Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ sắc »»
(s: ūrṇa, p: uṇṇa, 白毫): lông mày trắng, tức bạch hào tướng (s: ūrṇa-lakṣana, p: uṇṇa-lakkhaṇa, 白毫相, tướng lông mày trắng), một trong 32 tướng tốt của đức Phật; còn gọi là Hào Mi (毫眉), Hào Tướng (毫相), Bạch Mao Tướng (白毛相), Mi Gian Bạch Mao Tướng (眉間白毛相), Bạch Hào Trang Nghiêm Diện Tướng (白毫莊嚴面相), Bạch Hào Mao Quang Tướng (白毫毛光相), Mi Gian Hào Tướng (眉間毫相), v.v. Giữa hai hàng chân mày của đức Thế Tôn, có lông mày trắng nhỏ mịn, mềm mại như bông Đâu La (s, p: tūla, 兜羅), kéo ra rất dài (khi sơ sanh là 5 tấc, khi thành đạo là 1 trượng 5 tấc), khi thả lỏng ra thì uyển chuyển xoay về bên phải như trôn ốc. Lông mày trắng này có thể phóng ra ánh sáng, nên có tên gọi là bạch hào quang (白毫光). Chúng sanh nào gặp được ánh sáng này thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng và thân tâm an lạc. Theo Vô Thượng Y Kinh (無上依經) quyển hạ có giải thích rằng khi đức Phật đang còn tu nhân hạnh Bồ Tát, mỗi khi thấy chúng sanh nào tu tập Tam Học Giới, Định, Tuệ, ngài thường xưng dương, tán thán; cho nên có được tướng tốt này. Hơn nữa, Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 1, 2, Phẩm Quán Tướng (觀相品) còn cho rằng bên cạnh vô lượng tướng tốt của đức Như Lai, tướng này được xem như là thù thắng nhất. Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經) có đề cập rằng lông mày trắng giữa hai hàng chân mày của đức Phật Vô Lượng Thọ giống như 5 ngọn núi Tu Di; người nào thấy được tướng này, thì tự nhiên thấy được toàn bộ tám vạn bốn ngàn tướng tốt. Trong bài kệ tán dương đức Phật A Di Đà có câu: “A Di Đà Phật thân kim sắc, tướng hảo quang minh vô đẳng luân, bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải (阿彌陀佛身金色、相好光明無等倫、白毫宛轉五須彌、紺目澄清四大海, Phật A Di Đà thân vàng sắc, tướng tốt chói sáng không sánh bằng, mày trắng uyển chuyển năm Tu Di, xanh mắt trong suốt bốn biển lớn).” Hay như trong Phổ Đà Lạc Già Tân Chí (普陀洛迦新志) quyển 1 có đoạn: “Đàn chỉ năng siêu, tiện Tây phương chi vô lượng, cầu Thế Tôn phóng bạch hào chi quang, trực thú an lạc (彈指能超、羨西方之無量、求世尊放白毫之光,直趣安乐。求世尊放白毫之光、直趣安樂, trong khoảng khảy móng tay có thể vượt qua, lòng ham thích Tây phương vô lượng, cầu mong Thế Tôn phóng ánh sáng nơi lông mày trắng, và trực tiếp đến cõi an lạc).” Ngoài ra, có thuật ngữ “bạch hào chi tứ (白毫之賜)” được dùng để chỉ các đồ vật thọ dụng của chư tăng. Ngay trong kinh điển của đạo giáo cũng có xuất hiện từ hào quang này, như trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經) có đoạn: “Ngọc Nữ bổng hương hoa, Ngũ sắc tường vân nội, phóng xuất bạch hào quang, chiếu nhất thiết thiên hạ, hiển thân cứu chúng sanh (玉女捧香花、五色祥雲內、放出白毫光、照一切天下、顯身救眾生, Ngọc Nữ nâng hương hoa, trong mây lành năm sắc, phóng ra ánh bạch hào, chiếu hết thảy thiên hạ).”
(寶篆): có hai nghĩa chính. (1) Chỉ cho dấu ấn của vua Nghiêu tương truyền do chim phụng hoàng trao; vì văn khắc trên con dấu như chữ Triện, nên có tên gọi như vậy. Về sau, từ này được dùng tượng trưng cho sách đồ lục (圖籙), tức sách mệnh của thiên thần ban cho. Như trong bài tựa của Càn Nguyên Điện Tụng (乾元殿頌) do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường sáng tác có đoạn: “Linh hào mật phát, bát phương chiêu Đại Hữu chi hòa; bảo triện tiềm khai, Lục Hợp khải Đồng Nhân chi hội (靈爻密發、八方昭大有之和、寶篆潛開、六合啟同人之會, quẻ Hào mật phát, tám phương bày Đại Hữu hài hòa; ấn bàu thầm khai, Lục Hợp mở Đồng Nhân tụ hội).” (2) Từ mỹ xưng của hương thơm, vì khi đốt, khói quyện tỏa hình dáng như chữ Triện. Như trong bài Ký Ngọc Sơn Thi (寄玉山詩) của Trần Cơ (陳基, 1314-1370) nhà Nguyên có câu: “Bảo triện phần hương lưu thùy áp, thải tiên hàng mặc tả lai cầm (寶篆焚香留睡鴨、綵箋行墨寫來禽, triện báu hương xông vịt ngái ngủ, giấy tiên mực vẽ chim bay về).” Hay trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển 1, phần Duyên Khởi Văn (緣起文), có đoạn: “Hương phần bảo triện, đằng Ngũ sắc chi vân hà; chúc trán kim liên, xán nhất thiên chi tinh đẩu; pháp nhạc tấu vô sanh chi khúc, Phạm âm diễn tối thượng chi tông (香焚寶篆、騰五色之雲霞、燭綻金蓮、燦一天之星斗、法樂奏無生之曲、梵音演最上之宗, hương xông triện báu, vọt năm sắc ấy mây lành; nến gắn sen vàng, rực một trời muôn sao sáng; pháp nhạc tấu vô sanh điệu khúc, Phạm âm diễn tối thượng tông phong).”
(朱雀):
(1) Tên của một loại thần điểu, như trong Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) quyển 7 có câu: “Tứ phương thủ tượng, Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; duy Châu Tước mạc tri hà vật, đản vị điểu nhi châu giả, vũ tộc xích tường thượng, tập tất phụ mộc, thử hỏa chi tượng dã; hoặc vị chi trường cầm (四方取象、蒼龍、白虎、朱雀、龜蛇、唯朱雀莫知何物、但謂鳥而朱者、羽族赤而翔上、集必附木、此火之象也、或謂之長离, bốn phương có các hình tượng là Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; chỉ có Châu Tước không biết thuộc vật nào; có người bảo rằng chim màu đỏ là loại có lông đỏ mà bay liệng trên cao; khi tập trung thì nương vào cây; loại này tượng trưng cho lửa; hoặc bảo nó là loài chim dài).”
(2) Tên gọi chung của bảy ngôi sao ở phương Nam, gồm: Tỉnh (井), Quỷ (鬼), Liễu (柳), Tinh (星), Trương (張), Dực (翼) và Chẩn (軫). Cho nên, trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Nam Phương Châu Thôi Tinh Quân (南方朱崔星君) là Tỉnh Tú Thiên Tỉnh Tinh Quân, Quỷ Tú Thiên Quỹ Tinh Quân, Liễu Tú Thiên Trù Tinh Quân, Tinh Tú Thiên Khố Tinh Quân, Trương Tú Thiên Bình Tinh Quân, Dực Tú Thiên Đô Tinh Quân, Chẩn Tú Thiên Nhai Tinh Quân (井宿天井星君、鬼宿天匱星君、柳宿天廚星君、星宿天庫星君、張宿天秤星君、翼宿天都星君、軫宿天街星君).
(3) Một trong Tứ Linh (四靈), là vị thần thủ hộ phương Nam trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, còn gọi là Châu Điểu (朱鳥), cũng gọi là Phụng Hoàng (鳳凰) hay Huyền Điểu (玄鳥). Châu là màu đỏ, tượng trưng cho lửa, phương Nam thuộc lửa, nên có tên Phụng Hoàng. Châu Tước cũng thuộc một dạng của Bất Tử Điểu (不死鳥) ở phương Tây, vì vậy có tên là Khiếu Hỏa Phụng Hoàng (叫火鳳凰). Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) của Đạo Giáo có đề cập đến hiệu của Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君).” Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Nam phương Châu Thôi, tùng cầm chi trưởng, đan huyệt hóa sanh, bích lôi lưu hưởng, kỳ thái Ngũ sắc, thần nghi Lục Tượng, lai đạo ngã tiền (南方朱崔、從禽之長、丹穴化生、碧雷流響、奇彩五色、神儀六象、來導吾前, Châu Thôi phương Nam, từ loài chim lớn lên, hóa sanh trong hang đỏ, sấm xanh vang tiếng, năm sắc kỳ diệu, dung nghi vượt Sáu Loài, dẫn đến trước ta).” Đạo Giáo dùng tên Châu Tước làm thuật ngữ luyện đan, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Châu Thôi giả, Nam phương Bính Đinh Hỏa Chu Sa dã; bào dịch thành long, kết khi thành điểu; kỳ khí đằng nhi vi thiên, kỳ chất trận nhi vi địa; sở dĩ vi đại đan chi bổn dã; kiến hỏa tức phi, cố đắc Châu Thôi chi xưng dã; Thanh Long đích phương vị thị Đông, đại biểu Xuân quý; Bạch Hổ đích phương vị thị Tây, đại biểu Thu quý; Châu Tước đích phương vị thị Nam, đại biểu Hạ quý; Huyền Võ đích phương vị thị Bắc, đại biểu Đông quý (朱崔者、南方丙丁火朱砂也、刨液成龍、結氣成鳥、其氣騰而爲天、其質陣而爲地、所以爲大丹之本也、見火卽飛、故得朱崔之稱也、青龍的方位是東、代表春季、白虎的方位是西、代表秋季、朱雀的方位是南、代表夏季、玄武的方位是北、代表冬季, Châu Thôi là Chu Sa, Bính Đinh, thuộc Hỏa; biến chất dịch thành rồng, kết khí thành chim; khí của nó bốc lên làm trời, chất của nó dàn trận thành đất, nên được gọi là nguồn gốc của màu đỏ huyết; thấy lửa thì bay, nên có tên gọi Châu Thôi; phương vị của Thanh Long là Đông, đại diện cho mùa Xuân; phương vị của Bạch Hổ là Tây, đại diện cho mùa Thu; phương vị của Châu Tước là Nam, đại diện cho mùa Hạ; phương vị của Huyền Võ là Bắc, đại diện cho mùa Đông).”
(4) Tên gọi của một trong Lục Thú (六獸) hay Lục Thần (六神), gồm: Thanh Long (青龍), Châu Tước (朱雀), Câu Trần (勾陳), Đằng Xà (騰蛇), Bạch Hổ (白虎) và Huyền Võ (玄武).
(5) Tên của một trong 12 vị Thiên Tướng, gồm: Thanh Long (青龍), Bạch Hổ (白虎), Huyền Võ (玄武), Châu Tước (朱雀), Quý Nhân (貴人), Đằng Xà (螣蛇), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Thiên Không (天空), Thái Thường (太常), Thái Âm (太陰) và Thiên Hậu (天后). (6) Tên gọi của một trong 8 vị thần, gồm: Trực Phù (直符), Đằng Xà (螣蛇), Thái Âm (太陰), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Châu Tước (朱雀), Cửu Địa (九地) và Cửu Thiên (九天).
(華[花]壇): từ mỹ xưng của đàn tràng, trai đàn; vì tại các đàn tràng thường được trang trí nhiều phẩm vật dâng cúng, đặc biệt là hoa, rất trang nghiêm, rực rỡ, nên có tên như vậy. Như trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển 1 có đoạn: “Kim tắc la liệt hoa đàn, xiển dương Phật sự, hương phần bảo triện, đằng Ngũ sắc chi vân hà, chúc trán kim liên, xán nhất thiên chi tinh đẩu (今則羅列華壇、闡揚佛事、香焚寶篆、騰五色之雲霞、燭綻金蓮、燦一天之星斗, nay tất la liệt hoa đàn, xiển dương Phật sự, hương xông triện báu, tỏa năm sắc ấy mây lành, nến thắp sen vàng, sáng một trời muôn sao tỏ).”
(p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍): còn gọi là Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍), tên gọi của tinh xá nằm ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛城), kinh đô của nước Kiều Tát La (s: Kauśala, p: Kosala, 憍薩羅) vào thời Ấn Độ cổ đại. Lúc bấy giờ, trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達, còn có tên là Cấp Cô Độc [給孤獨]) của Thành Xá Vệ mua khu rừng của Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) để xây dựng tu viện cho giáo đoàn đức Phật. Tên gọi Kỳ Viên vốn phát xuất từ truyền thuyết này. Trưởng giả Tu Đạt là người thường bố thí vật phẩm ăn uống cho những người cô độc, nghèo nàn, cho nên nơi đây còn được gọi là Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên (祇樹給孤獨園). Đức Phật đã trãi qua hơn 20 năm vào cuối đời ngài ở tại đây, và khoảng 7, 8 phần kinh điển hiện tại đều được ngài thuyết giảng tại nơi này. Tuy nhiên, ngay sau khi đức Phật diệt độ thì tinh xá này bị suy tàn. Về sau, khi Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664) sang du hành ở Ấn Độ, tinh xá này đã hoàn toàn hoang phế. Hiện tại nó chỉ còn là di tích rất rộng lớn ở phía Nam vùng Saheṭh-Maheth thuộc tiểu bang Uttar Pradesh. Trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn Kinh (佛說文殊師利般涅槃經, Taishō No. 463) do Cư Sĩ Nhiếp Đạo Chơn (聶道眞) nhà Tây Tấn dịch có đoạn: “Nhĩ thời, Thế Tôn tùng Tam Muội khởi, tức tiện vi tiếu, hữu Ngũ sắc quang tùng Phật khẩu xuất, thử quang xuất thời, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành Lưu Ly (爾時、世尊從三昧起、卽便微笑、有五色光從佛口出、此光出時、祇洹精舍變成琉璃, lúc bấy giờ đức thế tôn từ trong Tam Muội đứng dậy, bèn mĩm cười, có ánh sáng năm sắc từ trong miệng Phật phóng ra, khi ánh sáng này phóng ra, Kỳ Hoàn Tinh Xá biến thành ngọc Lưu Ly).” Hay như trong Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh (中天竺舍衛國祇洹寺圖經, Taishō No. 1899), phần Trung Thiên Trúc Xá Vệ Quốc Kỳ Hoàn Tự Đồ Kinh Tự (中天竺舍衛國祇洹寺圖經序) lại có đoạn đề cập đến Kỳ Viên Tinh Xá như sau: “Vãng giả Thích Tôn tại Đao Lợi Thiên, thử tượng tại điện vi chư Tỳ Kheo giáo giới thuyết pháp, nãi chí chư vương chi bất kiến Phật tư mộ Thích Ca, thử tượng vi vương tam độ thuyết pháp; Kỳ Viên sơ lập giới đàn, thành thời thử tượng lãnh tiền đồ chúng, chí giới đàn sở nhiễu tam tráp dĩ, bộ bộ giai sanh kim sắc thiên diệp Liên Hoa; mỗi thọ giới thời hoa tự nhiên khai, trung hữu thiên đồng tấu ư thiên nhạc (徃者釋尊在忉利天、此像在殿爲諸比丘敎戒說法、乃至諸王之不見佛思慕釋迦、此像爲王三度說法、祇園初立戒壇、成時此像領前徒眾、至戒壇所遶三匝已、步步皆生金色千葉蓮花、每受戒時花自然開、中有天童奏於天樂, xưa kia khi đức Thích Tôn tại Trời Đao Lợi, tượng này tại chánh điện vì các Tỳ Kheo mà dạy bảo, thuyết pháp, cho đến các vua không thấy được Phật, nhớ nghĩ đến Thích Ca, tượng này cũng vì vua thuyết pháp ba lần; lúc ban đầu, Kỳ Viên Tinh Xá mới lập giới đàn, khi hình thành, tượng này dẫn các đồ chúng trước đây, đến giới đàn đi nhiễu quanh ba vòng xong, từng bước đều sanh hoa sen ngàn cánh có màu vàng kim; mỗi khi thọ giới, hoa ấy tự nhiên nở ra, bên trong có thiên đồng tấu khúc nhạc trời).”
(曼荼羅寺, Mandara-ji): còn gọi là Tùy Tâm Viện (隨心院), Ngưu Bì Sơn Mạn Trà La Tự (牛皮山曼荼羅寺), Tùy Tâm Viện Môn Tích (隨心院門跡), Tiểu Dã Môn Tích (小野門跡); ngôi chùa trung tâm của Phái Thiện Thông Tự (通善寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông; hiện tọa lạc tại Onogorei-chō (小野御靈町), Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), nơi hành hương thứ 72 trong số 88 ngôi danh lam ở vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Chùa do Không Hải Đại Sư sáng lập, xuất phát từ nhân duyên Đại Sư nằm mộng thấy mẹ mình sành làm thân con trâu, bèn đến thăm và đem con trâu ấy về nuôi. Khi trâu chết, Đại Sư lấy da trâu vẽ đồ hình Mạn Trà La dâng cúng. Đây là nơi xuất phát của Dòng Tiểu Dã (小野流). Sau này Tăng Tuấn (僧俊) lại phân phái thành Dòng Tùy Tâm Viện (隨心院流). Trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa bị hoang phế, rồi Tăng Hiếu (僧孝) tiến hành phục hưng chùa, và nhóm Thiên Chơn Viện (天眞院) tạo dựng các ngôi đường tháp. Bảo vật của chùa có đồ hình Mạn Trà La thêu bằng chỉ Ngũ sắc, tượng gỗ A Di Đà Như Lai ngồi, v.v.
(五行): là quan niệm về vật chất của người Trung Quốc cổ đại, phần nhiều được dùng trong các phương diện triết học, y học cũng như bói toán; tức là 5 nguyên tố cần thiết vận hành giữa trời đất gồm Thủy (水), Hỏa (火), Mộc (木), Kim (金) và Thổ (土). Tên gọi khác của Ngũ Thường (五常, 5 yếu tố con người thường cần phải thực hiện) gồm Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín. Người Trung Quốc co rằng tự nhiên được cấu thành bởi 5 yếu tố, tùy theo các yếu tố này mà thạnh suy, khiến cho tự nhiên sinh ra các biến hóa, có ảnh hưởng đến vận mạng của con người, đồng thời làm cho vũ trụ tuần hoàn không ngừng. Trong các kinh điển luận về Ngũ Hành, trước hết thấy xuất hiện trong Thượng Thư (尚書), phần Hồng Phạm (洪範) có nêu rõ rằng: “Ngũ Hành, nhất viết Thủy, nhị viết Hỏa, tam viết Mộc, tứ viết Kim, ngũ viết Thổ (五行、一曰水、二曰火、三曰木、四曰金、五曰土, Ngũ Hành, thứ nhất là Thủy, thứ hai là Hỏa, thứ ba là Mộc, thứ tư là Kim, thứ năm là Thổ).” Nguồn gốc của Ngũ Hành vốn phát xuất từ số của sách Hà Đồ (河圖), Lạc Thư (洛書); số 1, 6 là Thủy; 2, 7 là Hỏa; 3, 8 là Mộc; 4, 9 là Kim; 5, 10 là Thổ. Theo Hà Đồ, nếu xoay về bên trái thì tương sinh; theo Lạc Thư, nếu xoay về bên phải thì tương khắc. Như vậy Ngũ Hành tương khắc gồm có Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ Khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Ngũ Hành tương sinh là Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Năm yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với các truyền thống văn hóa Trung Quốc khác như phương vị, thiên can, địa chi, màu sắc, thời tiết, v.v. Xin liệt kê theo thứ tự các yếu tố Ngũ Hành, Ngũ Tài (五材), Ngũ sắc (五色, 5 màu sắc), Ngũ Phương (五方), Ngũ Quý (五季, 5 mùa), Ngũ Thời (五時), Ngũ Tiết (五節), Ngũ Tinh (五星, 5 ngôi sao), Ngũ Thanh (五聲, 5 loại tiếng), Ngũ Âm (五音, 5 loại âm), Ngũ Tạng (五臟), Ngũ Phủ (五腑), Ngũ Chí (五志, 5 loại cảm xúc), Ngũ Quan (五官, 5 giác quan), Ngũ Giác (五覺, 5 loại cảm giác), Ngũ Dịch (五液, 5 loại chất dịch), Ngũ Vị (五味, 5 loại mùi vị), Ngũ Xú (五臭), Ngũ Khí (五氣), Ngũ Vinh (五榮), Ngũ Thú (五獸, 5 loại thú thần thoại), Ngũ Súc (五畜, 5 loại súc vật), Ngũ Cốc (五穀), Ngũ Quả (五果), Ngũ Thái (五菜), Ngũ Thường (五常), Ngũ Chính (五政), Ngũ Ác (五惡), Ngũ Hóa (五化), Thiên Can (千干), Địa Chi (地支). Kim thường đi với Kim, màu xanh, phương Đông, mùa xuân, buổi sáng, Tân Niên, Mộc Tinh (木星), tiếng kêu gọi, Giác, gan, mật, bực tức, mắt, màu sắc, nước mắt, chất chua, mùi hôi (của cừu, nai, v.v.), gân, móng, Thanh Long (青龍), con chó, lúa tẻ, trái Mận, rau Hẹ, Nhân, khoan dung, gió, sanh sản, Giáp và Ất, Dần và Mão. Hỏa đi với Hỏa, màu đỏ, phương Nam, mùa hè, giữa ngày, Thượng Tỵ (上巳, tiết hội của người Hán được tổ chức vào ngày Tỵ của thượng tuần tháng 3 Âm Lịch để cầu gió mát), Hỏa Tinh (火星), tiếng cười, Chưng, tim, ruột non, niềm vui, lưỡi, sự xúc chạm, mồ hôi, vị đắng, mùi khét, máu, mặt, Châu Tước (朱雀), con dê, thóc, trái Hạnh, rau Kiệu, Lễ, sự sáng suốt, sức nóng, sự trưởng thành, Bính và Đinh, Tỵ và Ngọ. Thổ đi với Thổ, màu vàng, phương giữa, giữa hè, xế chiều, Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thổ Tinh (土星), tiếng ca, Cung, lá lách, bụng, suy tư, miệng, mùi vị, nước dãi, vị ngọt, mùi hương thơm, thịt, môi, Hoàng Lân (黃麟) hay Đằng Xà (滕蛇), con bò, lúa, trái Táo, rau Quỳ, sự cung kính, ẩm thấp, biến hóa, Mậu và Kỷ, Thìn, Mùi, Tuất và Sửu. Kim đi với Kim, màu trắng, phương Tây, mùa Thu, mặt trời lặn, Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Kim Tinh, tiếng khóc, Thương, phổi, ruột già, sự đau buồn, mũi, hương thơm, nước mũi, vị đắng, mùi tanh, hơi, lông, Bạch Hổ (白虎), con gà, gạo, trái Đào, rau Hành, Nghĩa, sức mạnh, khô ráo, thâu lại, Canh và Tân, Giáp và Dậu. Thủy đi với Thủy, màu đen, phương Bắc, mùa Đông, giữa đêm, Trùng Dương (重陽, mồng 9 tháng 9 Âm Lịch, còn gọi là Trùng Cửu [重九]), Thủy Tinh (水星), tiếng rên rỉ, quả thận, bàng quang, sự lo sợ, lỗ tai, âm thanh, nước bọt miếng, vị mặn, mùi thối mục, xương, tóc, Huyền Võ (玄武), lợn, đậu, hạt dẻ, lá dâu, Trí, sự tĩnh lặng, lạnh lẽo, che giấu, Nhâm và Quý, Hợi và Tý.
(眞龍, shinryū, chơn long): nghĩa là con rồng thật sự chứ không phải rồng được vẽ trên giấy hay điêu khắc. Tích sợ rồng này căn cứ vào câu chuyện Diệp Công Hiếu Long (葉公好龍, Diệp Công Thích Rồng) được thuật lại trong tác phẩm Tân Tự (新序), phần Tạp Sự (雜事) 5 của Lưu Hướng (劉向, 77-5 ttl.) nhà Hán như sau: “Diệp Công Tử Cao hiếu long, câu dĩ tả long, tạc dĩ tả long, ốc thất điêu văn dĩ tả long; ư thị thiên long văn nhi hạ chi, khuy đầu ư dũ, thi vĩ ư đường; Diệp Công kiến chi, khí nhi hoàn tẩu, thất kỳ hồn phách, Ngũ sắc vô chủ; thị Diệp Công phi hiếu long dã (葉公子高好龍、鉤以寫龍、鑿以寫龍、屋室雕文以寫龍、於是天龍聞而下之、窺頭於牖、施尾於堂、葉公見之、棄而還走、失其魂魄、五色無主、是葉公非好龍也, Diệp Công Tử Cao rất thích rồng, trên móc câu vẽ hình rồng, nơi cái đục vẽ hình rồng, các điêu trong phòng nhà đều vẽ hình rồng; nhân đó rồng trên trời nghe mà giáng xuống, thò đầu vào cửa sổ, vòng đuôi quanh nhà; Diệp Công thấy vậy, bỏ mà chạy trốn, mất cả hồn phách, chẳng còn tự chủ; đó chẳng phải là Diệp Công thích rồng).” Diệp Công tức là vị quan Đại Phu nước Sở dưới thời Tam Quốc, tên là Tử Cao (子高); ông được phong làm quan xứ Diệp, nay thuộc Diệp Huyện (葉縣), Hà Nam (河南); nên có tên là Diệp Công. Đây là câu chuyện nói về người thấy rồng thật thì sợ, mà lại yêu thích rồng giả.
(瑞雲): hiện tượng xảy ra khi đám mây đi ngang qua gần mặt trời, tạo thành 5 sắc màu trắng, đen, đỏ, vàng, xanh lục; còn gọi là thái vân (彩雲), khánh vân (慶雲), cảnh vân (景雲). Từ xa xưa, thoại vân được xem như là điềm lành, nhưng thực tế là hiện tượng khí tượng mà thôi. Trong Phật Giáo, thoại vân còn được gọi là nhật vựng (日暈, vừng sáng của mặt trời), là hiện tượng thường xảy ra trong những lúc đại lễ quan trọng như Lạc Thành, Khai Nhãn Tượng Phật, v.v.; và có tên gọi là Ngũ sắc Thái Vân (五色彩雲), Ngũ sắc Thoại Vân (五色瑞雲), v.v. Hơn nữa, trong các bức tranh Lai Nghênh Đồ (來迎圖), v.v., thường có vẽ hình đức Phật A Di Đà cùng với chư Bồ Tát từ Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ lướt trên đám mây lành năm sắc này đến tiếp rước. Trong Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Chú Giải (地藏本願經科註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 384) quyển 6 có đoạn rằng: “Tây Kinh Tạp Ký vân: 'Thoại vân viết khánh vân, viết cảnh vân; vân Ngũ sắc viết khánh, hoặc viết khanh; thử biểu ly Ngũ Trú Phiền Não, hiển Ngũ Phần Pháp Thân chi tường chưng dã' (西京雜記云、瑞雲、曰慶雲、曰景雲、雲五色曰慶、或曰卿、此表離五住煩惱、顯五分法身之祥徵也, Tây Kinh Tạp Ký giải thích rằng: 'Thoại vân còn gọi là khánh vân, cảnh vân; mây năm sắc gọi là khánh, hay khanh; nó biểu hiện cho sự xa lìa Ngũ Trú Phiền Não và hiển lộ điềm lành Năm Phần Pháp Thân').” Trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 22, có đoạn: “Huyền Tông mộng không trung Sở Kim nhị tự, cật triều phỏng vấn, hàm dĩ sư đối, nãi thân chế Đa Bảo Tháp ngạch tứ kiêm mân vi trợ, công tất chi nhật Ngũ sắc thoại vân ngưng ư tháp thượng (玄宗夢空中楚金二字、詰朝訪問、咸以師對、乃親製多寶塔額賜縑緡爲助、功畢之日五色瑞雲凝於塔上, vua Huyền Tông mơ thấy trên không có hai chữ 'Sở Kim', mới hỏi triều thần, tất cả đều nhờ sư trả lời; nhà vua bèn ngự chế ban sắc ngạch trợ giúp lụa tiền dựng Tháp Đa Bảo; ngày hoàn tất công trình có đám mây lành năm sắc đọng trên tháp).”
(仲冬): giữa Đông, tên gọi khác của tháng 11 Âm Lịch. Như trong bài Đại Từ Ân Tự Đại Pháp Sư Cơ Công Tháp Minh (大慈恩寺大法師基公塔銘) của Huyền Trang Tam Tạng Sư Tư Truyện Tùng Thư (玄奘三藏師資傳叢書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1651) quyển Hạ có câu: “Hoàng Đường Vĩnh Thuần nguyên niên Trọng Đông Nhâm Dần nhật, tốt ư Từ Ân Tự Phiên Dịch Viện, hữu sinh ngũ thập nhất tuế dã (皇唐永淳元年仲冬壬寅日、卒於慈恩寺翻譯院、有生五十一歲也, vào ngày Nhâm Dần tháng 11 năm đầu [682] niên hiệu Vĩnh Thuần nhà Đường, Cơ Công qua đời tại Viện Phiên Dịch của Từ Ân Tự, sống được 51 tuổi).” Hay trong Hàng Châu Thiên Mục Bảo Phương Tấn Thiền Sư (杭州天目寶芳進禪師) của Kính Thạch Trích Nhũ Tập (徑石滴乳集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1308) quyển 3 lại có câu: “Chánh Đức thập tứ niên Trọng Đông trấp tứ nhật, thuyết kệ biệt chúng, Trà Tỳ đắc Ngũ sắc Xá Lợi vô số, tháp ư bản sơn (正德十四年仲冬廿四日、說偈別眾、茶毗得五色舍利無數、塔於本山, vào ngày 24 tháng 11 năm thứ 14 [1519] niên hiệu Chánh Đức nhà Minh, Thiền Sư nói kệ từ giã mọi người, sau khi Trà Tỳ xong có được Xá Lợi năm sắc vô số, tháp dựng tại chùa).” Trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295), quyển 8, Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲, 1089-1163) có bài tụng rằng: “Mã sư Trọng Đông nghiêm hàn, Khâm sư Mạnh Hạ tiệm nhiệt, tuy nhiên hàn nhiệt bất đồng, bỉ thử bất thất thời tiết (馬師仲冬嚴寒、欽師孟夏漸熱、雖然寒熱不同、彼此不失時節, Mã Tổ giữa Đông lạnh buốt, Đạo Khâm đầu Hạ dần nóng, tuy nhiên lạnh nóng chẳng đồng, kia đây không mất thời tiết).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập