Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhân Hải »»
(延殷, Enin, 968-1050): vị học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, húy là Diên Ân (延殷), xuất thân vùng Đản Mã (但馬, Tajima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia và thọ giới với Từ Nhân (慈仁) ở Tỷ Duệ Sơn, rồi học giáo nghĩa Thiên Thai Tông với Tĩnh Chiếu (靜照). Năm 1000, ông dốc chí sang nhà Tống cầu pháp, đi đến Đại Tể Phủ (大宰府, Dazaifu), nhưng vì theo lệnh của triều đình nên phải lưu lại đây. Ông thọ hai bộ Quán Đảnh từ Cảnh Vân (景雲), rồi vào ẩn tu mấy năm trong núi Đa Võ Phong (多武峰). Về sau, thể theo lời thỉnh cầu của Minh Khoái (明快), ông quay về Tỷ Duệ Sơn; nhưng lần thứ hai lại ra vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara) sống nhàn cư, cùng với Giác Tầm (覺尋) chuyên tâm tu niệm; cuối cùng ông chuyển đến Thủ Lăng Nghiêm Viện (首楞嚴院) trên Duệ Sơn. Năm 1038, trong khi hai phái Sơn Môn và Tự Môn tranh nhau chức Tọa Chủ, ông lui về ẩn cư ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji) và thọ nhận hai bộ Quán Đảnh với Nhân Hải (仁海).
(定譽, Jōyo, 958-1047): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, húy là Định Dự (定譽), thường gọi là Kỳ Thân Thượng Nhân (祈親上人), Trì Kinh Thượng Nhân (持經上人), thụy hiệu Thường Chiếu (常照); xuất thân vùng Nam Bổn (楠本), Đại Hòa (大和, Yamato), họ Hà Tỉnh (河井). Năm 13 tuổi, ông vào tu ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), học về Pháp Tướng; sau đó theo hầu Chơn Hưng (眞興, Shinkō) ở Tử Đảo Tự (子島寺, Koshima-dera) và thọ phép Quán Đảnh từ Tiên Cứu (仙救). Sau khi song thân qua đời, ông chuyên tâm trì tụng Kinh Pháp Hoa để cầu nguyện cho song thân được siêu độ; vì vậy ông có tên gọi là Kỳ Thân, Trì Kinh. Vào năm 1016, thể theo điềm báo mộng Quan Âm ở Trường Cốc Tự (長谷寺, Hase-dera), biết được song thân mình đã được siêu thăng lên cõi Tịnh Độ Cao Dã Sơn, ông lên núi và hành lễ cúng dường tại đây. Ông thề nguyện nơi Miếu Không Hải và tận lực giúp sức với Kiểm Hiệu Phong Cảo (峰杲), Hành Minh (行明) cũng như Nhân Hải (仁海) của Đông Tự (東寺, Tō-ji) để phục hưng Sơn Môn.
(良禪, Ryōzen, 1048-1139): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Kiểm Hiệu đời thứ 14 và 17 của Cao Dã Sơn, húy là Lương Thiền (良禪), thông xưng là Bắc Thất Thánh (北室聖), tự Giải Thoát Phòng (解脫房); xuất thân vùng Thần Khi (神崎, Kanzaki), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣]), họ là Phản Thượng (坂上). Năm lên 11 tuổi, ông theo hầu Nhiệm Tôn (任尊) ở Cao Dã Sơn, đến năm 14 tuổi thì theo Hành Minh (行明) ở Bắc Thất Viện (北室院) tu Tứ Độ Gia Hành (四度加行). Vào năm 1088, ông thọ nhận hai bộ Quán Đảnh từ Minh Toán (明算) và truyền thừa Ngũ Bộ Bí Ấn (五部秘印). Năm 1099, ông nhậm chức Kiểm Hiệu của Cao Dã Sơn, rồi đến năm 1137 lại được bổ nhiệm lần nữa; nhân đó ông đã tập trung xây dựng khá nhiều ngôi đường tháp nơi đây. Chính ông đã tận lực làm cho Cao Dã Sơn phát triển cao độ. Đệ tử phú pháp của ông có Hành Tuệ (行慧), Lâm Hiền (琳賢), Nhật Thiền (日禪), Giáo Giác (敎覺), Kiêm Hiền (兼賢), v.v.
(雅眞, Gajin, ?-999): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Kiểm Hiệu đời thứ 4 của Cao Dã Sơn, húy là Nhã Chơn (雅眞), thông xưng là Thiên Dã Kiểm Hiệu (天野檢校). Ông làm Giảng Sư ở Hòa Tuyền (和泉, Izumi), sau đó đến thọ phép Quán Đảnh với Chơn Lại (眞賴) ở Thạch Sơn Tự (石山寺) và trú tại đây. Vào năm 952, thể theo lời thỉnh cầu của Khoan Không (寬空) ở Cao Dã Sơn, ông lên đó làm Chấp Hành Chánh Biệt Đương (執行正別當), rồi nhân đó cho tái kiến tháp miếu thờ Không Hải vốn bị thiêu cháp trước đây, và đến năm 984 thì làm Kiểm Hiệu. Đệ tử phú pháp của ông có Nhân Hải (仁海), Thiên Nhật (遍日).
(權現, gongen): quyền (權) nghĩa là quyền nghi, ứng cơ; hiện (現) là hóa hiện; tức chỉ chư phật bồ tát vì độ khắp chúng sanh mà quyền xảo hóa hiện các loại hình tướng; đồng nghĩa với quyền hóa (權化), quyền tích (權迹), ứng hiện (應現), thị hiện (示現), hóa hiện (化現), v.v. Như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665), Phẩm Như Lai Thọ Lượng (如來壽量品) thứ 2, quyển 1 có câu: “Thế Tôn Kim Cang thể, quyền hiện ư Hóa Thân (世尊金剛體、權現於化身, Thế Tôn thể Kim Cang, quyền hiện nơi Hóa Thân).” Hay trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 3, phần Thiệu Hưng Phủ Đông Sơn Giác Thiền Sư (紹興府東山覺禪師), lại có đoạn: “Kim thời tùng lâm, tương vị Quảng Ngạch quá khứ thị nhất Phật, quyền hiện đồ nhi (今時叢林、將謂廣額過去是一佛、權現屠兒, tùng lâm ngày nay cho rằng Quảng Ngạch quá khứ là một vị Phật, hóa hiện làm đồ tể).” Hoặc trong Pháp Hoa Kinh Chỉ Chưởng Sớ (法華經指掌疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 33, No. 631) cũng có đoạn: “Nhiên Đạt Đa tuy xưng quyền hiện, nhân hại Phật cố, bất miễn Địa Ngục chi khổ (然達多雖稱權現。因害佛故。不免地獄之苦, tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa tuy gọi là quyền hiện, nhưng vì hại Phật, nên không thoát khỏi cái khổ của Địa Ngục).” Quyền hiện cũng là một trong những tư tưởng đặc trưng của Phật Giáo Nhật Bản. Sau khi Phật Giáo được vào xứ sở Phù Tang này, Thần Đạo trở thành địa vị phụ thuộc, và đến cuối thời kỳ Bình An (平安, Heian, 794-1185), thuyết gọi là Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, honjisuijaku) bắt đầu thịnh hành. Từ thời Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) trở đi, việc tiếp cận với chư thần của Phật Giáo dần dần được tiến hành. Với tư cách là chúng sanh phàm phu đầy phiền não, chư thần linh cũng tôn kính Phật Giáo; cho nên việc đọc kinh trước thần linh, các Thần Cung Tự (神宮寺), Trấn Thủ Tự (鎭守寺) cũng được kiến lập. Vào khoảng đầu thời Bình An, các thần dần dần khai ngộ và địa vị của họ cũng được nâng cao. Tỷ dụ như trường hợp Thạch Thanh Thủy Bát Phan Thần (石清水八幡神) đã đạt đến danh hiệu Bồ Tát. Sau đó, trong văn thư của Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu) gởi cho đền thờ Cừ Khi Bát Phan Cung (筥崎八幡宮, Hakozakihachimangū) vào năm 937 (Thừa Bình [承平] thứ 7), có đoạn văn gọi Bát Phan Thần là quyền hiện. Hay trong tác phẩm Tẩu Thang Duyên Khởi (走湯緣起, Sōtōengi) có các văn thư ghi năm 812 (Hoằng Nhân [弘仁] thứ 3) cũng như 904 (Diên Hỷ [延喜] thứ 4), có thể thấy từ quyền hiện. Đến giữa thời Bình An, chư thần tiến đến rất gần với địa vị của Phật. Trong bức Cúng Dường Nguyện Văn (供養願文) do ca nhân Đại Giang Khuông Hành (大江匡衡, Ōe-no-Masahira, 952-1012) viết khi đến tham bái đền thờ Nhiệt Điền Thần Xã (熱田神社, Atsuta Jingū) ở tiểu quốc Vĩ Trương (尾張, Owari) vào năm 1004 (Khoan Hoằng [寬弘] nguyên niên), ông viết là thùy tích của Nhiệt Điền Quyền Hiện (熱田權現, Atsutagongen). Cũng vào năm thứ 4 (1007) cùng niên hiệu trên, trong ống kinh do Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長, Fujiwara-no-Michinaga, 966-1027) đem thờ trên Kim Phong Sơn (金峯山) có ghi dòng chữ “Tạng Vương Quyền Hiện (藏王權現).” Trong bộ Kim Tích Vật Ngữ Tập (今昔物語集, Konjakumonogatarishū) cũng có xuất hiện từ Hùng Dã Quyền Hiện (熊野權現, Kumanogongen). Việc phổ cập hóa tư tưởng quyền hiện như vậy là đồng thể hóa Phật với Thần; và cho biết rằng đã đến thời kỳ hoàn thành thuyết Bản Địa Thùy Tích. Đến thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333), các đền thờ Thần Xã gọi tên quyền hiện bắt đầu xuất hiện như Địa Chủ (地主), Bạch Sơn (白山), Ái Đãng (愛宕), Xuân Nhật (春日), v.v. Trong tác phẩm Chư Thần Bản Hoài Tập (諸神本懷集, Shojinhongaishū) do Tồn Giác (存覺, Zonkaku, 1290-1373) viết vào cuối thời kỳ Liêm Thương, chia thần thành hai loại là Quyền Xã (權社) và Thật Xã (實社), cho rằng Thần của Quyền Xã là “đức Như Lai xưa kia, vì để mang lại lợi ích cho Bồ Tát, chúng sanh thâm vị, nên giả hiện thân hình thần minh”; song tất cả đều là quay về với sự giáng tích của Phật Di Đà; và cho rằng chư thần của Thật Xã thì cần phải bài xích như là tà thần. Thần Đạo mang tính thần Phật tập hợp vào thời Trung Đại, lấy tư tưởng quyền hiện làm luận cứ quan trọng. Tuy nhiên, sau khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616) qua đời, vị tăng của Thiên Thai Tông là Thiên Hải (天海, Tenkai, 1536-1643) chủ trương thờ phụng đấng quyền hiện và xem đó như là thần hiệu của Gia Khang. Ngoài ra, các Thiên Hoàng Nhật Bản đã từng lấy danh hiệu quyền hiện để ban hiệu sắc hứa cho cấp dưới. Tỷ dụ như Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930) đã ban cho Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari, 614-669) hiệu là Đàm Sơn Quyền Hiện (談山權現); hay Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) ban cho Đức Xuyên Gia Khang hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), v.v.
(成尊, Seizon, 1012-1074): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Tự Trưởng đời thứ 30 của Đông Tự, húy là Thành Tôn (成尊), hiệu Tiểu Dã Tăng Đô (小野僧都). Sau khi xuất gia với Nhân Hải (仁海) ở Mạn Trà La Tự (曼荼羅寺, Mandara-ji, tức Tùy Tâm Viện [隨心院]) vùng Tiểu Dã (小野, Ono), ông được thọ phép Quán Đảnh và làm trú trì chùa này. Đến năm 1065, ông hành phép cầu mưa và có linh nghiệm, sau đó ông lại cầu nguyện cho Hậu Tam Điều Thiên Hoàng (後三條天皇, Gosanjō Tennō, tại vị 1068-1072) tức vị, nên rất được sủng kính. Năm 1069, ông làm Quyền Luật Sư, đến năm 1072 thì truyền trao phép Quán Đảnh cho Minh Toán (明算) ở Cao Dã Sơn. Năm sau ông làm Quyền Thiếu Tăng Đô, và năm sau nữa thì làm Tự Trưởng của Đông Tự. Đệ tử của ông có Nghĩa Phạm (義範), Phạm Tuấn (範俊), v.v. Trước tác ông để lại có Chơn Ngôn Phú Pháp Toản Yếu Sao (眞言付法纂要抄) 1 quyển, Tiểu Dã Lục Thiếp Khẩu Quyết (小野六帖口決) 5 quyển, Quán Tâm Nguyệt Luân Ký (觀心月輪記) 1 quyển, Đồ Sư Quán Đảnh Quyết Nghĩa Sao (徒師灌頂決義抄) 4 quyển, v.v.
(順曉, Junkyō, ?-?): vị tăng Mật Giáo Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, không rõ xuất thân quê quán, môn hạ của Thiện Vô Úy (s: Śubhakarasiṃha, 善無畏), theo Nghĩa Lâm (義林) của Tân La (新羅, Triều Tiên) học tập mật pháp của Chơn Ngôn. Ban đầu ông trú tại Linh Nham Tự (靈巖寺) vùng Thái Nhạc (泰嶽), sau chuyển đến Long Hưng Tự (龍興寺) ở Việt Châu (越州). Vào tháng 4 năm 805 (niên hiệu Vĩnh Trinh [永貞] nguyên niên), nhân hai vị tăng Nhật Bản là Tối Trừng (最澄, Saichō) và Nghĩa Chơn (義眞, Gishin) đến Long Hưng Tự tham bái, ông truyền thọ phép Quán Đảnh cho họ và trao các đồ hình Tam Muội Da (三昧耶), pháp môn niệm tụng, khế ấn, đạo cụ, v.v. Người đời thường gọi ông là Trấn Quốc Đạo Tràng Đại Đức A Xà Lê (鎭國道塲大德阿闍梨).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập