, trong tông thứ tư, chia thành Hai Đế, thể là Chơn Đế, dụng là Tục Đế).” Đại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa (大乘四論玄義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 46, No. 784) quyển 5 định nghĩa Nhị Đế là: “Cái thị Pháp Tánh chi chỉ quy, Nhất chơn Bất Nhị chi cực lý dã (蓋是法性之旨歸、一眞不二之極理也, vốn là yếu chỉ quy nguyên của Pháp Tánh, là lý tột cùng của nguồn chơn Không Hai).” Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 82 cho rằng: “Đắc nhập Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhã hải, danh Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế quán (得入中道、雙照二諦、心心寂滅、自然流入薩婆若海、名中道第一義諦觀, vào được Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên trôi nhập vào biển hết thảy chủng trí, ấy gọi là quán Nghĩa Đế Thứ Nhất của Trung Đạo).” Hay trong Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 1 lại ghi rằng: “Chí ư Nhất Thừa Nhị Đế chi nguyên, Tam Minh Lục Thông chi chỉ, Tây Vức bị tường, Đông Độ mĩ ký (至於一乘二諦之原、三明六通之旨、西域僃詳、東土靡記, cho đến nguồn gốc của Một Thừa, Hai Đế; ý chỉ của Ba Trí, Sáu Thần Thông, Tây Vức [Ấn Độ] thì giải thích đầy đủ, còn Đông Độ [Trung Hoa] thì không ghi gì cả).” Trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) hay Lễ Xá Lợi Tháp Nghi Thức (禮舍利塔儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1491) có đoạn: “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, hồi hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp cập Tăng Già, Nhị Đế dung thông Tam Muội Ấn, như thị vô lượng công đức hải, ngã kim giai tất tận hồi hướng (願將以此勝功德、迴向無上眞法界、性相佛法及僧伽、二諦融通三昧印、如是無量功德海、我今皆悉盡迴向, nguyện lấy công đức thù thắng này, hối hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp và Tăng Già, Hai Đế dung thông Tam Muội Ấn, như vậy vô lượng công đức biển, con nay đều xin hồi hướng thảy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.31 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập