Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngưng Nhiên »»
(華嚴宗, Kegon-shū): tông phái được thành lập vào khoảng đời nhà Tùy cho đến đầu nhà Đường và hìnhthành nên giáo học cố hữumang tính căn bản dựa trên kinh điển tối cao là Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) và tư tưởng của bộ kinh này. Theo cách nhìn truyền thống thì có hai thuyết: Ngũ Tổ và Thất Tổ. Ngũ Tổ gồm Sơ Tổ Đỗ Thuận (杜順, 557-640), Nhị Tổ Trí Nghiêm (智嚴, 602-668), Tam Tổ Pháp Tạng (法藏, 643-712), Tứ Tổ Trừng Quán (澄觀, 738-839) và Ngũ Tổ Tông Mật (宗密, 780-841). Thất Tổ thì trước Đỗ Thuận có thêm vào Mã Minh (Aśvaghoṣa, 馬鳴, khoảng thế kỷ thứ 2) và Long Thọ (Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250). Ở Trung Hoa, sau thời Tông Mật thì Hoa Nghiêm Tông bắt đầu yếu dần thế lực. Đến năm 671 có Nghĩa Sương (義湘), người đồng hàng sư huynh của Pháp Tạng, đã truyền tông này sang Tân La (新羅, tức Triều Tiên); và vào năm 736 thì Thẩm Tường (審祥), môn hạ của Pháp Tạng, truyền tông này sang Nhật Bản. Bên cạnh căn cứ vào Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Nghiêm Tông của Nhật còn chú trọng đến Phạm Võng Kinh (梵綱經), lập cước ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), kết hợp giữa tư tưởng của Lý Thông Huyền (李通玄) và tư tưởng Mật Giáo. Thêm vào đó, việc xác lập nên hệ thống giáo học Đông Đại Tự của Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen, 1240-1321) là điểm trọng yếu.
(金相): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho hình thức hoàn mỹ. Như trong bài Hà Nam Phủ Tham Quân Quách Quân Thần Đạo Bi Minh (河南府參軍郭君神道碑銘) của Nhan Chơn Khanh (顏眞卿, 709-785) nhà Đường có câu: “Gia truyền ngọc thọ, nhân vịnh kim tướng (家傳玉樹、人詠金相, nhà truyền cây ngọc, người vịnh tướng đẹp).” (2) Chỉ cho các tượng Phật, Bồ Tát dát vàng. Như trong bài thơ Tịnh Lạc Cung (淨樂宮) của Vương Thế Trinh (王世貞, 1526-1590) nhà Minh có câu: “Mạt pháp khai kim tướng, chơn vương đắc bảo phù (末法開金相、眞王得寳符, mạt pháp bày vàng tướng, vua hiền được báu bùa).” Trong Ngũ Phương Tiện Niệm Phật Môn (五方便念佛門, Taishō Vol. 47, No. 1962) có đoạn: “Niệm Phật chi thời đế quán Như Lai ngọc hào kim tướng, Ngưng Nhiên tịch tĩnh liễu lượng động triệt, danh Ngưng Tâm Thiền (念佛之時諦觀如來玉毫金相、凝然寂靜了亮洞徹,名凝心禪, khi niệm Phật, quán rõ tướng vàng lông ngọc của Như Lai, lắng đọng tĩnh lặng, sáng soi thấu triệt, đó gọi là Thiền Lắng Tâm).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 23, phần Đàm Châu Báo Từ Khai Phước Tấn Anh Thiền Sư (潭州報慈開福進英禪師), lại có đoạn: “Kim triêu tứ nguyệt bát, ngã Phật giáng sanh thần, đầu đầu kim tướng hiện, xứ xứ pháp tràng tân, bất tẩy thế, bất tẩy trần, quán mộc Như Lai diệu sắc thân, thùy tín nhị thiên niên hậu sự, Ưu Đàm trùng trưởng nhất chi xuân (今朝四月八、我佛降生辰、頭頭金相現、處處法幢新、不洗體、不洗塵、灌沐如來妙色身、誰信二千年後事、優曇重長一枝春, sáng nay mồng tám tháng tư, ngày Phật ta giáng trần, đầu đầu tướng vàng hiện, chốn chốn cờ pháp tung, chẳng rửa thân, chẳng rửa bụi, tắm rửa Như Lai sắc mầu thân, ai tin hai ngàn năm sau nữa, Ưu Đàm lớn mạnh một cành xuân).”
(三經義疏, Sangyōgisho): thư tịch chú thích kinh điển do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) truyền lại, tên gọi chung của Pháp Hoa Kinh Nghĩa Sớ (法華經義疏) 4 quyển, Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ (勝鬘經義疏) 1 quyển và Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ (維摩經義疏) 2 quyển. Theo ký lục của thời đại Nại Lương về bộ sách này thì trong Pháp Long Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (法隆寺伽藍緣起并流記資材帳) có ghi là Thượng Cung Thánh Đức Thái Tử Vương Ngự Chế Giả (上宮聖德太子王御制者); còn trong Thượng Cung Thánh Đức Pháp Vương Đế Thuyết (上宮聖德法王帝說) cũng có ghi là ngự chế sớ kinh 7 quyển của Pháp Hoa, v.v.; và trong Tịnh Danh Huyền Luận Lược Thuật (淨名玄論略述) của Trí Quang (智光, Chikō) cũng như trong Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương Chỉ Sự Ký (華嚴五敎章指事記) của Thọ Linh (壽靈, Jurei), v.v., cũng có dẫn dụng những ngôn từ trong bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ này. Vào thời Bình An và Liêm Thương thì rất nhiều các học tăng của các tông phái như Tối Trừng (最澄, Saichō), Không Hải (空海, Kūkai), Viên Trân (圓珍, Enchin), Huyền Duệ (元叡, Genei), Trọng Toán (仲算, Chūsan), Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Trừng Thiền (澄禪, Chōzen), Tông Tánh (宗性, Sōshō), v.v., cũng đã có dẫn dụng về bộ luận này. Đặc biệt Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen) đã tiến hành chú thích toàn bộ thư tịch này. Vào năm 1274 thì cả ba bộ sớ này được khắc gỗ và xuất bản. Từ đó trở đi có rất nhiều bản in khắc khác ra đời.
(少林寺): còn gọi là Trắc Hỗ Tự (陟岵寺), là ngôi cổ sát nổi tiếng của trung quốc, ngôi tổ đình tiếng tăm lừng lẫy của Thiền Tông, nơi phát xuất công phu Thiếu Lâm; hiện tọa lạc tại Huyện Đăng Phong (登封縣), sườn núi phía Tây Tung Sơn (嵩山), Tỉnh Hà Nam (河南省); thuộc một trong Ngũ Nhạc (五岳). Chùa được vua Hiếu Văn Đế (孝文帝, tại vị 471-499) kiến lập vào năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和) nhà Bắc Ngụy (北魏), cho vị cao tăng người Thiên Trúc là Phật Đà (佛陀). Vị này từng dịch kinh ở tại đây, rồi Đạo Phòng (道房), Đạo Bằng (道憑), hay Phật Quang (佛光), Tăng Trù (僧稠), Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727), Lặc Na Ma Đề (s: Ratnamati, 勒那摩提, ?-?), Huệ Viễn (慧遠, 523-592) của Tịnh Ảnh Tự (淨影寺), Huyền Trang (玄奘, 602-664), v.v., cũng đã từng dừng chân tại chùa này. Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) đã từng quay mặt vào tường chùa 9 năm, và truyền thuyết Huệ Khả (慧可, 487-593) chặt tay dâng cho Đạt Ma để cầo đạo cũng phát xuất từ Thánh địa này. Sau đó, bốn phương tăng chúng quy tụ về đây để tu tập theo Thiền phong của Đạt Ma, nên chùa đã từng một thời cực thịnh. Tuy nhiên, chùa lại gặp phải tai ách Bài Phật Phế Thích của vua Võ Đế (武帝, tại vị 560-578) nhà Bắc Chu (北周), nên ngôi già lam dã bị phá hủy tan tành. Đến thời nhà Tùy, chùa được phục hưng lại, đổi tên thành Trắc Hỗ Tự; song đến thời vua Văn Đế (文帝, tại vị 581-604) nhà Tùy, chùa được đổi tên lại như xưa. Từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589) cho đến đầu thời nhà Đường (唐, 618~907), nơi đây đã từng là căn cứ địa của Đạo Giáo. Vào khoảng cuối niên hiệu Đại Nghiệp (大業, 605-616), chùa lại bị sơn tặc đốt cháy tan tành, may thay còn sót lại các ngôi linh tháp. Dưới thời nhà Đường, chùa được sự sùng kính của Cao Tông (高宗, tại vị 649-683) cũng như Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后, tại vị 684-705), nên ngôi già lam được trùng hưng, chỉnh đốn lại toàn bộ. Sau đó, đến cuối thời nhà Đường, do vì loạn Ngũ Đại mà chùa lại bị suy vong; nhưng vào năm 1245, vâng mệnh vua Thế Tổ (世祖, tại vị 1260-1294) nhà Nguyên; Tuyết Đình Phước Dụ (雪庭福裕, 1203-1275) đến trú trì nơi đây và phục hưng lại chùa rất nhiều. Đệ tử ông có có các vị đã từng trú trì tại đây như Linh Ẩn Văn Thái (靈隱文泰), Cổ Nham Phổ Tựu (古巖普就), Tức Am Nghĩa Nhượng (卽菴義讓), Thuần Chuyết Văn Tài (淳拙文才), Ngưng Nhiên Liễu Cải (凝然了改), Câu Không Khế Bân (倶空契斌), Huyễn Hưu Thường Nhuận (幻休常潤), Vô Ngôn Chánh Đạo (無言正道), Tâm Duyệt Tuệ Hỷ (心悅慧喜), v.v. Sau đó vào năm 1735, vua Thế Tông (世宗, tại vị 1722-1735) nhà Thanh lại cho trùng tu chùa. Hiện tại, quần thể kiến trúc chùa có Sơn Môn, Thiên Vương Điện, Đại Hùng Điện, Bạt Đà Điện, Diêm Vương Điện, v.v. Ở bên phải phía Tây chùa có tảng đá Diện Bích của Đại Sư Đạt Ma; tại địa điểm cách chùa 3 dặm có Am Diện Bích. Trong khuôn viên chùa có rất nhiều ngôi tháp, văn bia của các vị vua của nhiều triều đại, cũng như của bao nhân vật nổi tiếng ngày xưa.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập