Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ Uẩn »»
(和光同塵): vốn xuất xứ từ lời dạy của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh (道德經) rằng: “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光、同其塵, hòa với ánh sáng ấy, đồng với bụi trần ấy)”; nghĩa là cùng với trần tục hợp lại với nhau, nhưng không tự lập dị. Theo Phật Giáo, từ này chỉ cho chư Phật, Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà ẩn tàng ánh sáng trí tuệ, lấy phương tiện quyền giả của Ứng Hóa Thân (應化身) mà sanh ra nơi cõi trần thế đầy rẫy phiền não, khổ đau; cùng kết duyên với chúng sanh, dần dần dẫn dắt họ đến với Phật pháp, nhưng vẫn siêu trần thoát tục; như trường hợp Phổ Môn Thị Hiện của Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), v.v. Như trong Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 6 có dạy rằng: “Hòa quang đồng trần, kết duyên chi thỉ; Bát Tướng Thành Đạo, dĩ luận kỳ chung (和光同塵、結緣之始、八相成道、以論其終, hòa quang đồng trần, ban đầu kết duyên; Tám Tướng Thành Đạo, để luận chung cuộc).” Tuy nhiên, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 375) quyển 6 lại đưa ra thuyết “hòa quang bất đồng trần (和光不同塵)” với ý nghĩa rằng chư Phật, Bồ Tát vì muốn đạt mục đích cứu độ chúng sanh nên cùng hòa hợp với chúng sanh nơi cõi trần thế, nhưng không bị ô nhiễm. Cho nên, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 5 có dạy rằng: “Hòa quang bất đồng kỳ trần giả phương tiện hiện tật, cố viết hòa quang; nội vô hoặc nghiệp, cố bất đồng trần (和光不同其塵者方便現疾、故曰和光、內無惑業、故不同塵, hòa cùng ánh sáng mà chẳng đồng với bụi trần ấy, phương tiện hiện ra tật bệnh, nên gọi là hòa quang; trong không có nghiệp mê hoặc, nên không đồng trần).” Trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1239) lại có câu rằng: “Ẩn mai kỳ tích nhi hòa quang đồng trần, thao tàng hư danh nhi khử hoa vụ thật (隱晦其跡而和光同塵、韜藏虛名而去華務實, mai danh ẩn tích mà hòa quang đồng trần, giấu kín hư danh mà bỏ hoa lấy quả).” Hay trong Phạm Võng Kinh Trực Giải (梵網經直解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 697) cũng có đoạn rằng: “Chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên ẩn Thánh hiện liệt, hòa quang đồng trần, dĩ đồng chúng sanh thân tướng sự nghiệp, như ảnh tùy hình, cửu hóa phương quy, sử kỳ giải thoát; thị cố giả thọ Tứ Đại huyễn thân, giả thọ Ngũ Uẩn hình mạng, nhi nhập lợi ích Tam Muội (諸佛菩薩、敎化眾生、必然隱聖現劣、和光同塵、以同眾生身相事業、如影隨形、久化方皈、使其解脫、是故假受四大幻身、假受五蘊形命、而入利益三昧, chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên giấu sự Thánh thiện mà hiện ra sự yếu kém, hòa quang đồng trần, để cùng với thân tướng sự nghiệp của chúng sanh, như bóng theo hình, hóa độ lâu mới quy phục; cho nên mới giả thọ thân huyễn Bốn Đại, giả thọ hình hài Năm Uẩn, mà nhập vào lợi ích Tam Muội).”
(三空): Ba Không. Các nhà Duy Thức nương vào 3 tánh Biến (遍), Y (依), Viên (圓) để lập ra nghĩa của Ba Không; tức là:
(1) Vô Tánh Không (無性空), còn gọi là Vô Thể Không (無體空), nghĩa là Tánh Biến Kế Sở Chấp (遍計所執性) trước khi vọng tình tuy là có nhưng thể tánh của nó thật sự là không.
(2) Dị Tánh Không (異性空), nghĩa là thể tướng của Tánh Y Tha Khởi (依他起性) khác hẳn với Biến Kế Sở Chấp, tuy chẳng phải là không có, nhưng cũng như sở chấp vào vọng tình mà chẳng phải có.
(3) Tự Tánh Không (自性空), có nghĩa Tánh Viên Thành Thật (圓成實性) là tự tánh của các pháp, thể hiện rõ hai tánh không của người và pháp.
Trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 15 có nêu ra Ba Không khác là Vô Thể Không (無體空), Viễn Ly Không (遠離空) và Trừ Di Không (除遺空). Hơn nữa, tùy theo sở chấp mà Không được chia thành 3 loại khác là:
(1) Ngã Không (我空), còn gọi là Nhân Không (人空); vì cho rằng pháp Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊, Năm Uẩn) độc lập, chủ tể, nên sinh ra có ngã chấp, nhưng nếu biết rõ Năm Uẩn Sắc (s, p: rūpa, 色), Thọ (s, p: vedanā, 受), Tưởng (s: sañjā, p: saññā, 想), Hành (s: saṁkhāra, p: saṅkhāra, 行) và Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識) vốn không có tự tánh, do nhân duyên mà sanh, thì chẳng hiện hữu ngã thể; đó được gọi là Ngã Không.
(2) Pháp Không (法空), nghĩa là đối với pháp Năm Uẩn cho là thật có, gọi là chấp vào pháp; nếu nhận thức rõ pháp Năm Uẩn ấy như huyễn hóa, từ duyên mà sanh khởi, vốn chẳng có tự tánh; đó được gọi là Pháp Không.
(3) Câu Không (倶空), tức hai chấp trước về ngã và pháp đều đoạn tận, ngay cả pháp chấp vào Không cũng không có thực thể, như vậy mới khế hợp với chân tâm bản tánh.
Bên cạnh đó, Tam Không còn chỉ cho Tam Giải Thoát (三解脫, Ba Pháp Giải Thoát) là Không (空), Vô Tướng (無相) và Vô Nguyện (無願); vì 3 pháp này đều làm sáng tỏ đạo lý Không, nên được gọi là Tam Không. Hay khi bố thí, nên quán 3 pháp người thọ nhận, người bố thí và vật bố thí đều là Không. Trong Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 2 có khẳng định rằng: “Tam Không giả, tức Không, Vô Tướng, Vô Nguyện (三空者、卽空、無相、無願, Ba Không là Không, Vô Tướng và Vô Nguyện).” Hay trong Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (金剛三昧經論, Taishō Vol. 34, No. 1730) quyển Thượng có câu: “Phù nhất tâm chi nguyên ly hữu vô nhi độc tịnh, Tam Không chi hải dung chơn tục nhi trạm nhiên (夫一心之源離有無而獨淨、三空之海融眞俗而湛然, phàm nguồn nhất tâm lìa xa có không mà thanh tịnh, biển Ba Không dung nhiếp cả chơn tục mà sáng suốt).” Tác phẩm Long Hưng Biên Niên Thông Luận (隆興編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 29, phần Thái Bình Hưng Quốc Tam Niên (太平興國三年, năm thứ 3 [978] niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc) có đoạn: “Hữu Tây Vức Pháp Sư Thiên Tức Tai đẳng, thường trì Tứ Nhẫn, tảo ngộ Tam Không, phiên bối diệp chi chơn thuyên, tục nhân thiên chi thánh giáo (有西域法師天息災等、常持四忍、早悟三空、翻貝葉之眞詮、續人天之聖敎, có Pháp Sư Thiên Tức Tai người Tây Vức, v.v., thường hành trì Bốn Nhẫn, sớm giác ngộ Ba Không, phiên dịch kinh điển chân lý, kế tục Trời người Thánh giáo).”
(三空): Ba Không. Các nhà Duy Thức nương vào 3 tánh Biến (遍), Y (依), Viên (圓) để lập ra nghĩa của Ba Không; tức là (1) Vô Tánh Không (無性空), còn gọi là Vô Thể Không (無體空), nghĩa là Tánh Biến Kế Sở Chấp (遍計所執性) trước khi vọng tình tuy là có nhưng thể tánh của nó thật sự là không. (2) Dị Tánh Không (異性空), nghĩa là thể tướng của Tánh Y Tha Khởi (依他起性) khác hẳn với Biến Kế Sở Chấp, tuy chẳng phải là không có, nhưng cũng như sở chấp vào vọng tình mà chẳng phải có. (3) Tự Tánh Không (自性空), có nghĩa Tánh Viên Thành Thật (圓成實性) là tự tánh của các pháp, thể hiện rõ hai tánh không của người và pháp. Trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論) quyển 15 có nêu ra Ba Không khác là Vô Thể Không (無體空), Viễn Ly Không (遠離空) và Trừ Di Không (除遺空). Hơn nữa, tùy theo sở chấp mà Không được chia thành 3 loại khác là: (1) Ngã Không (我空), còn gọi là Nhân Không (人空); vì cho rằng pháp Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊, Năm Uẩn) độc lập, chủ tể, nên sinh ra có ngã chấp, nhưng nếu biết rõ Năm Uẩn Sắc (s, p: rūpa, 色), Thọ (s, p: vedanā, 受), Tưởng (s: sañjā, p: saññā, 想), Hành (s: saṁkhāra, p: saṅkhāra, 行) và Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識) vốn không có tự tánh, do nhân duyên mà sanh, thì chẳng hiện hữu ngã thể; đó được gọi là Ngã Không. (2) Pháp Không (法空), nghĩa là đối với pháp Năm Uẩn cho là thật có, gọi là chấp vào pháp; nếu nhận thức rõ pháp Năm Uẩn ấy như huyễn hóa, từ duyên mà sanh khởi, vốn chẳng có tự tánh; đó được gọi là Pháp Không. (3) Câu Không (倶空), tức hai chấp trước về ngã và pháp đều đoạn tận, ngay cả pháp chấp vào Không cũng không có thực thể, như vậy mới khế hợp với chân tâm bản tánh. Bên cạnh đó, Tam Không còn chỉ cho Tam Giải Thoát (三解脫, Ba Pháp Giải Thoát) là Không (空), Vô Tướng (無相) và Vô Nguyện (無願); vì 3 pháp này đều làm sáng tỏ đạo lý Không, nên được gọi là Tam Không. Hay khi bố thí, nên quán 3 pháp người thọ nhận, người bố thí và vật bố thí đều là Không. Trong Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 2 có khẳng định rằng: “Tam Không giả, tức Không, Vô Tướng, Vô Nguyện (三空者、卽空、無相、無願, Ba Không là Không, Vô Tướng và Vô Nguyện).” Hay trong Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (金剛三昧經論, Taishō Vol. 34, No. 1730) quyển Thượng có câu: “Phù nhất tâm chi nguyên ly hữu vô nhi độc tịnh, Tam Không chi hải dung chơn tục nhi trạm nhiên (夫一心之源離有無而獨淨、三空之海融眞俗而湛然, phàm nguồn nhất tâm lìa xa có không mà thanh tịnh, biển Ba Không dung nhiếp cả chơn tục mà sáng suốt).” Tác phẩm Long Hưng Biên Niên Thông Luận (隆興編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 29, phần Thái Bình Hưng Quốc Tam Niên (太平興國三年, năm thứ 3 [978] niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc) có đoạn: “Hữu Tây Vức Pháp Sư Thiên Tức Tai đẳng, thường trì Tứ Nhẫn, tảo ngộ Tam Không, phiên bối diệp chi chơn thuyên, tục nhân thiên chi thánh giáo (有西域法師天息災等、常持四忍、早悟三空、翻貝葉之眞詮、續人天之聖敎, có Pháp Sư Thiên Tức Tai người Tây Vức, v.v., thường hành trì Bốn Nhẫn, sớm giác ngộ Ba Không, phiên dịch kinh điển chân lý, kế tục Trời người Thánh giáo).”
(清涼澄觀, Shōryō Chōkan, 738-839): vị tổ thứ 4 của Thiên Thai Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, người Sơn Âm (山陰), Việt Châu (越州, Thiệu Hưng, Triết Giang), họ Hạ Hầu (夏候), tự Đại Hưu (大休), hiệu Thanh Lương Quốc Sư (清涼國師), Hoa Nghiêm Bồ Tát (華嚴菩薩), Hoa Nghiêm Sớ Chủ (華嚴疏主). Năm 11 tuổi, ông xuất gia với Bái Thiền Sư (霈禪師) ở Bảo Lâm Tự (寳林寺) và đến năm 14 tuổi thọ giới đắc độ. Từ năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元) trở về sau, ông theo Lễ Luật Sư (醴律師) ở Thê Hà Tự (棲霞寺) vùng Nhuận Châu (潤州) học về Luật; rồi lại nương theo Huyền Bích (玄璧) ở Kim Lăng (金陵) học về Tam Luận. Trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông học Đại Thừa Khởi Tín Luận, Niết Bàn Kinh ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺). Bên cạnh đó, ông còn theo Hoài Nam Pháp Tạng (淮南法藏) học Hoa Nghiêm Kinh. Năm thứ 7 (772) niên hiệu Đại Lịch, ông đến Diệm Khê (剡溪) theo Huệ Lượng (慧量) ở Thành Đô (城都) học Tam Luận lần nữa. Đến năm thứ 10 cùng niên hiệu trên, ông đến Giang Tô (江蘇), theo Trạm Nhiên (湛然) học Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa Kinh, Duy Ma Kinh, v.v. Ông còn tham yết Duy Trung (惟忠) ở Ngưu Đầu Sơn (牛頭山), Đạo Khâm (道欽) ở Kính Sơn (徑山), v.v., để học về Thiền pháp của Nam Tông, rồi học Thiền pháp của Bắc Tông với Huệ Vân (慧雲). Ngoài ra, ông còn thông cả Phệ Đà, Ngũ Minh, nghi thức bí chú, v.v. Vào năm thứ 11 niên hiệu Đại Lịch, ông đi ngao du Ngũ Đài Sơn (五台山), Nga Mi Sơn (峨嵋山), sau trở về sống tại Đại Hoa Nghiêm Tự (大華嚴寺) trên Ngũ Đài Sơn, chuyên tu Phương Đẳng Sám Pháp. Ông thường giảng tông chỉ Hoa Nghiêm tại chùa này và Sùng Phước Tự (崇福寺), danh tiếng vang khắp kinh đô. Đến năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), thể theo lời mời của vua Đức Tông, ông vào Trường An (長安), cùng với Tam Tạng Bát Nhã (三藏般若) người Kế Tân (罽賓) dịch Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh (四十華嚴經) do quốc vương Ô Trà (烏茶) dâng cống, rồi đem dâng lên cho triều đình; nhân đó nhà vua rất vui mừng, ban cho Tử Y và hiệu Giáo Thọ Hòa Thượng (敎授和尚). Ngoài ra, ông còn phụng sắc chỉ triều đình chế 10 quyển kinh sớ tại Thảo Đường Tự (草堂寺) thuộc Chung Nam Sơn (終南山) và đây chính là bản Trinh Nguyên Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Sớ (貞元新華嚴經疏). Vào năm thứ 15 (có thuyết cho là 11) niên hiệu Trinh Nguyên, nhân dịp sinh nhật, vua Đức Tông mời ông vào nội điện, diễn thuyết tông chỉ Hoa Nghiêm, nhờ vậy nhà vua mới giác ngộ, bảo rằng: “nhờ diệu pháp mà làm cho trong sạch, mát mẻ tâm của Trẫm”, cho nên ban cho ông hiệu là Thanh Lương Quốc Sư. Ông đã từng lập ra 10 thệ nguyện để tự khuyên răn mình, cho nên người ta gọi là Thanh Lương Thập Nguyện. Đến khi vua Thuận Tông lên ngôi, vua cũng lấy lễ bái ông làm Quốc Sư, trong triều đình ngoài dân dã đều mến mộ cao phong của ông. Vào năm thứ 5 (810) niên hiệu Nguyên Hòa (元和) đời vua Hiến Tông, ông trả lời các câu vấn đáp của nhà vua, giảng rõ về nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm, được vua hài lòng, bèn tặng cho ông hiệu là Tăng Thống Thanh Lương Quốc Sư (僧統清涼國師). Đến năm thứ 4 niên hiệu Khai Thành (開成), ông thị tịch, hưởng thọ 102 tuổi. Có thuyết cho là ông mất trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Hòa, hưởng thọ 70 tuổi. Ông được táng trong thạch thất trên Chung Nam Sơn và Tướng Quốc Bùi Hưu (裴休) soạn bia văn. Ông đã trãi qua 9 triều đại, từng giảng kinh cho 7 đời vua, đệ tử có Tông Mật (宗密), Tăng Duệ (僧叡), Pháp Ấn (法印), Tịch Quang (寂光), và đệ tử đắc pháp có hơn 100 người. Trước tác của ông có rất nhiều như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ (大方廣佛華嚴經疏) 60 quyển, Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (隨疏演義鈔) 90 quyển, Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (華嚴經綱要) 3 quyển, Ngũ Uẩn Quán (五蘊觀), Tam Thánh Viên Dung Quán Môn (三聖圓融觀門), v.v.
(十住心論, Jūjūshinron): 10 quyển, gọi cho đủ là Bí Mật Mạn Đà La Thập Trụ Tâm Luận (秘密曼陀羅十住心論), một trong những trước tác đại biểu của Không Hải (空海, Kūkai), là thư tịch thuật rõ toàn bộ hệ thống Chơn Ngôn Mật Giáo, được viết theo yêu cầu của sắc chỉ của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764) vào khoảng năm 830, được xem như là thư tịch lập giáo khai tông. Đây là trước tác chia tâm con người thành 10 giai đoạn, rồi phối trí tư tưởng đại biểu đương thời cho mỗi tâm ấy và cấu trúc thành hệ thống. Bộ sách chủ trương rằng chính Chơn Ngôn Mật Giáo là cảnh giới tối cao mà tâm con người có thể đạt đến được. Mười tâm ấy gồm:
(1) Dị Sanh Đê Dương Tâm (異生羝羊心, Dị Sanh là phàm phu, tâm cảnh bị chi phối theo bản năng ăn uống, tánh dục giống như con dê đực);
(2) Ngu Đồng Trì Trai Tâm (愚童持齋心, tâm cảnh của Phật tánh vốn có xưa nay được khai mở từng chút một, tiết chế tự kỷ và thực hành con đường luân lý đạo đức, là cảnh giới của Nho Giáo);
(3) Anh Đồng Vô Úy Tâm (嬰童無畏心, tâm cảnh sợ khổ não cõi người và mong cầu quả vui trên cõi Trời, là cảnh giới của triết học Ấn Độ và tư tưởng Lão Trang);
(4) Duy Uẩn Vô Ngã Tâm (唯蘊無我心, tâm cảnh Ngã là không và pháp Ngũ Uẩn cấu thành nên Ngã ấy hiện hữu, là cảnh giới của Thanh Văn trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(5) Bạt Nghiệp Nhân Chủng Tâm (拔業因種心, tâm cảnh thể hiện nghiệp, phiền não tiêu diệt nhờ quán Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng không có từ bi lợi tha, là cảnh giới của Duyên Giác trong Phật Giáo Nguyên Thủy);
(6) Tha Duyên Đại Thừa Tâm (他緣大乘心, từ đây trở về sau là tâm cảnh của Đại Thừa, tâm thường nghĩ đến việc cứu độ chúng sanh, nhưng vẫn chưa triệt để về lý Không, nên lập nên Ngũ Tánh Các Biệt, là cảnh giới của Duy Thức, Pháp Tướng Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(7) Giác Tâm Bất Sanh Tâm (覺心不生心, Thức cũng như cảnh đều không, dừng lại và chấm dứt ở mặt phủ định, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Tam Luận Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(8) Nhất Đạo Vô Vi Tâm (一道無爲心, hay còn gọi là Như Thật Tri Tự Tâm [如實自知心], Không Tánh Vô Cảnh Tâm [空性無境心], cảnh giới thể đắc lý thú Nhất Niệm Tam Thiên, Tam Đế Viên Dung, nhưng đó vẫn là cảnh giới của nhân từ Duyên Khởi, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Thiên Thai Tông trong Phật Giáo Đại Thừa);
(9) Cực Vô Tự Tánh Tâm (極無自性心, cảnh giới sự sự vô ngại, quán sát lý thú vô hạn trong tướng trạng của vạn hữu, là cảnh giới cực ý của Hiển Giáo, hết thảy đều quy về Không Vô Tướng, là cảnh giới của Trung Quán cũng như Hoa Nghiêm Tông trong Phật Giáo Đại Thừa); và
(10) Bí Mật Trang Nghiêm Tâm (秘密莊嚴心, cảnh giới phá tan chấp thủ về Không, biết rõ tận cùng tự tâm, thể nghiệm Pháp Thân Tự Nội Chứng, thực tại căn nguyên của Sắc Tâm Bất Nhị hay Vật Tâm Nhất Như, lấy ba bí mật của thân, miệng và ý để trang nghiêm quả vị tối cùng của Phật Tự Chứng, là cảnh giới của Chơn Ngôn Mật Giáo).
Tác phẩm giới thiệu nội dung giản lược của Thập Trụ Tâm Luận là bộ Bí Tạng Bảo Thược (秘藏寶鑰), 3 quyển.
(收緣): kết liễu các duyên trước, chấm dứt mọi duyên, cũng có nghĩa là chấm dứt mạng sống. Như trong hồi thứ 41 của Tái Sanh Duyên (再生緣) có câu: “Thượng Bản tằng ngôn Khuê Bích tử, Nam Lao tứ bạch dĩ thu duyên (上本曾言奎璧死、南牢賜帛已收緣, Thượng Bản từng bảo rằng Khuê Bích chết, Nam Lao ban cho lụa rồi kết liễu mọi duyên).” Hay trong Kim Cang Tân Nhãn Sớ Kinh Kệ Hợp Thích (金剛新眼疏經偈合釋, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 25, No. 487) quyển 1 có đoạn: “Cự nhĩ thu duyên tẩy túc, phu tòa nhi tọa, nhất niệm bất sanh, vạn lự giai vong, Ngũ Uẩn ký không, tứ tướng hà hữu, thử hựu Như Lai mật thị hàng tâm pháp dã (遽爾收緣洗足、敷座而坐、一念不生、萬慮皆亡、五蘊旣空、四相何有、此又如來密示降心法也, gấp rút thu duyên rửa chân, trãi tòa mà ngồi, một niệm không sanh, vạn lo đều không, Năm Uẩn đã không, Bốn Tướng sao có, đây là pháp hàng phục tâm do đức Như Lai bí mật dạy cho).”
(塵勞): tên gọi khác của phiền não (s: kleśa, p: kilesa, 煩惱); các phiền não như Tham, Sân, Si, v.v., làm nhơ nhớp chơn tánh, lầm cho thân tâm mệt mỏi, điên loạn; nên gọi là trần lao. Như trong Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (慈悲道塲懺法, Taishō Vol. 45, No. 1909) quyển 5, phần Giải Oán Thích Kết (解怨釋結) thứ 3, có đoạn: “Nhất niệm chi gian, khai bát vạn tứ thiên trần lao môn, huống phục nhất nhật, sở khởi chúng tội, nhất nguyệt nhất niên, chung thân lịch kiếp, sở khởi chúng tội (一念之間、開八萬四千塵勞門、況復一日、所起眾罪、一月一年、終身歷劫、所起眾罪, chỉ trong một niệm, mở tám vạn bốn ngàn cửa trần lao, huống trong một ngày, sanh khởi các tội, một tháng một năm, suốt đời muôn kiếp, sanh khởi các tội).” Hay trong Kỳ Viên Chánh Nghi (祇園正儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1233) cũng có đoạn: “Phù xuất gia giả, vi yếm trần lao, cầu thoát sanh tử, hưu tâm tức niệm, đoạn tuyệt phàn duyên, cố danh xuất gia (夫出家者、爲厭塵勞、求脫生死、休心息念、斷絕攀緣、故名出家, phàm xuất gia là, chán ghét trần lao, cầu thoát sanh tử, dừng tâm dứt niệm, chặt đứt các duyên, nên gọi xuất gia).” Hoặc trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) lại có đoạn: “Đương dụng đại trí tuệ đả phá Ngũ Uẩn phiền não trần lao, như thử tu hành, định thành Phật đạo (當用大智慧打破五蘊煩惱塵勞、如此修行、定成佛道, phải dùng trí tuệ lớn phá tan phiền não trần lao của Năm Uẩn, tu hành như vậy, quyết thành Phật đạo).”
(s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ Đế chỉ cho 4 loại chân lý đúng dắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集), Diệt (滅) và Đạo (道); còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do bậc thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦), Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ Đế là Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦), Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦), Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦), Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦), Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦). Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7, v.v., cụ thể Tứ Đế là: (1) Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s: duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử. (2) Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s: samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi khổ của con người trên cõi đời này. (3) Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập. (4) Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s: mārgārya-satya, 道聖諦); đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見), Chánh Tư Duy (正思惟), v.v., của Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy. Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Tứ Đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất dể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ Đế được xem như là pháp của Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No. 353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 12, 13, v.v., không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn phát huy áo nghĩa của Tứ Đế nữa. Về tự tánh của Tứ Đế, các bộ phái đều có những dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨) lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế, nhân của Hữu Lậu là Tập Đế, pháp Trạch Diệt (s: pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅) là Diệt Đế, pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ Đế, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ Đế diễn thành 8 loại, gọi là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦), Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦), Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế), Lưu Tức Đế (流息諦, tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế), Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế). Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh lại lập ra 4 loại Tứ Đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: (1) Sanh Diệt Tứ Đế (生滅四諦), do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ Đế là thật có sanh, diệt. (2) Vô Sanh Tứ Đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ Đế (無生滅四諦), do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ Đế, đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. (3) Vô Lượng Tứ Đế (無量四諦), do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ Đế cũng có vô lượng các tướng. (4) Vô Tác Tứ Đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎) thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẩn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẩn, và tất cả đều là thật tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tông lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道) và Tác Chứng Đạo (作證道). Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) quyển 3 có đoạn rằng: “Hữu Khổ khả tri, hữu Tập khả đoạn, hữu Diệt khả chứng, hữu Đạo khả tu, mê tắc Khổ Tập diệt nhi chân đạo diệt, ngộ tắc Khổ Tập diệt nhi chánh đạo sanh, hữu khả sanh diệt, cố vân Sanh Diệt Tứ Đế (有苦可知、有集可斷、有滅可證、有道可修、迷則苦集生而眞道滅、悟則苦集滅而正道生、有可生滅、故云生滅四諦, có Khổ biết được, có Tập đoạn được, có Diệt chứng được, có Đạo tu được, mê thì Khổ Tập sanh mà chân đạo diệt, ngộ thì Khổ Tập diệt mà chánh đạo sanh, có khả năng sanh diệt như vậy, nên gọi là Sanh Diệt Tứ Đế).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 9 cũng có đoạn: “Niệm tử tức ngộ vô thường Tứ Đế, nhược Tam Giới bệnh tận tức đắc chứng đạo (念死卽悟無常四諦、若三界病盡卽得聖道, nghĩ nhớ bệnh là ngộ vô thường Tứ Đế, nếu Ba Cõi bệnh hết tức được chứng đạo).”
(四相): các pháp sanh diệt, biến chuyển theo 4 tướng là Sanh (s: jāti, 生, còn gọi là Sanh Tướng [生相], tức là pháp hữu vi từ vị trí tương lai sanh đến vị trí hiện tại), Trụ (s: sthiti, 住, còn gọi là Trụ Tướng [住相], tức là pháp hữu vi an trụ ở vị trí hiện tại), Dị (s: anyathātva, 異, còn gọi là Dị Tướng [異相], tức là pháp hữu vi biến dị, suy tổn ở vị trí hiện tại), Diệt (s: anityatā, 滅, còn gọi là Diệt Tướng [滅相], tức là pháp hữu vi ở vị trí hiện tại diệt và chuyển sang vị trí quá khứ); còn gọi là Tứ Hữu Vi (四有爲), Tứ Hữu Vi Tướng (四有爲相), Tứ Bản Tướng (四本相). Theo thuyết của Tiểu Thừa Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部), căn cứ vào Phát Trí Luận (發智論) quyển 2, Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 38, 39, Câu Xá Luận (具舍論) quyển 5, v.v., tất cả các pháp hữu vi đều chịu sự chi phối của vô thường; tuy do năng lực của nhân duyên, từ vị trí tương lai, sanh đến vị trí hiện tại, nhưng chỉ trong thoáng chốc thì tiêu diệt mà trở thành vị trí của quá khứ. Pháp hữu vi sanh diệt biến chuyển này lưu chuyển ở trong ba đời tương lai, hiện tại và quá khứ. Hữu Bộ thì chủ trương sát na sanh diệt, cho nên Bốn Tướng này đều có mặt chỉ trong một sát na. Theo thuyết của Pháp Tướng Tông (法相宗) thuộc Đại Thừa, căn cứ vào Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論) quyển 46, 51, 88, Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 2, v.v., tông phái này chủ trương “Tứ Tướng giả lập, quá vị vô thể (四相假立、過未無体, bốn tướng giả lập ra; quá khứ, vị lai không thực thể).” Nếu nói về sát na, các pháp hữu vi nương vào sức mạnh nhân duyên, do vì vốn là không nên nay có mặt; vì vậy mới gọi là Sanh. Tạm dừng ở vị trí Sanh, tức gọi là Trụ. Biến dị trước sau vị trí Trụ thì gọi là Dị. Vì tạm có rồi lại không, nên gọi khi diệt là Diệt vậy. Trong quá trình đó, ba tướng Sanh, Trụ, Dị là “có”, cùng thuộc hiện tại; tướng Diệt là “không”, thuộc về quá khứ. Bên cạnh đó, Tứ Tướng còn là 4 loại tướng do cá thể chúng sanh vọng chấp mà sanh ra, được thuyết trong Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (金剛般若波羅蜜經) do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch, gồm: Ngã Tướng (我相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn [s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊] lầm xem có thật ta và cái của ta), Nhân Tướng (人相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta sanh trong cõi người là người, vốn khác với các cõi khác), Chúng Sanh Tướng (眾生相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta nương vào Năm Uẩn, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hòa hợp mà sanh ra) và Thọ Giả Tướng (壽者相, chúng sanh trong pháp Ngũ Uẩn lầm xem cái ta thọ nhận một chu kỳ thọ mạng, ngắn dài không thống nhất, khác nhau tùy theo mỗi người).
(s: anupadhiśeṣa-nirvāṇa, p: anupādisesa-nibbāna, 無余依涅槃): hay còn gọi là Vô Dư Niết Bàn, đối lập với Hữu Dư Y Niết Bàn, nghĩa là chứng đạt cảnh giới Niết Bàn mà thân thể do Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) hợp thành này cũng tận diệt, không còn chỗ sở y nào nữa. Nó cũng là một trong bốn loại Niết Bàn, gồm Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn, Hữu Dư Niết Bàn, Vô Dư Niết Bàn và Vô Trú Xứ Niết Bàn. Theo thuyết của Duy Thức thì khi đoạn tận phiền não chướng, thức thứ 8 sẽ chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, diệt hết tất cả lậu hoặc thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập