Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Chân »»
(日奥, Nichiō, 1565-1630): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, Tổ của Phái Không Nhận Không Cho thuộc Nhật Liên Tông, húy là Nhật Áo (日奥), Nhật Chân (日甄); tự là Giáo Anh (敎英); hiệu Phật Tánh Viện (佛性院), An Quốc Viện (安國院); xuất thân vùng Kyoto. Lúc còn nhỏ, ông đã theo hầu Nhật Điển (日典) ở Diệu Giác Tự (妙覺寺) trên kinh đô Kyoto; rồi đến năm 28 tuổi thì làm trú trì đời thứ 19 của chùa này. Vào năm 1595, trong dịp Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) tổ chức lễ cúng dường cho ngàn vị tăng ở ngay tại Chánh Điện của Phương Quảng Tự (方廣寺), ông chủ trương chính sách Không Nhận Không Cho và không đến tham dự lễ cúng dường này. Chính ông đã đối lập với nhóm Nhật Trùng (日重) ở Bổn Mãn Tự (本滿寺) chung quanh việc nhận và không nhận; rồi đến năm 1599, trong cuộc đối luận ở Thành Đại Phản (大阪城, Ōsaka-jō), ông bị xử tội cho ngựa kéo. Vào năm 1612, sau khi được tha tội, ông lại luận tranh với Nhật Càn (日乾) ở Thân Diên Sơn (身延山). Đến năm 1630, trong cuộc luận tranh ở Thân Trì (身池), Phái Không Nhận Không Cho bị đại bại. Sau khi Nhật Áo qua đời, tương truyền rằng thi hài của ông vẫn bị đem ra tra tấn vì tội luận tranh này. Trước tác của ông có Tông Nghĩa Chế Pháp Luận (宗義制法論) 3 quyển, Thủ Hộ Chánh Nghĩa Luận (守護正義論) 1 quyển, Cấm Đoán Báng Thí Luận (禁斷謗施論) 1 quyển, Gián Hiểu Thần Minh Ký (諫曉神明記) 1 quyển.
(日進, Nisshin, 1271-1346): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tâm (日心), Nhật Chân (日眞), Nhật Tấn (日進); thông xưng là Đại Tấn Công (大進公), Tam Vị Công (三位公), Đại Tấn A Xà Lê (大進阿闍梨); hiệu là Đại Tấn Viện (大進院); xuất thân vùng Cát Sức (葛飾, Katsushika), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), con thứ 2 của Tằng Cốc Thứ Lang Vệ Binh Úy Giáo Tín (曾谷次郎衛兵尉敎信, tức Nhật Lễ [日禮]). Ông là một trong 18 vị lão tăng. Năm 1313, ông nhận lời phó chúc của Nhật Hướng (日向), trở thành vị tổ thứ 3 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở Thân Diên Sơn (身延山). Đến năm 1320, ông lên kinh đô chuyên sao chép các thư tịch Thánh giáo. Ông rất thâm giao với Nhật Hựu (日祐) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng; và mở rộng giáo tuyến khắp các vùng Thượng Tổng, Hạ Tổng thông qua những lần đi tuần hóa của ông. Trước tác của ông để lại có Tam Quốc Phật Pháp Thạnh Suy Chi Sự (三國佛法盛衰之事) 1 quyển, Phá Tịnh Độ Nghĩa Luận Pháp Hoa Chánh Nghĩa (破淨土義論法華正義) 1 quyển, Nhật Liên Thánh Nhân Ngự Hoằng Thông Thứ Đệ (日蓮上人御弘通次第), v.v.
(法席): chỗ ngồi thuyết pháp. Như trong bài Quán Thế Âm Bồ Tát Ứng Hiện Ký (觀世音菩薩應現記) của Viên Anh Đại Sư Văn Tập (圓瑛大師文集) có đoạn: “Kim Phổ Đà đảnh sơn tự Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng dĩ lai, đại khai pháp tịch, nhi hưng tiền hậu tự thành đỉnh túc chi thế, đạo phong nhật chấn (今普陀頂山自文質老和尚重興以來、大開法席、而與前後寺成鼎足之勢、道風日振, hiện tại kể từ khi Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng đỉnh núi Phổ Đà đến nay, chùa mở pháp hội lớn, làm cho phát triển trước sau, chùa trở thành thế chân vạc, đạo phong của người ngày càng vang xa).” Hay trong bài Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐, 771-853) cũng có câu: “Tỳ ni pháp tịch, tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa, khởi năng chân biệt (毘尼法席、曾未叨陪、了義上乘、豈能甄別, pháp tịch giảng dạy Luật tạng, chưa từng học hỏi thực hành, giáo lý thượng thừa liễu nghĩa, làm sao phân biệt được).” Trong tác phẩm Bảo Khánh Ký (寳慶記, Hōkeiki) của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253) có đoạn rằng: “Đạo Nguyên con hồi còn nhỏ đã phát bồ đề tâm, đến tham vấn chư sư nơi bổn quốc, mới biết được chút do lai của nhân quả. Tuy nhiên, thế mà vẫn chưa xác định rõ việc quy y theo Phật Pháp Tăng, cứ mãi bị ràng buộc trong vòng danh tướng. Sau đến tham học Thiên Quang Thiền Sư, lần đầu tiên được nghe tông phong của Lâm Tế. Nay con theo hầu Toàn Pháp Sư sang nhà Tống nầy. Biển khơi vạn dặm, phó mặc huyễn thân nầy cho sóng cả nghìn trùng. Cuối cùng mới có thể đến được nhà Đại Tống, và dự vào pháp tịch của Hòa Thượng. Có lẽ đây là điều may mắn nhất trong đời. Ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ đại bi, kẻ tiểu nhân nơi chốn xa nước ngoài đến đây, chỉ nguyện rằng chẳng kể thời quang trôi qua, không màng đầy đủ uy nghi, chỉ mong sao được thỉnh giáo ngu hoài lên phương trượng. Sống chết là việc lớn, vô thường chóng qua mau, chẳng trông đợi một ai, rời xa Thánh đạo tất ân hận một đời. Tiểu tăng Đạo Nguyên xin trăm lạy cúi đầu khẩn thỉnh.”
(三陽): Dịch Học Tượng Số thời nhà Hán lấy 12 quẻ tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Trong đó, tháng 10 là quẻ Khôn (坤卦), thuần về hào âm; tháng 11 là quẻ Phục (復卦), một dương sanh bên dưới; tháng 12 là quẻ Lâm (臨卦), hai dương sanh bên dưới; tháng Giêng là quẻ Thái (泰卦), ba dương sanh bên dưới. Lúc này âm dần tiêu, dương dần tăng trưởng, có ý là vạn sự vạn vật đều đổi mới. Cho nên, sau này người ta thường dùng từ Tam Dương khai thái (三陽開泰), Tam Dương giao thái (三陽交泰) để xưng tụng, chúc mừng đầu năm mới hoặc ngụ ý cát tường, tốt đẹp. Như trong tờ Hạ Nguyên Đán Biểu (賀元旦表) của Trương Cư Chánh (張居正, 1525-1582) nhà Minh có đoạn: “Tư giả đương Tam Dương khai thái chi hầu, chánh vạn vật xuất chấn chi thời, khí chuyển hồng quân, cọng lạc Nghiêu thiên chi hóa nhật (茲者當三陽開泰之候、正萬物出震之時、氣轉鴻鈞、共樂堯天之化日, nay gặp lúc khí tiết đầu xuân tốt đẹp, đúng phải lúc vạn vật chuyển mình, khí rung đất trời, cùng vui ngày chuyển hóa dưới trời vua Nghiêu).” Hay trong Tục Chỉ Nguyệt Lục (續指月錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1579) quyển 11 có câu: “Tam Dương giao thái, vạn vật hàm tân, hiển nhất chân chi diệu dụng, tổng tạo hóa chi uyên nguyên, trần trần hợp đạo, xứ xứ thông tân, pháp diên đại khải, giác uyển hoằng khai (三陽交泰、萬物咸新、顯一眞之妙用、總造化之淵源、塵塵合道、處處通津、法筵大啟、覺苑弘開, đầu xuân an thái, muôn vật mới toanh, lộ nguồn chơn ấy diệu dụng, thảy tạo hóa ấy uyên nguyên, nơi nơi hợp đạo, chốn chốn thấm nhuần, cỗ pháp rộng mở, vườn giác phô bày).”
(四土): còn gọi là Tứ Phật Độ (四佛土), Tứ Chủng Phật Độ (四種佛土), Tứ Chủng Tịnh Độ (四種淨土), Tứ Chủng Quốc Độ (四種國土); nghĩa là 4 loại quốc độ Phật. Có nhiều thuyết khác nhau về quan niệm này. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), Tổ sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, lập ra 4 loại Phật Độ là Phàm Thánh Đồng Cư Độ (凡聖同居土), Phương Tiện Hữu Dư Độ (方便有餘土), Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ (實報莊嚴土), Thường Tịch Quang Độ (常寂光土).
(1) Phàm Thánh Đồng Cư Độ, còn gọi là Nhiễm Tịnh Đồng Cư Độ (染淨同居土), Nhiễm Tịnh Quốc (染淨國); chỉ quốc độ cùng tồn tại chung của hạng phàm phu thuộc hai cõi Trời người và chư vị Thánh như Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺). Trong đó, cõi này được chia thành 2 loại là tịnh và uế, như thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆) là Đồng Cư Uế Độ (同居穢土), Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) là Đồng Cư Tịnh Độ (同居淨土).
(2) Phương Tiện Hữu Dư Độ, còn gọi là Phương Tiện Độ (方便土), Hữu Dư Độ (有餘土); chỉ cho quốc độ của những bậc Thánh tu đạo phương tiện, đã đoạn tận Kiến, Tư, Hoặc như Bích Chi Phật (辟支佛), A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢), v.v.; nên được gọi là phương tiện (s, p: upāya, 方便), nhưng chưa đoạn tận sự mê mờ về vô minh trần sa, mới có tên là hữu dư (有餘, vẫn còn dư, còn sót). Cõi này còn được gọi là Biến Dịch Độ (變易土).
(3) Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, còn gọi là Thật Báo Độ (實報土), Quả Báo Độ (果報土), là quốc độ của chư vị Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) đã đoạn trừ một phần của Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), không có hàng phàm phu của Hai Thừa. Đây là quốc độ tự tại vô ngại của đạo chân thật, nên có tên gọi như vậy.
(4) Thường Tịch Quang Độ, còn gọi là Lý Tánh Độ (理性土); là trú xứ của chư Phật đã đoạn tận căn bản Vô Minh, tức là quốc độ của chư Phật chứng quả Diệu Giác Cứu Cánh. Thường nghĩa là thường có Pháp Thân (s: dharma-kāya, 法身), vốn có thể thường trú; Tịch ở đây là giải thoát, tức hết thảy các tướng vĩnh viễn vắng lặng; Quang là Bát Nhã (s: prajñā, p: paññā, 般若), tức là trí tuệ chiếu soi các tướng; nên cõi này cũng là quốc độ của ba đức Thường Trú (Pháp Thân), Tịch Diệt (Giải Thoát) và Quang Minh (Bát Nhã). Ba đức này có tên là Bí Mật Tạng (秘密藏), là nơi nương tựa của chư Phật Như Lai; vì vậy mới được gọi là Thường Tịch Quang Độ.
Bên cạnh đó, Pháp Thường (法常, 567-645), Trí Nghiễm (智儼, 602-668), Đạo Tuyên (道宣, 596-667) và Huyền Uẩn (玄惲, ?-?, tức Đạo Thế [道世], người soạn bộ Pháp Uyển Châu Lâm [法苑珠林]) có lập ra Tứ Độ khác do chư Phật cư trú, gồm:
(1) Hóa Tịnh Độ (化淨土), do chư Phật biến hiện ra 7 loại báu, 5 Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc); nhờ thần lực của Phật mà mặt đất mềm mại, không có gò trũng, cát đá, v.v., giống như cõi Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc, tùy theo tâm chúng sanh muốn thấy mà hóa hiện ra; và đây cũng là quốc độ của Hóa Thân (s: nirmāṇa-kāya, 化身).
(2) Sự Tịnh Độ (事淨土), lấy 7 loại báu, 5 Trần làm hình tướng của quốc độ. Trong cõi này, có đầy đủ các loại trân bảo trang nghiêm vi diệu; giả như thế giới bị bốc lửa cháy rực, đức Như Lai trú trong đó vẫn đi kinh hành, vẫn an nhiên đi đứng nằm ngồi, cõi ấy tự nhiên từ trong đất hiện ra nước có Tám Công Đức, làm cho mát mẻ. Đây là quốc độ của Tha Thọ Dụng Thân (他受用身, tức Ứng Thân [s: nirmāṇa-kāya, 應身]).
(3) Thật Báo Tịnh Độ (實報淨土), quốc độ lấy Hai Không là cửa, Ba Tuệ làm con đường ra vào; Xa Ma Tha (s: samatha, 奢摩他, Thiền Định), Tỳ Bát Xá Na (p: vipassanā, 毘鉢舍那, Quán) làm cỗ xe; Căn Bản Vô Phân Biệt Trí (根本無分別智) làm dụng. Đây là quốc độ của Tự Thọ Dụng Thân (自受用身, tức Báo Thân [s: sambhoga-kāya, 報身]).
(4) Pháp Tánh Tịnh Độ (法性淨土), quốc độ lấy chân như làm thể, là cõi của Pháp Thân.
Ngoài ra, Duy Thức Tông lại lập ra 4 loại quốc độ khác là:
(1) Pháp Tánh Độ (法性土), còn gọi là Tự Tánh Thân Y Pháp Tánh Độ (自性法身依法性土). Tự Tánh Thân tức là Pháp Thân, lấy tự tánh chân như làm thân, thể không sai biệt, không bị sắc tướng thâu nhiếp, giống như hư không, biến khắp tất cả nơi.
(2) Tự Thọ Dụng Độ (自受用土), còn gọi là Tự Thọ Dụng Thân Y Tự Thọ Dụng Độ (自受用身依自受用土), tức là Thật Báo Độ (實報土), là do đức Phật lấy Tương Ứng Tịnh Thức (相應淨識) tu mà thành tựu nên; từ khi mới thành Phật cho đến tận cùng tương lai, liên tục biến thành quốc độ Phật thuần tịnh, chu vi không giới hạn, các loại báu trang nghiêm. Tự Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(3) Tha Thọ Dụng Độ (他受用土), còn gọi là Tha Thọ Dụng Thân Y Tha Thọ Dụng Độ (他受用身依他受用土), cũng là Thật Báo Độ. Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của các Bồ Tát trong Thập Địa (s: daśa-bhūmi, 十地) mà biến thành cõi Tịnh Độ. Tha Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(4) Biến Hóa Độ (變化土), còn gọi là Biến Hóa Thân Y Biến Hóa Độ (變化身依變化土). Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của chúng sanh có duyên mà biến hóa thành.
Trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 3 có đoạn: “Tứ Độ Liên Hoa Tứ Độ hương, độ trung các các kiến Từ Vương, Quan Âm thường hoán si nhân tỉnh, Đại Thế tần thôi liên ngạc phương, tự tại nhàn vân Tam Muội đắc, thanh u Cam Lộ nhất tâm lương (四土蓮花四土香、土中各各見慈王、觀音常喚癡人醒、大勢頻催蓮萼芳、自在閒雲三昧得、清幽甘露一心涼, Bốn Cõi Hoa Sen Bốn Cõi thơm, cõi ấy mỗi mỗi thấy Từ Vương, Quan Âm thường gọi người mê tỉnh, Thế Chí luôn bày sen ngát hương, tự tại mây nhàn Tam Muội chứng, an lành Cam Lộ tâm mát trong).” Hay trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tuyển Định Tịnh Độ Thập Yếu (靈峰蕅益大師選定淨土十要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1164) quyển 9 có câu: “Nhất chân pháp giới tánh, bất biến năng tùy duyên, Tam Thân cập Tứ Độ, tất do tâm biến khởi (一眞法界性、不變能隨緣、三身及四土、悉由心變起, tánh pháp giới nhất chân, chẳng biến thường tùy duyên, Ba Thân và Bốn Cõi, tất do tâm biến hóa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập