Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nguyên Hưng tự »»
(大安寺, Daian-ji): ngôi chùa của Phái Cao Dã Sơn (高野山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, tọa lạc tại Daianji-cho (大安町), Nara-shi (奈良市), là một trong 7 ngôi chùa lớn của Phật Giáo Nam Đô, còn gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji). Theo Đại An Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (南大寺伽藍緣起并流記資財帳) có ghi lại việc Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) phó thác cho Điền Thôn Hoàng Tử (田村皇子, sau này là Thư Minh Thiên Hoàng [舒明天皇, Jomei Tennō]) xây dựng ngôi đại tự với tên gọi là Hùng Ngưng Tự (熊凝寺, Kumagori-dera). Đây chính là khởi nguyên của Đại An Tự. Trong Thánh Đức Thái Tử Truyện Tư Ký (聖德太子傳私記) cũng cho rằng Hùng Ngưng Tự là tiền thân của ngôi già lam này. Trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi rằng vào năm thứ 11 (639) đời Thư Minh Thiên Hoàng, nhà vua ra chiếu chỉ xây Đại Cung và Đại Tự bên bờ sông Bách Tế, cho dựng ngôi tháp 9 tầng và đổi tên chùa là Bách Tế Đại Tự (百濟大寺, Kudara-no-ōdera). Đến năm thứ 2 (673) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), chùa lại được dời về vùng Cao Thị (高市, Takechi) và lấy tên là Cao Thị Đại Tự (高市大寺, Takechi-no-ōdera). Sau đó, chùa lại đổi tên là Đại Quan Đại Tự (大官大寺, Daikandai-ji), trở thành một trong 3 ngôi chùa quan lớn và hưng thịnh đến tột đỉnh. Vào năm thứ 3 (710) niên hiệu Hòa Đồng (和銅), lúc kinh đô được dời về Bình Thành (平城, Heizei), chùa cũng chuyển về vị trí hiện tại và lấy tên là Đại An Tự. Từ quy mô già lam có dạng thức đặc thù được gọi là Cách Thức Đại An Tự, chiều cao của chùa, nó được gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji) để sánh với Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Với tư cách là trung tâm học vấn của Tam Luận Tông, chùa đã một thời hưng thạnh. Chính từ đây đã xuất hiện những bậc danh tăng như Đạo Từ (道慈, Dōji), Cần Tháo (勤操, Gonzō), Hành Biểu (行表, Gyōbyō), Tối Trừng (最澄, Saichō), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v. Đến thời đại Bình An, sau mấy lần bị hỏa tai vào năm thứ 11 (911) niên hiệu Diên Hỷ (延喜), năm đầu (1071) niên hiệu Khoan Nhân (寬仁), ngôi già lam bị cháy rụi khá nhiều và sau đó được tái thiết ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời Bình An, cũng cùng chung số phận với những ngôi đại tự khác của vùng Nam Đô, chùa lâm vào tình trạng suy vi. Đến thời Liêm Thương, cùng với việc phục hưng giáo học, một số chùa như Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji), Tây Đại Tự, v.v., đã phát triển mạnh; nhưng trường hợp Đại An Tự thì lại càng suy thối hơn. Quần thể đường vũ hiện tồn được tái thiết dưới thời Minh Trị; bảo vật của chùa có bức tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm (dưới thời Nại Lương) là tượng thờ chính, tượng Dương Liễu Quan Âm, Thiên Thủ Quan Âm, v.v., theo Cách Thức Đại An Tự.
(道昭, Dōshō, 629-700): vị tăng ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji, tức Pháp Hưng Tự [法興寺, Hōkō-ji]) thuộc thời đại Phi Điểu, tổ sư khai sáng ra Pháp Tướng Tông Nhật Bản, xuất thân vùng Đơn Tỷ (丹比, Tajihi), Hà Nội (河內, Kawachi); con của Thuyền Liên Huệ Thích (船連惠釋). Năm 653, ông nhập Đường cầu pháp, học Pháp Tướng, Duy Thức với Huyền Trang (玄奘), rồi học Thiền yếu với Huệ Mãn (慧滿). Khoảng năm 660, ông trở về nước, kiến lập Thiền viện ở Nguyên Hưng tự, an trí các kinh luận thỉnh từ Trung Quốc về và bắt đầu hoằng truyền giáo nghĩa Pháp Tướng Tông. Đến cuối đời, ông đi tuần du khắp các nơi, làm những việc xã hội như bắt cầu đường, v.v. Vào năm 698, ông làm Chủ Sám buổi Lễ Khai Nhãn tượng Phật ở Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) và được bổ nhiệm làm chức Đại Tăng Đô (大僧都). Theo di mệnh của ông để lại, sau khi chết thi hài của ông được hỏa táng. Đây là trường hợp hỏa táng đầu tiên trong lịch sử Nhật.
(行賀, Gyōga, 729-803): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Hành Hạ (行賀), xuất thân Quảng Lại (廣瀬, Hirose), Đại Hòa (大和, Yamato), họ Thượng Dã Mao (上野毛). Ông theo xuất gia và thọ giới với Vĩnh Nghiêm (永嚴), sau đó học về Pháp Tướng, Duy Thức với Bình Bị (平僃) ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji). Năm 752, nhận sắc lệnh của triều đình, ông sang nhà Đường cầu pháp, chuyên học cả Thiên Thai lẫn Pháp Tướng. Sau 31 năm lưu học bên đó, ông trở về nước, mang theo hơn 100 quyển kinh sớ. Trước tác của ông có Duy Thức Nghĩa Tinh (唯識義精) 1 quyển, nhưng bị tán thất. Ông được xem là một trong 6 vị tổ của Pháp Tướng Tông Nhật Bản.
(護命, Gomyō, 750-834): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống vào khoảng hai thời đại Nại Lương và Bình An, húy Hộ Mạng (護命), thông xưng là Tiểu Tháp Viện Tăng Chánh (小塔院僧正), xuất thân Mỹ Nùng (美濃, thuộc Gifu-ken [岐阜縣]), họ Tần (秦). Năm 10 tuổi, ông theo Đạo Hưng (道興, Dōkō) ở Mỹ Nùng Quốc Phận Tự (美濃國分寺) học cách đọc âm Pháp Hoa Kinh (法華經), Tối Thắng Vương Kinh (最勝王經) và đến năm 766 thì thọ cụ túc gới tại giới đàn viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Sau đó, ông theo Vạn Diệu (萬耀, Manyō), Thắng Ngộ (勝悟, Shōgo) ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji) học về Pháp Tướng và sống tại một ngôi tháp nhỏ trong chùa. Năm 794, trong lễ hội cúng dường tại Nhất Thừa Chỉ Quán Viện (一乘止觀止院) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ông làm vị đạo sư tán hoa. Đến năm 805, ông làm giảng sư tại Tối Thắng Hội (最勝會) trong cung nội và sau đó được bổ nhiệm làm Luật Sư. Vào năm 816, khi Giới Đàn Đại Thừa được triều đình cho phép thành lập, ông đảm đương trách nhiệm Thượng Thủ Tăng Cang, rồi dâng thư xin từ chức Đại Tăng Đô và lui về ẩn cư tại Sơn Điền Tự (山田寺, Yamada-dera). Năm 823, khi Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō) tức vị, ông lại được đãi ngộ với chức Đại Tăng Đô và năm 827 thì trở thành Tăng Chánh. Đến năm 830, ông dâng lên nhà vua bản Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thần Chương (大乘法相研神章) và tận lực chấn hưng Pháp Tướng Tông. Trước tác của ông có rất nhiều như Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thần Chương (大乘法相研神章) 5 quyển, Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương Ký (大乘法苑義林章記) 3 quyển, Pháp Uyển Giải Tiết Chương Ký (法苑解節章記) 20 quyển, v.v.
(禮光, Raikō, ?-?): vị tăng của của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống dười thời đại Nại Lương, húy là Lễ Quang (禮光) hay Lại Quang (賴光, Raikō). Ông theo hầu Trí Tạng (智藏, Chizō) ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji), cùng với Trí Quang (智光, Chikō) học về Tam Luận. Ông trú tại chùa này và xiển dương giáo học Tam Luận; đến cuối đời thì quay về với Tịnh Độ Giáo, chuyên tâm hành trì pháp môn Quán Tướng Niệm Phật và mấy năm sau thì viên tịch. Trí Quang mộng thấy Lễ Quang được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, bèn cho vẽ đồ hình A Di Đà Tịnh Độ; đó chính là bức Trí Quang Mạn Trà La (智光曼茶羅).
(隆尊, Ryūson, 702-760): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Long Tôn (隆尊). Ông theo Nghĩa Uyên (義淵, Gien) ở Đại Hòa Cương Tự (大和岡寺) học về Pháp Tướng, Duy Thức và Hoa Nghiêm; sau thể theo lời cung thỉnh của đại chúng, ông đến trú tại Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji) và năm 746 thì chuyển đến Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Vào năm 752, ông làm chủ lễ cho Lễ Cúng Dường Khai Nhãn Tượng Đại Phật tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Thể hiện nguyện vọng tha thiết muốn tổ chức thọ giới chính thức với Thập Sư như pháp, ông kiến nghị lên Xá Nhân Thân Vương (舍人親王) cho phép Vinh Duệ (榮叡, Yōei) và Phổ Tịch (普寂, Fujaku) sang nhà Đường, từ đó tạo nhân duyên cho Giám Chơn (鑑眞, Ganjin) qua Nhật.
(良源, Ryōgen, 912-985): vị tăng của Thiên ThaiTông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu Từ Huệ Đại Sư (慈慧大師), người đời thường gọi ông là Nguyên Tam Đại Sư (元三大師), Ngự Miếu Đại Sư (御廟大師), Giác Đại Sư (角大師), Đậu Đại Sư (豆大師), họ là Mộc Tân (木津), xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Năm lên 12 tuổi, ông theo học pháp với Lý Tiên (理仙), và sau khi thầy qua đời, ông đến thọ giới với Thiên Thai Tọa Chủ Tôn Ý (尊意, Soni), rồi theo học với Hỷ Khánh (喜慶, Kikei), Giác Huệ (覺惠, Kakue) và Vân Tình (雲晴, Unsei). Vào năm 937, tại Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), ông đã đối luận với Nghĩa Chiêu (義昭, Gishō) của Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji) và hàng phục được vị này. Đến năm 963, tại Pháp Hoa Hội ở Thanh Lương Điện, ông lại luận phá được Pháp Tàng (法藏, Hōzō) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), nên thanh danh của ông vang khắp thiên hạ. Năm 964, ông được liệt vào hàng Nội Cúng Phụng (內供奉, hàng ngũ của 10 vị Thiền Sư), rồi năm sau thì làm Quyền Luật Sư, năm kế đến thì trở thành Thiên Thai Tọa Chủ. Trong thời gian làm Tọa Chủ được khoảng 20 năm, ông đã nỗ lực phục hưng Giảng Đường và giáo dưỡng đồ chúng. Chính ông đã định ra Nhị Thập Lục Điều Thức (二十六條式) để chỉnh đốn quy luật trongSơn Môn. Ông được sùng ngưỡng như là vị Tổ Sư thời Trung Hưng, và ngoài thế gian thì sùng bái như là hóa thân của Quan Âm, hay của Bất Động Minh Vương Bồ Tát. Môn hạ của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Nguyên Tín (源信, Genshin), Giác Vận (覺運, Kakuun), Tầm Thiền (尋禪, Jinzen), Giác Siêu (覺超, Kakuchō) và hơn 3000 người. Trước tác của ông để lại có Bách Ngũ Thập Tôn Khẩu Quyết (百五十尊口訣), Cửu Phẩm Vãng Sanh Nghĩa (九品徃生義), Danh Biệt Nghĩa Thông Tư Ký (名別義通私記), Thai Kim Niệm Tụng Hành Ký (胎金念誦行記).
(義淵, Giin, ?-728): vị cao tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Nghĩa Uyên (義淵), xuất thân vùng Cao Thị (高市), Đại Hòa (大和, Yamato), họ là Thị Vãng (市徃). Tương truyền rằng song thân ông lo buồn vì không có con nối dõi, lâu năm chuyên tâm cầu nguyện đức Bồ Tát Quan Âm và cuối cùng hạ sanh ông. Lớn lên, ông theo học Pháp Tướng và Duy Thức với Trí Phụng (智鳳, Chihō) ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji), đến năm 699 thì hoàn thành sự nghiệp và được tặng cho 1 vạn bao gạo. Vào năm 703, ông được bổ nhiệm làm Tăng Chánh. Tương truyền ông đã từng sáng lập Long Cái Tự (龍蓋寺), Long Môn Tự (龍門寺) và Long Uyên Tự (龍淵寺). Môn hạ của ông có rất nhiều như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō), Hành Cơ (行基, Gyōki), Tuyên Giáo (宣敎, Senkyō), Lương Mẫn (良敏, Ryōbin), Hành Đạt (行達, Gyōtatsu), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v., đều là những nhân vật xuất chúng đã hoạt động tích cực trong giới Phật Giáo thời Nại Lương.
(嚴智, Gonchi, ?-?): vị tăng của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Nghiêm Trí (嚴智). Ông học cả Pháp Tướng, Duy Thức cũng như Tam Luận và theo học Hoa Nghiêm với Thẩm Tường (審祥, Shinjō). Sau đó, ông đến trú tại Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji), tân lực tuyên dương giáo học Hoa Nghiêm. Trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Bình (天平, 729-749), thể theo sắc mệnh, ông thuyết giảng bộ Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) 60 quyển tại Kim Chung Tự (金鐘寺, Konshō-ji, tức Pháp Hoa Đường của Đông Đại Tự [東大寺, Tōdai-ji]).
(涅槃宗, Nehan-shū): tên gọi của một trong 13 tông phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc, học phái dựa trên cơ sở của Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 涅槃經) của ĐạiThừa để chuyên nghiên cứu vàtuyên dương giáo nghĩa gọi là Nhất Thiết Chúng Sanh Tất Hữu Phật Tánh (一切眾生悉有佛性, hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh) và Phật Thân Thường Trụ (佛身常住) của kinh này. Trong phẩm Kim Cang Thân (金剛身) của kinh này có đọan rằng: "Thân Như Lai là thân thường trụ, bất sanh bất diệt, là thân kim cang vĩnh viễn bất hoại, tức đây là Pháp Thân." Lại nữa, trong phẩm Sư Tử Hống Bồ Tát (師子吼菩薩) cũng có đoạn ghi rõ rằng: "Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh như nhau, chính hạng Nhất Xiển Đề cũng có Phật tánh và có thể thành Phật." Kinh Đại Niết Bàn của Đại Thừa có 2 bản là Bắc bản và Nam bản. Đàm Vô Sấm (曇無讖, 385-433) dịch bộ Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) gồm 40 quyển xong vào năm 421 ở Bắc Kinh, và nó được truyền đến Giang Nam vào năm 430. Sau đó Huệ Quán (慧觀), Huệ Nghiêm (慧嚴, 363-433) và Tạ Linh Vận (謝靈運, 385-433) mới lấy bộ này đối chiếu với bộ Đại Bát Nê Hoàn Kinh (大般泥洹經) gồm 6 quyển do Pháp Hiển (法顯, 340?-?) dịch, và tu sửa rồi gom lại thành 36 quyển. Cho nên bộ do Đàm Vô Sấm dịch gồm 40 quyển thì được gọi là Bắc Bản Niết Bàn Kinh, và bộ sau do ba người kia hiệu đính và biên tập lại thành 36 quyển thì được gọi là Nam Bản Niết Bàn Kinh. Bắc Bản được truyền sang Giang Nam vàđược Đạo Sanh (道生) đón nhận, nên việc nghiên cứu về Niết Bàn Kinh trở nên thịnh hành và Niết Bàn Học Phái của phương Nam ra đời. Đến thời nhà Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần của Nam Bắc Triều thì phong trào nghiên cứu Niết Bàn Kinh đã lên đến thời kỳ hưng thạnh tột đỉnh; nhưng đến thời đầu nhà Đường thì do vì Tam Luận Tông, Pháp Tướng Tông và Hoa Nghiêm Tông hưng thạnh, nên tông này bước vào thời kỳ suy vong của nó. Tông này cũng được truyền vào Nhật dưới thời Nại Lương ở Nguyên Hưng tự (元興寺, Gankō-ji) và Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Có ký lục cho biết rằng tông này được gọi là Thường Tu Đa La Tông (常修多羅宗), nhưng không được chấp nhận như là một tông phái chính thống độc lập như các tông phái khác.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.163 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập