Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhân Vương Bát Nhã Kinh »»
(道慈, Dōji, ?-744): vị tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Đạo Từ (道慈), xuất thân vùng Đại Hòa (大和, Yamato, thuộc Nara [奈良]), họ Ngạch Điền (額田, Nukata). Ông theo học Tam Luận với Trí Tạng (智藏, Chizō) ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Pháp Tướng và Duy Thức với Nghĩa Uyên (義淵, Gien). Vào năm 701, ông sang nhà Đường cầu pháp, được tuyển chọn giảng nghĩa Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經) tại cung nội số 100 vị cao tăng. Đến năm 718, ông trở về nước và tận lực truyền bá Tam Luận Tông tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Năm 729, ông làm chức Luật Sư, tham gia vào việc xúc tiến chính sách cải cách Phật Giáo, vạch kế hoạch cung thỉnh Giới Sư, dời chuyển Đại An Tự, biên tập bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki), v.v.
(二諦): chỉ cho Chơn Đế và Tục Đế. Đế (諦) là lý chân thật bất hư. Chơn Đế (s: paramārtha-satya, p: paramattha-sacca, 眞諦), còn gọi là Thắng Nghĩa Đế (勝義諦), là chân lý của xuất thế gian. Tục Đế (s: saṃvṛti-satya, p: sammuti-sacca, 俗諦), còn gọi là Thế Tục Đế (世俗諦), Thế Đế (世諦); tức là chân lý thế gian. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 4 cho rằng việc thế tục che trùm chân lý thế gian, nên Tục Đế được dịch là Phú Tục Đế (覆俗諦). Ý nghĩa của Nhị Đế được thuyết trong các kinh điển không thống nhất với nhau. Tùy theo kinh điển mà tên gọi của Nhị Đế cũng khác nhau. Như Niết Bàn Kinh (涅槃經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Đại Trí Độ Luận (大智度論), Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章), v.v., thì gọi là Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦). Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh Luận (金剛般若波羅蜜經破取著不壞假名論), Thành Thật Luận (成實論) thì gọi là Chơn Đế và Tục Đế. Trong khi đó, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經), Du Già Luận (瑜伽論), Duy Thức Luận (唯識論) thì gọi là Tục Đế và Thắng Nghĩa Đế. Trong đó, từ Chơn Đế và Tục Đế là thịnh hành nhất. Pháp của Nhị Đế cũng được diễn đạt khác nhau tùy theo các tông phái. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義, Taishō Vol. 33, No. 1716) quyển 2 cho rằng: “Phù Nhị Đế giả, danh xuất chúng kinh, nhi kỳ lý nan hiểu, thế gian phân vân, do lai thạc tranh (夫二諦者、名出眾經、而其理難曉、世間紛紜、由來碩諍, phàm Nhị Đế, tên có khắp trong các kinh, nhưng lý của nó khó hiểu, thế gian phân vân, tranh luận sôi nỗi xuất xứ của nó).” Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 24 của phái Nam Sơn lại liệt Nhị Đế thuộc vào dị thuyết của xưa nay. Trong khi đó, qua Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) 1, Pháp Sư Tịnh Ảnh Huệ Viễn (淨影慧遠, 523-592) thì giải thích rằng: “Đệ tứ tông trung, phân vi Nhị Đế, thể vi Chơn Đế, dụng vi Tục Đế (第四宗中、分爲二諦、體爲眞諦、用爲世諦, trong tông thứ tư, chia thành Hai Đế, thể là Chơn Đế, dụng là Tục Đế).” Đại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa (大乘四論玄義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 46, No. 784) quyển 5 định nghĩa Nhị Đế là: “Cái thị Pháp Tánh chi chỉ quy, nhất chơn Bất Nhị chi cực lý dã (蓋是法性之旨歸、一眞不二之極理也, vốn là yếu chỉ quy nguyên của Pháp Tánh, là lý tột cùng của nguồn chơn Không Hai).” Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 82 cho rằng: “Đắc nhập Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhã hải, danh Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế quán (得入中道、雙照二諦、心心寂滅、自然流入薩婆若海、名中道第一義諦觀, vào được Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên trôi nhập vào biển hết thảy chủng trí, ấy gọi là quán Nghĩa Đế Thứ Nhất của Trung Đạo).” Hay trong Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 1 lại ghi rằng: “Chí ư Nhất Thừa Nhị Đế chi nguyên, Tam Minh Lục Thông chi chỉ, Tây Vức bị tường, Đông Độ mĩ ký (至於一乘二諦之原、三明六通之旨、西域僃詳、東土靡記, cho đến nguồn gốc của Một Thừa, Hai Đế; ý chỉ của Ba Trí, Sáu Thần Thông, Tây Vức [Ấn Độ] thì giải thích đầy đủ, còn Đông Độ [Trung Hoa] thì không ghi gì cả).” Trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) hay Lễ Xá Lợi Tháp Nghi Thức (禮舍利塔儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1491) có đoạn: “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, hồi hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp cập Tăng Già, Nhị Đế dung thông Tam Muội Ấn, như thị vô lượng công đức hải, ngã kim giai tất tận hồi hướng (願將以此勝功德、迴向無上眞法界、性相佛法及僧伽、二諦融通三昧印、如是無量功德海、我今皆悉盡迴向, nguyện lấy công đức thù thắng này, hối hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp và Tăng Già, Hai Đế dung thông Tam Muội Ấn, như vậy vô lượng công đức biển, con nay đều xin hồi hướng thảy).”
(三部經, Sambukyō): tên gọi ba bộ kinh có cùng chung nhất với nhau về nghĩa lý, được rút ra từ trong kinh điển. Tiêu biểu nhất là ba bộ Pháp Hoa, gồm Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經), Pháp Hoa Kinh (法華經) và Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經). Ở Nhật ngoài ba bộ này ra còn có ba bộ Trấn Hộ Quốc Gia, được gọi là Hộ Quốc Tam Bộ Kinh (護國三部經), gồm Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), và Kim Cang Minh Kinh (金剛明經). Thêm vào đó còn có ba bộ Đại Nhật gồm Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) và Tô Tất Địa Kinh (蘇悉地經); ba bộ Di Lặc gồm Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經), và Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經), v.v. Trong bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Pháp Nhiên, lần đầu tiên dùng đến tên gọi Tịnh Độ Tam Bộ Kinh (淨土三部經), gồm Vô Lượng Thọ Kinh (無量義經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量義經), và A Di Đà Kinh (阿彌陀經).
(講, kō): tập đoàn kết chúng tập trung lại với nhau để đath thành mục đích về mặt tôn giáo, kinh tế cũng như xã giao, nên mới lấy tên là Giảng. Nếu truy tìm nguyên gốc từ Giảng này, ta thấy nó vốn phát xuất từ dụng ngữ của Phật Giáo. Có nghĩa rằng ban đầu nó là hội nghiên cứu về việc thuyết giảng kinh điển Phật Giáo của những Tăng sĩ có học thức, hay là pháp hội Phật sự làm cho uyên nguyên việc giảng đọc kinh điển, chấp hành nghi lễ Phật Giáo. Từ hội Pháp Hoa Giảng (法華講), Duy Ma Giảng (維摩講), Thắng Man Giảng (勝鬘講), cho đến Tối Thắng Giảng (最勝講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Đà La Ni Giảng (陀羅尼講), Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), v.v., đều phát xuất từ đây. Nguồn khế cơ phát sanh hội này vốn có từ thời đại sơ truyền của Phật Giáo. Sự du nhập của Phật Giáo bắt đầu bằng những vật tượng trưng như tượng Phật, phan cái, kinh điển, v.v.; nhưng đương nhiên sự thọ dung đúng nhất vẫn là việc lý giải về giáo nghĩa cũng như nghi lễ. Nỗ lực này được thể hiện qua bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ (三經義疏) do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) biên soạn vào đầu thế kỷ thứ 7. Đương nhiên cũng có nghi vấn cho rằng đây không phải là trước tác của Thái Tử; nhưng nếu ta xét về điểm thành lập của triều đại Suy Cổ (推古, Suiko), thì phần lớn đều nhất trí. Như vậy việc giảng cứu Phật điển ban đầu là trung tâm hoạt động của tự viện, rồi truyền thống này được bảo trì một thời gian lâu dài; và đến thế kỷ thứ 8 dưới triều đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) thì nó đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên, việc giảng nghĩa những kinh điển Phật Giáo vốn có tính giáo học sâu xa thì lại được tiến hành song song với nghi lễ tôn giáo. Cho nên, nghi lễ còn được gọi là Pháp Hội. Chính các tổ chức như Thích Ca Hội (釋迦會) nhằm lễ tán thánh đức của Phật, Dược Sư Hội (藥師會) nhằm tán thán công đức của Phật Dược Sư; Di Lặc Hội (彌勒會) nhằm cầu nguyện Phật Di Lặc hạ sanh, v.v., đều phát xuất từ đây. Ba bộ kinh hộ quốc quan trọng gồm Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Pháp Hoa Kinh (法華經) vốn được xem như là những kinh điển hộ trì quốc gia, tất yếu phải được sử dụng tại các pháp hội ở những ngôi chùa quan, chùa lớn, chùa có định ngạch. Từ đó xuất hiện Tối Thắng Giảng Hội (最勝講會), Nhân Vương Giảng Hội (仁王講會) và Pháp Hoa Giảng Hội (法華講會). Trên cơ sở của ba hội chính này, các hội khác lần lượt ra đời như Duy Ma Giảng Hội (維摩講會), Thắng Man Giảng Hội (勝鬘講會), v.v., với khá nhiều hình thức và nội dung phong phú. Nhưng mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 9 dưới thời Bình An, việc biên tập và quy định hình thức giảng nhất định mới hình thành. Vào khoảng đầu thời Bình An, tín ngưỡng đáng chú ý nhất về Pháp Hoa được hoằng truyền từ trong tầng lớp Tăng Ni tại các tự viện cho đến xã hội thế tục bên ngoài, từ tầng lớp quý tộc trong cung đình cho đến lớp quan binh, và lan truyền đến tận dân chúng bên ngoài, trở nên rất sùng tín. Đặc biệt là các hoạt động của những người trì Kinh Pháp Hoa vốn được xem như là những người truyền giáo cuồng tín, thì quá nhiều. Ta có thể tìm thấy những hình thức hoạt động như thế này thông qua bộ Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記) cũng như Bản Triều Pháp Hoa Nghiệm Ký (本朝法華驗記), v.v. Trong đó, hội Pháp Hoa Bát Giảng (法華八講) là thịnh hành nhất từ trong cung nội cho đến ngoài dân dã. Hội này được Cần Tháo (勤操, Gonzō) ở Thạch Uyên Tự (石淵寺) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) khởi xướng vào năm 796, sau đến đầu thế kỷ thứ 9 mới thịnh hành ngoài dân gian. Đây là pháp hội lấy 8 quyển Kinh Pháp Hoa, mỗi ngày sáng tối hai thời đọc tụng cúng dường 2 quyển, và kéo dài trong vòng 4 ngày. Ban đầu, pháp hội này được tiến hành tại Thạch Uyên Tự, nhưng dần dần người dân thường cũng tổ chức pháp hội này tại cung đình cũng như dinh phủ quan, với động cơ nhằm cúng dường truy tiến cho linh hồn người chết, hay cầu sống lâu trường thọ, hoặc kỳ nguyện vãng sanh. Với đà thịnh hành của hội Pháp Hoa Giảng này, nó đã tạo ảnh hưởng rất lớn cho các hội khác ra đời. Một số hội như Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), Thích Ca Giảng (釋迦講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Tối Thắng Giảng (最勝講), v.v., lần lượt bỏ đi tên gọi pháp hội mà lấy tên Giảng. Thuận theo xu hướng thời đại, các tổ chức như A Di Đà Giảng (阿彌陀講), Bồ Đề Giảng (菩提講), Vãng Sanh Giảng (徃生講), Thập Nhị Bồ Tát Lai Nghênh Giảng (十二菩薩來迎講), Địa Tạng Giảng (地藏講), Thập Trai Giảng (十齋講), v.v., cũng liên tiếp xuất hiện. Khi những tổ chức này được phổ cập hóa, thẩm thấu vào dân gian thì chúng có nhiều cơ hội tiếp xúc với tín ngưỡng dân gian; cho nên các tập đoàn tín ngưỡng địa phương vốn dựa trên cơ sở sùng bái tự nhiên như núi, sông, nước, đá, cây, v.v., được gọi là Sơn Thần Giảng (山神講), Thủy Thần Giảng (水神講), Thạch Thần Giảng (石神講). Còn những tập đoàn tế tự, sùng bái thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, mưa, gió, sấm, sét, v.v., có tên gọi là Nhật Đãi Giảng (日待講), Nguyệt Đãi Giảng (月待講), Long Thần Giảng (龍神講), Phong Thần Lôi Thần Giảng (風神雷神講). Hơn nữa, tư tưởng Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, Honjisuijaku) chính là diểm trọng yếu đã tạo khế cơ cho việc thế tục hóa cũng như dân gian hóa Phật Giáo. Tại Nhật Bản, trong các lễ tế tự ở những đền thờ Thần Xã, truyền thống từ ngàn xưa vẫn được duy trì, và thể chế tượng trưng mang tính tôn giáo của tập đoàn dân tộc được hình thành. Có nghĩa rằng tập đoàn tế tự được cấu thành với hạt nhân trung tâm là đền thờ Thần Xã để phát huy cơ năng tôn giáo. Nguyên nhân các tổ chức tế tự như thế này lấy tên Giảng của Phật Giáo, vốn phát xuất từ trào lưu thời đại của Thần Phật Tập Hợp. Vì thế trong các đền thờ Thần Xã được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, ta thấy có xuát hiện bóng dáng của Phật Giáo. Phần lớn các Thần sự đều được tổ chức dưới hình thức Giảng, và đó cũng là khế cơ nảy sinh mối giao lưu Thần Phật. Cho nên các tổ chức như Thị Thần Giảng (氏神講), Trấn Thủ Giảng (鎭守講), Quyền Hiện Giảng (權現講), Cung Tòa Giảng (宮座講), cho đến Xuân Nhật Giảng (春日講), Trú Cát Giảng (住吉講), Bát Phan Giảng (八幡講), Hùng Dã Giảng (熊野講), Y Thế Giảng (伊勢講), Tam Sơn Giảng (三山講), Tam Xã Giảng (三社講), v.v., dần dần xuất hiện trong thần đạo. Đến cuối thời Trung Đại, hoạt động sinh sản của con người phân hóa, phương hướng tạo nên cơ cấu tổ chức Giảng cũng thay đổi với lý do không những chỉ vì động cơ tín ngưỡng tôn giáo, mà còn vì lý do xã hội cũng như kinh tế. Đến thời Trung Đại, tại các tự viện có các hội như Lại Mẫu Tử Giảng (賴母子講) nhằm dung thông lẫn nhau tiền vàng, vật phẩm giữa Tăng Ni; Quân Vương Giảng (君王講) của Mộc Địa Sư (木地師), Hoang Thần Giảng (荒神講), v.v. Khuynh hướng này được kéo dài cho đến thời Cận Đại, phát huy thành nhiều hình thức Giảng mới như Điền Thần Giảng (田神講) của nông dân, Sơn Thần Giảng (山神講) của những người làm nghề sơn lâm, Hải Thần Giảng (海神講), Long Cung Giảng (龍宮講), Huệ Mỹ Tu Giảng (惠美須講) nhằm cầu nguyện cho được nhiều cá và thuận buồm xuôi gió; thêm vào đó, còn có rất nhiều tổ chức Giảng ở thành phố. Từ thời Trung Đại đến Cận Đại, biển với đất liền phát triển giao thông mạnh mẽ, người ta đi du lịch các nơi trở nên dễ dàng hơn, và mọi người có nhiều cơ hội trở về cố hương mình. Đặc biệt việc tham bái các thánh địa cũng như hành hương những ngôi già lam, đền miếu, càng lúc càng hưng thịnh; chính vì lẽ đó, tổ chức Tham Nghệ Giảng (參詣講) được hình thành. Tỷ dụ như Thiện Quang Tự Giảng (善光寺講), Thành Điền Giảng (成田講), Tam Phong Giảng (三峰講), Đại Sơn Giảng (大山講), Y Thế Giảng (伊勢講), Xuất Vân Giảng (出雲講), Bạch Sơn Giảng (白山講), v.v.
(鎭護國家, chingokokka): cầu nguyện Thần, Phật để tiêu diệt các tại hại và đuổi lui ngoại xâm. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6, Thánh Minh Vương (聖明王) của triều Bách Tế (百濟, Kudara) đem dâng hiến tượng Phật cũng như kinh luận; Khâm Minh Thiên Hoàng (欽明天皇, Kimmei Tennō) lấy thái độ trung lập, khi ấy Tô Ngã Đạo Mục (蘇我稻目, Soga-no-iname) bèn thọ nhận các tượng Phật, v.v (Thị Tộc Phật Giáo). Vào tháng 5 năm thứ 6 (660) đời vua Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō), để đối phó với tình thế quân sự ở bán đảo Triều Tiên, nhà vua đã tiến hành cầu nguyện cho quân ngoại xâm (quân Tân La Triều Tiên và nhà Đường Trung Quốc) rút lui; cho nên Phật Giáo đóng vai trò trấn hộ quốc gia (Quốc Gia Phật Giáo). Người ta tin rằng nếu đọc tụng Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (仁王般若波羅蜜經) thì các quỷ thần sẽ bảo vệ đất nước và đuổi lui ngoại địch. Vào năm thứ 5 (676) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), để cầu nguyện cho hạn hán tiêu trừ, tại các tiểu quốc tiến hành dâng lụa cho thần, thuyết giảng Kim Quang Minh Kinh (金光明經, thuyết rằng Tứ Thiên Vương ủng hộ quốc gia khỏi bị tại hại và ngoại xâm) cũng như Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經); cho nên Thiên Hoàng nắm quyền chủ đạo làm cho Phật pháp hưng long và quyền thống chế giới Phật Giáo. Tại 4 ngôi chùa lớn (Đại Quan Đại Tự [大官大寺], Dược Sư Tự [藥師寺], Pháp Hưng Tự [法興寺] và Xuyên Nguyên Tự [川原寺]) dưới thời đại kinh đô Đằng Nguyên, các pháp hội cầu nguyện cho Thiên Hoàng hay tai hại tiêu diệt, v.v., được tiến hành thường xuyên. Vào năm thứ 9 (737) niên hiệu Thiên Bình (天平), làn sóng dao động bệnh ghẻ lở và nạn đói cũng như nỗi sợ hãi quân Tân La sang xâm chiếm tràn lan khắp nơi; tại các tiểu quốc lệnh vẽ tượng Thích Ca Tam Tôn và chép Đại Bát Nhã Kinh (大般若經, có lợi ích trừ tai nạn và được phước đức) được ban bố. Y Thế Thần Cung (伊勢神宮, Ise Jingu) cũng như những đền thờ thần xã ở vùng Trú Cát (住吉) và Vũ Tá (宇佐) lệnh cho các sứ tiết cầu nguyện trấn phục quân Tân La. Trong khi đó, Đạo Từ (道慈) thì giảng Tối Thắng Vương Kinh (最勝王經) ở Đại Cực Điện (大極殿) trong hoàng cung. Vào năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình, Đằng Nguyên Quảng Từ (藤原廣嗣, ) bắt đầu cử binh ở Đại Tể Phủ (大宰府, Dazaifu) và cuộc nỗi loạn ở Cửu Châu (九州, Kyūshū) có khả năng kết hợp với thế lực của quân Tân La. Thấy vậy, Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō) bị sốc nặng, bèn bỏ Bình Thành Kinh (平城京), dời đô về Cung Nhân Kinh (恭仁京); năm sau Thiên Hoàng cho xây dựng tại các tiểu quốc những ngôi Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Chi Tự (金光明四天王護國之寺, tức Quốc Phận Tăng Tự) cũng như Pháp Hoa Diệt Tội Chi Tự (法華滅罪之寺, tức Quốc Phận Ni Tự) và cho an trí Kinh Thắng Man (勝鬘經) bằng giấy tím viết chữ vàng vào trong tháp của những ngôi Quốc Phận Tăng Tự. Đến năm đầu (767) niên hiệu Thần Hộ Cảnh Vân (神護景雲), tại các Quốc Phận Tăng Tự có tu pháp sám hối Cát Tường Thiên (吉祥天) để cầu nguyện cho thóc lúa được mùa, triệu dân an lạc và việc này đã được thông lệ hóa, hình thành nên Cát Tường Hội (吉祥會). Như ta đã thấy ở trên, Phật Giáo đóng vai trò cầu nguyện trấn hộ quốc gia đã phát triển tột đỉnh dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara). Trong quá trình các kinh đô như Trường Cương Kinh (長岡京), Bình An Kinh (平安京) được dời chuyển đến nơi khác, những ngôi chùa ở kinh đô cũ cũng di chuyển về kinh đô mới; tuy nhiên, chỉ có trường hợp dời đô của Bình Thành Kinh thì ngoại lệ. Điều này cho thấy rằng từ thời Bình An (平安, Heian) trở về sau, mối quan hệ giữa Phật Giáo và quốc gia càng lạt lẽo dần. Tối Trừng (最澄, Saichō) lấy việc an trí 100 bộ Hiển Giới Luận (顯戒論) và 100 vị tăng Bồ Tát trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) để khẳng định rằng ngôi chùa là thành quách của quốc gia và tuyên xướng tư tưởng Trấn Hộ Quốc Gia, nhưng quy mô của nó không thể sánh với Phật Giáo Trấn Hộ Quốc Gia dưới thời đại Nại Lương. Tuy nhiên, Nhân Vương Hội (仁王會) là một lễ hội rất thịnh hành trong triều đình thời Bình An, cũng thể hiện rõ nét bóng dáng của Phật Giáo Trấn Hộ Quốc Gia.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập