Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ Trược »»
(戒珠): tỷ dụ giới luật trong sạch, không tỳ vết, sai phạm như viên minh châu, có thể trang nghiêm thân người; cho nên cần phải siêng năng tu tịnh giới. Như trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 9, phần Tấn Vương Thọ Bồ Tát Giới Sớ (晉王受菩薩戒疏), có câu: “Thiên Thai Trí Khải Thiền Sư, Phật pháp long tượng, đồng chơn xuất gia, giới châu viên tịnh, niên tương nhĩ thuận, định thủy uyên trừng (天台智顗禪師、佛法龍象、童眞出家、戒珠圓淨、年將耳順、定水淵澄, Thiền Sư Thiên Thai Trí Khải, là bậc long tượng của Phật pháp, xuất gia lúc còn nhỏ, giới luật nghiêm trì, đến tuổi sáu mươi, nước định lắng sâu).” Hay trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 21, phần Chư Sư Tạp Truyện Đệ Thất (諸師雜傳第七), Nho Sĩ Thuật Am Tiết Trừng (儒士述菴薛澄), lại có đoạn: “Thám giới châu ư li hạm, phi huệ kiếm ư Long Môn, tảo du nhận ư Nho lâm, vô thư bất độc (探戒珠於驪頷、飛慧劍於龍門、早遊刃於儒林、無書不讀, tìm ngọc giới nơi hàm ngựa, vung kiếm tuệ ở Cửa Rồng, sớm tinh thông nơi rừng Nho, sách nào cũng đọc).” Hoặc trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Phục Hoàng Tinh Nguyên Chư Cư Sĩ (復黃惺源諸居士), cũng có đoạn khác: “Oánh giới châu vu Ngũ Trược, thị thủy khả thanh; xúc thiện đạo vu Bát Quan, hữu tình giai Phật (瑩戒珠于五濁、是水可清、趨善道于八關、有情皆佛, sáng ngọc giới nơi Năm Trược, nước ấy cũng trong; đẩy đường thiện về Tám Cửa [Bát Quan Trai], hữu tình thành Phật).”
(開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立地數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼、次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾爲余依不空譯、寫准提像於藥山園中、開光之日、忽有骨董家、以准提眞言梵書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、來助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列、爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷勝祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以敬于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福道塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相、獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、消五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野薩嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩賀)”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩曳吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)”; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)”; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)”; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)”; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩賀)” và “Án, nễ đát ra ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.
(世尊慶誕): ngày đản sanh hân hoan, vui mừng của đức Thế Tôn, còn gọi là Phật Đản Tiết (佛誕節), Dục Phật Tiết (浴佛節, Lễ Hội Tắm Phật), Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật), Long Hoa Hội (龍華會), Hoa Nghiêm Hội (華嚴會), v.v. Tùy theo mỗi quốc gia, tên gọi lễ hội linh thiêng, trọng đại này có khác nhau. Tại Nhật Bản lễ hội này được gọi là Giáng Đản Hội (降誕會, Gōtane), Phật Sanh Hội (佛生會, Busshōe), Dục Phật Hội (浴佛會, Yokubutsue), Quán Phật Hội (灌佛會, Kambutsue), Long Hoa Hội (龍華會, Ryūgee), Hoa Hội Thức (花會式, Hanaeshiki), Hoa Tế (花祭, Hanamatsuri). Trong khi đó, Hàn Quốc gọi là Thích Ca Đản Thần Nhật (釋迦誕辰日, Ngày Đản Sanh Của Đức Thích Ca), Đài Loan là Phật Đà Đản Thần Kỷ Niệm Nhật (佛陀誕辰紀念日, Ngày Kỷ Niệm Đản Sanh Của Đức Phật Đà), Việt Nam là Lễ Phật Đản, v.v. Qua các tên gọi liệt kê ở trên, Lễ Phật Đản còn được gọi là Lễ Hội Tắm Phật. Truyền thống Lễ Hội Tắm Phật vốn phát xuất từ truyền thuyết có 2 con rồng phun nước hương thơm rưới lên kim thân của của đức Phật khi ngài hạ sanh, như trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō No. 189) quyển 1 có diễn tả như sau: “Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương, ư hư không trung, thổ thanh tịnh thủy, nhất ôn nhất lương, quán Thái Tử thân, thân hoàng kim sắc hữu tam thập nhị tướng, phóng đại quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới, thiên long Bát Bộ diệc ư không trung tác thiên kỷ nhạc, ca bối tán tụng, thiêu chúng danh hương, tán chư diệu hoa, hựu vũ thiên y nãi dĩ Anh Lạc, tân phân loạn trụy bất khả xưng sổ (難陀龍王、優波難陀龍王、於虛空中、吐清淨水、一溫一涼、灌太子身、身黃金色有三十二相、放大光明、普照三千大千世界、天龍八部亦於空中作天伎樂、歌唄讚頌、燒眾名香、散諸妙花、又雨天衣及以瓔珞、繽紛亂墜不可稱數, Nan Đà Long Vương, Ưu Ba Nan Đà Long Vương ở trong không trung, phun nước trong sạch, một dòng ấm một dòng mát, rưới lên mình Thái Tử; thân người màu vàng ròng, có ba mươi hai tướng, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới; trời rồng tám bộ chúng cũng ở trên hư không tạo các thứ nhạc trời, ca xướng tán tụng, đốt các loại hương thơm, rãi các loại hoa quý, rồi lại mưa áo trời và lấy Anh Lạc rãi cùng khắp, không thể nào đếm kẻ xiết).” Hay như trong Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō No. 186) quyển 2 cho là có 9 con rồng: “Cửu long tại thượng nhi hạ hương thủy, tẩy dục thánh tôn, tẩy dục cánh dĩ, thân tâm thanh tịnh (九龍在上而下香水、洗浴聖尊、洗浴竟已、身心清淨, chín con rồng ở trên không trung mà rưới nước hương thơm xuống, tắm rửa đấng thánh tôn; tắm rửa xong rồi, thân tâm trong sạch).” Nghi thức tắm các tôn tượng này vốn đã có từ thời xa xưa ở Ấn Độ, là một nhu cầu cần thiết về mặt tôn giáo để cầu phước diệt tội. Như trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō No. 310) quyển 100 có đề cập đến câu chuyện công chúa Vô Cấu Thí (無垢施), con gái của vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) như sau: “Kỳ nữ ư nhị nguyệt bát nhật Phật tinh hiện nhật, dữ ngũ bách Bà La Môn câu, trì mãn bình thủy, xuất chí thành ngoại dục tẩy thiên tượng (其女於二月八日佛星現日、與五百婆羅門俱、持滿瓶水、出至城外浴洗天像, người nữ ấy vào ngày mồng 8 tháng 2, ngày sao Phật xuất hiện, cùng với 500 vị Bà La Môn, cầm một cái bình đầy nước, ra ngoài thành tắm rửa bức tượng trời).” Trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) quyển 4 của Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường có đoạn rằng: “Đại sư tuy diệt, hình tượng thượng tồn, kiều tâm như tại, lý ứng tôn kính; hoặc khả hương hoa mỗi thiết, năng sanh thanh tịnh chi tâm, hoặc khả quán mộc hằng vi, túc đãng hôn trầm chi nghiệp; … đản Tây quốc chư tự, quán mộc tôn nghi, mỗi ư nam trung chi thời, thọ sự tiện minh kiền chùy, tự đình trương thí bảo cái, điện trắc la liệt hương bình, thủ kim, ngân, đồng, thạch chi tượng, trí dĩ đồng, kim, mộc, thạch bàn nội, linh chư kỷ nữ tấu kỳ âm nhạc, đồ dĩ ma hương, quán dĩ hương thủy, dĩ tịnh bạch diệp nhi giai thức chi; nhiên hậu an trí điện trung, bố chư hoa thái, thử nãi tự chúng chi nghi (大師雖滅、形像尚存、翹心如在、理應尊敬、或可香花每設、能生清淨之心、或可灌沐恆爲、足盪昏沉之業、…但西國諸寺、灌沐尊儀、每於男中之時、授事便鳴楗椎、寺庭張施寶蓋、殿側羅列香瓶、取金、銀、銅、石之像、置以銅、金、木、石盤內、令諸妓女奏其音樂、塗以磨香、灌以香水、以淨白氎而揩拭之、然後安置殿中、布諸花彩、此乃寺眾之儀, Đại sư tuy đã diệt độ, nhưng hình tượng vẫn còn, tâm thành như còn sống, lý hợp với sự tôn kính; hoặc có thể mỗi lần thiết bày hương hoa, làm cho sanh tâm trong sạch; hay có thể tắm rửa tượng thường xuyên để tẩy sạch nghiệp hôn trầm; … hơn nữa, các chùa ở phương Tây [Ấn Độ], có nghi thức tắm tửa tôn tượng, mỗi khi đúng dịp người nam, người chịu trách nhiệm bèn đánh kiền chùy; nơi sân chùa giăng lọng báu, bên chánh điện bày biện các bình hương; lấy tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, đem dặt vào trong chậu bằng đồng, vàng, gỗ, đá; sai các kỷ nữ tấu âm nhạc, thoa hương thơm lên tượng, rưới nước hương thơm, rồi lấy khăn trắng lau sạch tượng; sau đó, đem tượng an trí trong điện, phủ các sắc hoa, đây là nghi thức của các chùa).” Khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, nghi thức này cũng được lưu truyền theo và ban đầu nó rất thịnh hành trong triều đình cũng như trong tầng lớp quan lại. Mãi cho đến thời đại Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều, nó trở thành phổ biến rộng khắp. Như trong Truyện Phật Đồ Trừng (佛圖澄傳) của Cao Tăng Truyện (高僧傳) quyển 10 có đề cập đến câu chuyện vị quốc chủ của nhà Hậu Triệu (後趙, 319-352) là Thạch Lặc (石勒, 319-333) đã từng vì con mà đến chùa hành lễ Tắm Phật: “Thạch Lặc chư trĩ tử, đa tại Phật tự trung dưỡng, mỗi chí tứ nguyệt bát nhật, Lặc cung tự nghệ tự quán Phật, vi nhi phát nguyện (石勒諸稚子、多在佛寺中養之、每至四月八日、勒躬自詣寺灌佛、爲兒發願, các con nhỏ của Thạch Lặc, phần lớn được nuôi dưỡng trong chùa; mỗi khi vào ngày mồng 8 tháng tư, Thạch Lặc kính thành đích thân đến chùa làm lễ Tắm Phật, vì con nhỏ mà phát nguyện như vậy).” Hoặc như trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 36, Điều Tống Hiếu Võ Đế Đại Minh Lục Niên (宋孝武帝大明六年, năm 462) có đoạn: “Tứ nguyệt bát nhật, đế ư nội điện quán Phật trai tăng (四月八日、帝於內殿灌佛齋僧, vào ngày mồng 8 tháng tư, nhà vua hành lễ Tắm Phật và Trai Tăng trong nội điện).” Hay trong Lưu Kính Tuyên Truyện (劉敬宣傳) của Tống Thư (宋書) quyển 47 có kể rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, Kính Tuyên kiến chúng nhân quán Phật, nãi hạ đầu thượng kim kính dĩ vi mẫu quán, nhân bi khấp bất tự thắng (四月八日、敬宣見眾人灌佛、乃下頭上金鏡以爲母灌、因悲泣不自勝, vào ngày mồng 8 tháng tư, Kính Tuyên thấy mọi người tắm Phật, bèn lấy cái kính vàng trên đầu xuống, vì mẹ mà dội nước tắm, nhân đó buồn khóc chẳng tự kiềm chế được).” Cho nên, nghi thức Tắm Phật được thịnh hành từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Về ngày tiến hành Lễ Phật Đản hay Lễ Tắm Phật, xưa nay có nhiều ký lục bất đồng như ngày mồng 8 tháng 2, mồng 8 tháng 4, hay mồng 8 tháng 12. Dưới thời Hậu Hán (後漢, 25-220), trong Ngô Thư (吳書) không ghi rõ ngày Tắm Phật của Trách Dung (笮融, ?-195); đến thời Bắc Triều thì phần lớn người ta tiến hành lễ này vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Tuy nhiên, từ thời nhà Lương (梁, 502-557), qua nhà Đường (唐, 618-907) đến đầu thời nhà Liêu (遼, 907-1125), đại để lễ hội này được tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 2. Dưới thời nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127) lại tổ chức vào ngày mồng 8 tháng chạp; nhưng Nam Tống thì tiến hành ngày mồng 8 tháng 4. Như đã nêu trên, trường hợp của Thạch Lặc nhà Hậu Triệu, Hiếu Võ Đế (孝武帝, 453-464) của nhà Lưu Tống (劉宋, 420-479), Lưu Kính Tuyên (劉敬宣, ?-415), v.v., đều tiến hành vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch. Trong khi đó, tác phẩm Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) dưới thời nhà Lương lại ghi là ngày mồng 8 tháng 2. Trong Thích Huyền Uyển Truyện (釋玄琬傳) nhà Đường của Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) quyển 22 có đoạn rằng: “Uyển dĩ nhị nguyệt bát nhật Đại Thánh Đản Mộc chi thần, truy duy cựu chư, kính sùng dục cụ, mỗi niên như thử, khai giảng thiết trai, đại hội đạo tục (琬以二月八日大聖誕沐之辰、追惟舊緒、敬崇浴具、每年此日、開講設齋、大會道俗, Huyền Uyển lấy ngày mồng 8 tháng 2 làm ngày tắm Đản Sanh Đức Đại Thánh, theo lề lối xưa, kính sùng vật dụng tắm rửa, mỗi năm vào ngày này, thuyết giảng và bày cỗ chay, tập trung cả tăng lẫn tục).” Phần Lễ Chí (禮志) của Liêu Sử (遼史) quyển 53 cũng ghi ngày mồng 8 tháng 2 là ngày sanh của Thái Tử Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多). Trong phần Phật Đản Sanh Niên Đại (佛誕生年代) của Tăng Sử Lược (僧史略) quyển Thượng do Tán Ninh (贊寧, 919-1001) nhà Bắc Tống biên soạn có đoạn: “Kim Đông Kinh dĩ lạp nguyệt bát nhật dục Phật, ngôn Phật sanh nhật (今東京以臘月八日浴佛、言佛生日, nay kinh đô [lúc bấy giờ kinh đô nhà Tống là Khai Phong] lấy ngày mồng 8 tháng chạp làm ngày Tắm Phật, xem đó là ngày Phật hạ sanh).” Hay như Sự Văn Loại Tụ (事文類聚) của Chúc Mục (祝穆, ?-?) nhà Tống có ghi rằng: “Hoàng triều đông kinh thập nhị nguyệt sơ bát nhật, đô thành chư đại tự tác Dục Phật Hội, tinh tạo thất bảo ngũ vị chúc, vị chi Lạp Bát Chúc (皇朝東京十二月初八日、都城諸大寺作浴佛會、並造七寶五味粥、謂之臘八粥, vào ngày mồng 8 tháng 12, kinh đô hoàng triều, các chùa lớn trong thành đô đều tiến hành Lễ Hội Tắm Phật, làm thứ cháo có bảy loại báu và năm vị, gọi đó là Cháo Mồng Tám Tháng Chạp).” Bên cạnh đó, tác phẩm Tuế Thời Tạp Ký (歲時雜記) có đề cập rằng: “Chư kinh thuyết Phật sanh nhật bất đồng, kỳ chỉ ngôn tứ nguyệt bát nhật sanh giả vi đa; … cố dụng tứ nguyệt bát nhật quán phật dã; kim đản Nam phương giai dụng thử nhật, Bắc nhân chuyên dụng lạp nguyệt bát nhật, cận tuế nhân Viên Chiếu Thiền Sư lai Huệ Lâm, thỉ dụng thử nhật hành Ma Ha Sát Đầu Kinh pháp, tự thị sảo sảo tuân; … kỳ hậu Tống đô Khai Phong chư tự, đa thái dụng tứ nguyệt bát nhật dục Phật (諸經說佛生日不同、其指言四月八日生者爲多、…故用四月八日灌佛也。故用四月八日灌佛也、今但南方皆用此日,北人专用腊月八日,近岁因圆照禅师(1020—1099)来慧林(禅院),始用此日行《摩诃刹头经》法;自是稍稍遵(之)。今但南方皆用此日、北人專用臘月八日、近歲因圓照禪師來慧林、始用此日行摩訶剎頭經法、自是稍稍遵、…其後宋都開封諸寺、多采用四月八日浴佛, các điển tịch nói về ngày đản sanh của đức Phật không đồng nhất với nhau, phần lớn đều chỉ ngày mồng 8 tháng tư; … cho nên mới dùng ngày mồng 8 tháng tư để tiến hành Lễ Tắm Phật; nay phương Nam đều dùng ngày này, người phương Bắc lại chuyên dùng ngày mồng 8 tháng chạp; gần đây nhân khi Thiền Sư Viên Chiếu [1020-1099] đến Thiền Viện Huệ Lâm, bắt đầu dùng ngày này để hành pháp tu của Ma Ha Sát Đầu Kinh, từ đó có tuân theo chút ít; … về sau, các chùa trong Phủ Khai Phong thuộc kinh đô nhà Tống, phần lớn đều chọn lấy ngày mồng 8 tháng tư làm ngày Tắm Phật).” Từ đó, tác phẩm Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 ghi rõ rằng: “Tứ nguyệt bát nhật Phật sanh nhật, thập đại Thiền viện các hữu Dục Phật Trai Hội, tiễn hương dược đường thủy tương di, danh viết Dục Phật Thủy (四月八日佛生日、十大禪院各有浴佛齋會、煎香藥糖水相遺、名曰浴佛水, ngày mồng 8 tháng tư là ngày đản sanh của đức Phật, 10 Thiền viện lớn, mỗi chùa đều có Lễ Hội Trai Tăng Tắm Phật, nấu nước đường thuốc hương thơm ban bố khắp, tên gọi là Nước Tắm Phật).” Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, do Trung Phong Minh Bổn [中峰明本, 1263-1323] biên soạn vào năm 1317) cũng như Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, được tu chỉnh vào năm 1336) dưới thời nhà Nguyên cũng quy định ngày mồng 8 tháng tư là ngày Khánh Đản của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Từ đó, trên toàn lãnh thổ Trung Quốc cũng thống nhất tổ chức Lễ Phật Đản vào ngày này. Như trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 2, Chương Báo Bổn (報本章), điều Phật Giáng Đản (佛降誕) có quy định cụ thể nghi thức Tắm Phật như sau: “Chí tứ nguyệt bát nhật, Khố Ty nghiêm thiết hoa đình, trung trí Phật giáng sanh tượng, ư hương thang bồn nội, an nhị tiểu tiêu; Phật tiền phu trần cúng dường tất; Trú Trì thượng đường chúc hương vân: 'Phật Đản linh thần, mỗ tự trú trì … kiền nhiệt bảo hương, cúng dường Bổn Sư Thích Ca Như Lai Đại Hòa Thượng, thượng thù từ ấm, sở kí pháp giới chúng sanh, niệm niệm chư Phật xuất hiện ư thế.' Trú Trì thuyết pháp cánh, lãnh chúng đồng đáo điện thượng; Trú Trì thượng hương tam bái nhiên hậu quỳ lô; Duy Na bạch Phật vân: 'Nhất nguyệt tại thiên, ảnh hàm chúng thủy; nhất Phật xuất thế, các tọa nhất hoa; Bạch Hào thư nhi Tam Giới minh, Cam Lồ sái nhi Tứ Sanh nhuận; … tuyên sớ tất, xướng Dục Phật Kệ (至四月八日、庫司嚴設花亭、中置佛降生像、於香湯盆內、安二小杓、佛前敷陳供養畢、住持上堂祝香雲、佛誕令辰,某寺住持…虔爇寶香、供養本師釋迦如來大和尚、上酬慈蔭、所冀法界眾生、念念諸佛出現於世、住持說法竟、領眾同到殿上、住持上香三拜然後跪爐、維那白佛云、一月在天、影涵眾水、一佛出世、各坐一華、白毫舒而三界明、甘露灑而四生潤、…宣疏畢、唱浴佛偈, đến ngày mồng 8 tháng tư, vị Tri Khố trang nghiêm thiết bày nhà hoa, bên trong an trí tượng Phật Đản Sanh, bỏ hai cái muỗng nhỏ bên trong cái bồn nước nóng hương thơm; trước tượng Phật bày biện các vật phẩm cúng dường; xong vị Trú Trì thượng đường niệm hương rằng: 'Khoảnh khắc linh thiêng đức Phật đản sanh, con Trú Trì chùa …, kính dâng hương báu tỏa khắp, cúng dường lên đức Đại Hòa Thượng Bổn Sư Thích Ca Như Lai, trên đền đáp ơn từ, mong khắp pháp giới chúng sanh, thường nhớ chư Phật xuất hiện trên đời; vị Trú Trì thuyết pháp xong, dẫn đại chúng cùng lên Chánh Điện, ông dâng hương, lạy ba lạy, sau đó quỳ xuống; vị Duy Na bạch Phật rằng: 'Một trăng trên trời, bóng hiện khắp chốn; một Phật ra đời, đều ngồi tòa sen; mày trắng buông mà Ba Cõi sáng, Cam Lồ rưới mà Bốn Loài thấm, … tuyên sớ xong, xướng bài Kệ Tắm Phật).” Đối với Việt Nam, bên cạnh ngày mồng 8, Lễ Phật Đản thường được tổ chức vào ngày rằm tháng tư Âm Lịch hằng năm. Như có đề cập ở trên, khi tiến hành Lễ Tắm Phật, bài Kệ Tắm Phật (căn cứ vào bài kệ trong Dục Phật Công Đức Kinh) được xướng tụng là: “Ngã kim quán mộc chư Như Lai, tịnh trí trang nghiêm công đức tụ, Ngũ Trược chúng sanh linh ly cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp Thân (我今灌沐諸如來、淨智莊嚴功德聚、五濁眾生令離垢、同證如來淨法身, con nay tắm gội các Như Lai, trí sạch trang nghiêm công đức lớn, chúng sanh Năm Trược xa cấu nhiễm, cùng chứng tịnh Pháp Thân Như Lai).” Về công đức Tắm Phật, trong Dục Phật Công Đức Kinh có liệt kê 15 loại: “Thiện nam tử, nhược hữu chúng sanh, năng tác như thị thắng cúng dường giả, thành tựu thập ngũ thù thắng công đức nhi tự trang nghiêm; nhất giả thường hữu tàm quý, nhị giả phát tịnh tín tâm, tam giả kỳ tâm chất trực, tứ giả thân cận thiện hữu, ngũ giả nhập vô lậu tuệ, lục giả thường kiến chư Phật, thất giả hằng trì chánh pháp, bát giả năng như thuyết hành, cửu giả tùy ý đương sanh tịnh Phật quốc độ, thập giả nhược sanh nhân trung đại tánh tôn quý nhân sở kính phụng sanh hoan hỷ tâm, thập nhất giả sanh tại nhân trung tự nhiên niệm Phật, thập nhị giả chư ma quân chúng bất năng tổn não, thập tam giả năng ư mạt thế hộ trì chánh pháp, thập tứ giả thập phương chư Phật chi sở gia hộ, thập ngũ giả tốc đắc thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân (善男子、若有眾生、能作如是勝供養者、成就十五殊勝功德而自莊嚴、一者常有慚愧、二者發淨信心、三者其心質直、四者親近善友、五者入無漏慧、六者常见诸佛。 六者常見諸佛、七者恆持正法、八者能如說行、九者隨意當生淨佛國土、十者若生人中大姓尊貴人所敬奉生歡喜心、十一者生在人中自然念佛、十二者諸魔軍眾不能損惱、十三者能於末世護持正法、十四者十方諸佛之所加護、十五者速得成就五分法身, này thiện nam tử, nếu có chúng sanh nào có thể thực hiện sự cúng dường như vậy, sẽ thành tựu 15 loại công đức thù thắng để tự trang nghiêm; một là thường có sự hổ thẹn, hai là phát tín tâm trong sạch, ba là tâm của vị ấy ngay thẳng, bốn là gần gủi bạn tốt, năm là vào trí tuệ vô lậu, sáu là thường thấy chư Phật, bảy là thường giữ gìn chánh pháp, tám là có thể hành theo đúng với lời dạy, chín là tùy ý sẽ sanh về quốc độ thanh tinh của Phật, mười là nếu sanh vào cõi người thì được người dòng họ tôn quý kính phụng và sanh tâm hoan hỷ, mười một là nếu sanh trong cõi người thì tự nhiên niệm Phật, mười hai là chúng ma quân không thể làm cho tổn hại và gây rối, mười ba là có thể hộ trì chánh pháp vào thời mạt pháp, mười bốn là được mười phương chư Phật gia hộ, mười lăm là mau chóng thành tựu Năm Phần Pháp Thân).”
(常寂光): từ gọi tắt của Thường Tịch Quang Độ (常寂光土), là cõi Tịnh Độ nơi pháp thân của chư Phật Như Lai an trú, một trong 4 quốc độ của giáo thuyết Thiên Thai Tông, còn gọi là Tịch Quang Tịnh Độ (寂光淨土), Tịch Quang Quốc (寂光國), Tịch Quang Độ (寂光土), Tịch Quang (寂光). Thế giới an trú của chư Phật là bản tánh chân như, không biến hóa, sanh diệt (tức thường [常]), không bị phiền não nhiễu loạn (tức tịch [寂]) và có ánh sáng trí tuệ (tức quang [光]), cho nên có tên gọi là Thường Tịch Quang Độ. Đây là quốc độ chư Phật tự chứng bí tạng tối cùng cực, lấy pháp thân, giải thoát và bát nhã làm thể, đầy đủ 4 đức Thường (常), Lạc (樂), Ngã (我) và Tịnh (淨). Trong Quán Phổ Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh (觀普賢菩薩行法經, Taishō 9, 393) có đoạn rằng: “Thích Ca Mâu Ni Phật danh Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ, kỳ Phật trú xứ danh Thường Tịch Quang, Thường Ba La Mật sở nhiếp thành xứ, Ngã Ba La Mật sở an lập xứ, Tịch Ba La Mật diệt hữu tướng xứ, Lạc Ba La Mật bất trú thân tâm tướng xứ (釋迦牟尼佛名毘盧遮那遍一切處、其佛住處名常寂光、常波羅蜜所攝成處、我波羅蜜所安立處、淨波羅蜜滅有相處、樂波羅蜜不住身心相處, đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật có tên là Tỳ Lô Giá Na Biến Nhất Thiết Xứ [Tỳ Lô Giá Na Biến Hết Thảy Các Nơi], trú xứ của Phật ấy tên là Thường Tịch Quang, nghĩa là nơi được nhiếp thành của Thường Ba La Mật, nơi được an lập của Ngã Ba La Mật, nơi diệt hết các tướng có của Tịch Ba La Mật và nơi không trú vào tướng thân tâm của Lạc Ba La Mật)”. Hơn nữa, quốc độ này được phân thành Phần Chứng (分證) và Cứu Cánh (究竟) với 3 phẩm thượng, trung, hạ. Theo lời dạy trong quyển 1 của Duy Ma Kinh Lược Sớ (維摩經略疏) cho biết rằng cõi của Diệu Giác Pháp Thân (妙覺法身) cư trú là Thượng Phẩm Tịch Quang Độ (上品寂光土), cõi của Nhất Sanh Đẳng Giác (一生等覺) là Trung Phẩm Tịch Quang Độ (寂光土), cõi của Viên Giáo (圓敎) từ sơ trú trở lên là Hạ Phẩm Tịch Quang Độ (寂光土). Ngoài ra, vị tăng nhà Bắc Tống là Tứ Minh Tri Lễ (四明知禮) lấy hai cõi Thật Báo (實報) và Tịch Quang (寂光) phối hợp thành Thỉ Giác (始覺) và Bản Giác (本覺), để xướng ra thuyết “Tịch Quang Hữu Tướng (寂光有相, Tịch Quang Có Tướng)”; ngược lại vị tăng Tịnh Giác (淨覺) lại tuyên xướng thuyết “Tịch Quang Vô Tướng (寂光無相, Tịch Quang Không Tướng).” Trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải (佛說阿彌陀經要解) của Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (蕅益智旭, 1599-1655) nhà Thanh có đoạn rằng: “Phục thứ, chỉ thử nguyện trang nghiêm nhất thanh A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược vi Thanh Tịnh Hải Hội, chuyển Kiến Trược vi Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược vi Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược vi Liên Hoa hóa sanh, chuyển Mạng Trược vi Vô Lượng Thọ; cố nhất thanh A Di Đà Phật, tức Thích Ca Bổn Sư ư Ngũ Trược ác thế, sở đắc chi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề pháp (復次、只此信願莊嚴一聲阿彌陀佛、轉劫濁爲清淨海會、轉見濁爲無量光、轉煩惱濁爲常寂光、轉眾生濁爲蓮華化生、轉命濁爲無量壽、故一聲阿彌陀佛、卽釋迦本師於五濁惡世、所得之阿耨多羅三藐三菩提法, lại nữa, chỉ lấy nguyện này trang nghiêm một tiếng niệm A Di Đà Phật, chuyển Kiếp Trược thành Hải Hội Thanh Tịnh, chuyển Kiến Trược thành Vô Lượng Quang, chuyển Phiền Não Trược thành Thường Tịch Quang, chuyển Chúng Sanh Trược thành hoa sen hóa sanh, chuyển Mạng Trược thành Vô Lượng Thọ; cho nên một tiếng niệm A Di Đà Phật là pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề do đức Bổn Sư Thích Ca chứng đắc ở đời ác có Năm Trược).” Hay như trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận (靈峰蕅益大師宗論) quyển 6, phần Cảnh Tâm Cư Sĩ Trì Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Kiêm Khuyến Nhân Tự (警心居士持地藏本願經兼勸人序) có câu: “Nhất niệm mê Thường Tịch Quang Độ tiện thành A Tỳ Địa Ngục, nhất niệm ngộ A Tỳ Địa Ngục tiện thị Thường Tịch Quang Độ (一念迷常寂光土便成阿鼻地獄、一念悟阿鼻地獄便是常寂光土, một niệm mê bèn thành Địa Ngục A Tỳ, một niệm ngộ tức là Thường Tịch Quang Độ).”
(淨邦): tên gọi khác của Tịnh Độ (淨土), chỉ cho một quốc độ trang nghiêm, thanh tịnh, nơi chư Phật thường cư trú. Như trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) có đoạn: “Tịnh Bang quốc độ diệu vô cùng, thất bảo trang thành Cực Lạc Cung, xứ xứ Ca Lăng tiền cổ vũ, song song Khổng Tước hậu lâm trung, liên khai Thượng Phẩm nan vi tỷ, hoa thổ u hương cánh bất đồng (淨邦國土妙無窮、七寶妝成極樂宮、處處迦陵前鼓舞。雙雙孔雀後林中、蓮開上品難為比、花吐幽香更不同, Tịnh Bang quốc độ tuyệt vô cùng, bảy báu tạo thành Cực Lạc Cung, chốn chốn Ca Lăng chim cổ vũ, nơi nơi Khổng Tước hót trong rừng, sen bày Thượng Phẩm sao sánh được, hoa tỏa hương thơm chốn nào bằng).” Hay như trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252) quyển 1 cũng có câu: “Ta Bà uế độ tiềm tiêu Ngũ Trược chi căn, Cực Lạc Tịnh Bang tảo hạ Cửu Liên chi chủng (娑婆穢土潛消五濁之根、極樂淨邦早下九蓮之種, Ta Bà cõi nhớp dần tiêu Năm Trược căn nguyên, Cực Lạc Tịnh Bang sớm gieo Chín Sen hạt giống).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập