Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ Gia »»
(s: Akṣhobhya-buddha, t: Saṅs-rgyas mi-ḥkhrugs-pa, 阿閦佛): gọi tắt là A Súc (阿閦), còn gọi là A Súc Tì Phật (阿閦鞞佛), A Sô Tì Da Phật (阿芻鞞耶佛), Ác Khất Sô Tỳ Dã Phật (噁乞蒭毘也佛); ý dịch là Bất Động Phật (不動佛), Vô Động Phật (無動佛), hay Vô Nộ Phật (無怒佛), Vô Sân Nhuế Phật (無瞋恚佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật ở 5 phương khác nhau; vị này thường ngự ở phương Đông. Theo Phẩm Phát Ý Thọ Tuệ (發意受慧) và Thiện Khoái (善快) của A Súc Phật Quốc Kinh (阿閦佛國經, Taishō Vol. 11, No. 313) quyển Thượng, vào thời quá khứ cách hơn Phật quốc độ về phương Đông có thế giới tên gọi là A Tỷ La Đề (s: Abhirati, 阿比羅提), đức Đại Mục Như Lai (大目如來) xuất hiện trong thế giới ấy, vì các Bồ Tát thuyết về hạnh Lục Độ Vô Cực (六度無極). Khi ấy có một vị Bồ Tát nhân khi nghe pháp bèn phát tâm vô thượng chánh chân; đức Đại Mục Như Lai thấy vậy rất hoan hỷ nên ban cho hiệu là A Súc. Bồ Tát A Súc thành Phật ở thế giới A Tỷ La Đề, cho đến hiện tại vẫn còn đang thuyết pháp tại quốc độ của Ngài. Hơn nữa, lại căn cứ vào Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經, Taishō Vol. 9, No. 262) cho hay rằng khi chưa xuất gia, đức Đại Thông Trí Thắng Phật (大通智勝佛) có 16 vương tử, về sau tất cả đều xuất gia làm Sa Di; trong đó người con thứ nhất tên Trí Tích (智積), tức là A Súc, thành Phật tại nước Hoan Hỷ ở phương Đông. Bi Hoa Kinh (s: Karuṇā-puṇḍarīka-sūtra, 悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 4 có ghi rằng đức A Di Đà Phật (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀佛) trong thời quá khứ khi làm vua Vô Tránh Niệm (無諍念), có cả ngàn người con, trong đó người con thứ 9 tên Mật Tô (蜜蘇), tức là A Súc, thành Phật ở phương Đông, cõi nước tên là Diệu Lạc (妙樂). Mật Giáo xem A Súc Phật này là một trong 5 vị Phật của Kim Cang Giới (金剛界), tượng trưng cho Đại Viên Cảnh Trí (大圓境智), hay Kim Cang Trí (金剛智). Ngài ngự ở trung ương chánh Đông Nguyệt Luân trong Ngũ Giải Thoát Luân (五解脫輪), phía trước là Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵), bên phải là Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩), bên trái là Kim Cang Ái Bồ Tát (金剛愛菩薩), phía sau là Kim Cang Hỷ Bồ Tát (金剛喜菩薩). Hình tượng của Ngài màu vàng kim, tay trái bắt ấn để trên bắp vế, tay phải buông xuống chạm đất, nên được gọi là A Súc Xúc Địa ấn (阿閦觸地印). Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛); chủng tử là hūṃ. Chơn ngôn là “án ác khất sô tỳ dã hồng (唵噁乞蒭毘也吽).” Thân Ngài màu xanh, như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Đông phương A Súc Phật, kỳ thân thanh sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Hàng Ma Chử, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請東方阿閦佛、其身青色放光明、手印執持降魔杵、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Đông phương A Súc Phật, thân Ngài sắc xanh phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Chày Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy thêm rằng: “Cầu trường thọ thư A Súc Phật Chủng Trí tự (求長壽書阿閦佛種智字, nếu cầu sống lâu thì viết chữ Chủng Trí của A Súc Phật).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Kim Cang Kiên Cố Tự Tánh Thân A Súc Phật (南慕金剛堅固自性身阿閦佛, Kính Lễ Phật A Súc Thân Tự Tánh Kiên Cố Như Kim Cang).”
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(北條貞時, Hōjō Sadatoki, 1272-1311): nhà Chấp Quyền của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương; tên lúc nhỏ là Hạnh Thọ (幸壽, Kōju), pháp danh là Sùng Hiểu (崇曉), Sùng Diễn (崇演); cha là Thời Tông (時宗, Tokimune). Năm 1284 (Hoằng An [弘安] thứ 7), ông tựu nhiệm cương vị Chấp Quyền, rồi đến năm sau thì thảo phạt dòng họ An Đạt Thái Thạnh (安達泰盛) và trấn áp thế lực nhóm Ngự Gia Nhân (御家人). Năm 1289 (Ứng Nhân [應仁] thứ 2), ông đẩy lùi tướng quân Duy Khang Thân Vương (惟康新王), rồi ủng lập Cửu Minh Thân Vương (久明親王) lên ngôi; tiếp theo năm 1293, ông thảo phạt Nội Quản Lãnh Bình Lại Cương (平賴綱) và đạt đến đỉnh cao sự chuyên chế của dòng họ Bắc Điều. Vào năm 1301 (Chánh An [正安] thứ 3), ông nhường chức Chấp Quyền lại cho Sư Thời (師時, Morotoki) rồi xuất gia, và cho đến khi chết ông vẫn nắm trọn thật quyền trong tay.
(八德): tức Bát Công Đức Thủy (八功德水), là nước có đầy đủ 8 loại công đức thù thắng; còn gọi là Bát Vị Thủy (八味水), Bát Chi Đức Thủy (八支德水), Bát Định Thủy (八定水). Cõi Tịnh Độ của chư Phật có hồ đầy đủ 8 công đức, trong đó có đầy ắp nước 8 công đức. Tám loại đó là: lắng sạch, trong lạnh, ngọt ngon, nhẹ mềm, tươi mát, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn. Đồng thời, nơi 7 dòng biển bao quanh núi Tu Di, cũng có đầy đủ nước 8 công đức, gồm: ngọt, lạnh, mềm, nhẹ, trong sạch, không hôi, uống vào không gây tổn thương cổ họng, uống vào không gây tổn thương bụng. Trong Xưng Tán Tịnh Độ Kinh (稱讚淨土經) giải thích rằng: “Hà đẳng danh vi Bát Công Đức Thủy ? Nhất giả trừng tịnh, nhị giả thanh lãnh, tam giả cam mỹ, tứ giả khinh nhuyễn, ngũ giả nhuận trạch, lục giả an hòa, thất giả ẩm thời trừ cơ khát đẳng vô lượng quá hoạn, bát giả ẩm dĩ định năng trưởng dưỡng chư căn Tứ Đại, tăng ích chủng chủng thù thắng thiện căn, đa phước chúng sanh, trường lạc thọ dụng (何等名爲八功德水、一者澄淨、二者清冷、三者甘美、四者輕軟、五者潤澤、六者安和、七者飲時除饑渴等無量過患、八者飲已定能長養諸根四大、增益種種殊勝善根、多福眾生、長樂受用, thế nào là Nước Có Tám Công Đức ? Một là lắng sạch, hai là trong lạnh, ba là ngọt ngon, bốn là nhẹ mềm, năm là tươi mát, sáu là an hòa, bảy là khi uống trừ được vô lượng sai lầm, âu lo như đói khát, v.v., tám là uống rồi được định, có thể nuôi lớn các căn, Tứ Đại, làm cho tăng ích các loại căn lành thù thắng, chúng sanh có nhiều phước sẽ vui mừng thọ dụng lâu dài).” Hay trong Hồi Hướng Văn (迴向文, Taishō No. 2848) lại có câu: “Bát Công Đức Thủy khử cấu trừ tai, Thất Tịnh Diệu Hoa trang nghiêm pháp thể (八功德水去垢除災、七淨妙花莊嚴法體, Nước Tám Công Đức khử nhớp trừ tai, Bảy Hoa Sạch Mầu trang nghiêm pháp thể).” Hơn nữa, trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh (佛說阿彌陀經) cũng có câu: “Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, hữu Thất Bảo Trì, Bát Công Đức Thủy, sung mãn kỳ trung (又舍利弗、極樂國土、有七寶池、八功德水、充滿其中, lại nữa Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc có Ao Bảy Báu, có Nước Tám Công Đức, tràn đầy bên trong).” Ngoài ra, trong bài xướng Sái Tịnh có câu: “Phù thử thủy giả, Bát Công Đức Thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ Lô Hoa Tạng giới (夫此水者、八功德水自天眞、先洗眾生業垢塵、徧入毘盧華藏界, phàm loại nước này, là Nước Tám Công Đức, xuất xứ từ nguồn chơn của trời đất, trước hết rửa sạch bụi dơ nghiệp của chúng sanh, chuyển nhập vào thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật).”
(s: Amogha-siddhi, t: Don-yod-grub-pa, 不空成就佛): hay Bất Không Thành Tựu Như Lai (不空成就如來), gọi tắt là Bất Không Phật (不空佛); còn có các danh hiệu khác như Thiên Cổ Lôi Âm Phật (天鼓雷音佛), Thiên Cổ Âm Phật (天鼓音佛), Lôi Âm Vương Phật (雷音王佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo, ngự ngay trung tâm của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Bắc. Ngài tượng trưng cho Thành Sở Tác Trí (成所作智) của Ngũ Trí, là Bộ chủ của Nghiệp Bộ (業部). Trong Hội Thành Thân, thân của Ngài thể hiện sắc màu vàng; tay trái bắt ấn, để trên gót chân, tay phải đưa ngang ngực, ngồi xếp bằng trên tòa sen. Tuy nhiên, trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) lại giải thích thân Ngài màu đen: “Phụng thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, kỳ thân hắc sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Diệu Hàng Ma, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請北方成就佛、其身黑色放光明、手印執持妙降魔、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, thân Ngài sắc đen phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Diệu Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛), chủng tử là aḥ, hình Tam Muội Da là Chày Yết Ma Chữ Thập. Trong Thai Tạng Giới gọi Ngài là Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Tác phẩm Phật Danh Thích Điển Truyện Lược (佛名釋典傳略) cho biết rằng Bất Không Thành Tựu Phật đại biểu cho Thành Sở Tác Trí của Tỳ Lô Giá Na Phật (s: Vairocana, 毘盧遮那佛, tức Đại Nhật Như Lai [大日如來]); phần lớn hóa hiện sắc màu xanh lục, vàng kim; thường hiện hình tượng ngự giá trên Đại Bàng Kim Xí Điểu (大鵬金翅鳥) có thể hàng phục ác long, rắn độc. Ngài còn tượng trưng có thể lấy trí tuệ lớn để thành tựu sự nghiệp của tất cả chư Như Lai cũng như của chúng sanh. Hành giả Phật Giáo nếu gặp phải phiền não, lo âu, nên chí thành cầu xin sự gia trì Phật lực của đức Bất Không Thành Tựu, thì có thể được tự lợi và lợi tha, khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não. Trong Mật Giáo, Uế Tích Kim Cang Vương (穢跡金剛明王), đấng có đức chuyển hóa từ “bất tịnh” thành “thanh tịnh”, chính là hóa thân của Bất Không Thành Tựu Phật. Về ấn quyết của Ngài, trong Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) có đề cập rằng: “Dĩ hữu thủ tác Vô Úy tướng, thử thị Bất Không Thành Tựu Phật căn bản ấn (以右手作無畏相、此是不空成就佛根本印, dùng tay phải làm hình tướng Vô Úy, đây là ấn căn bản của Bất Không Thành Tựu Phật).” Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát (成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩, bốn vị Bồ Tát của Thành Tựu Phật là, một Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyền Bồ Tát).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Trung Phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận (金剛頂瑜伽中發阿耨多羅三藐三菩提心論, Taishō Vol. 32, No. 1665) có giải thích rằng: “Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, do thành Thành Sở Tác Trí, diệc danh Yết Ma Trí dã (北方不空成就佛、由成成所作智、亦名羯磨智也, Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc do thành tựu Thành Sở Tác Trí, nên cũng được gọi là Yết Ma Trí).” Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) quyển 5 lại giải thích thêm rằng: “Phục thứ hàng phục pháp, trì tụng giả tiên tưởng Hồng tự, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng lục sắc quảng đại viên mãn (復次降伏法、持誦者先想吽字、化成不空成就佛、身相綠色廣大圓滿, lại nữa về pháp hàng phục, người trì tụng nên trước tưởng tượng chữ Hồng, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng màu xanh lục, to lớn tròn đầy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Tác Biến Hóa Thân Bất Không Thành Tựu Phật (南慕作變化身不空成就佛, Kính Lễ Phật Bất Không Thành Tựu Có Thân Biến Hóa).”
Bát Nạn (s: aṣṭa-akṣaṇa, p: aṭṭha akkhaṇā, 八難): ý dịch là Bát Nạn Xứ (八難處), Bát Nạn Giải Pháp (八難解法), Bát Vô Hạ (八無暇), Bát Bất Nhàn (八不閑), Bát Phi Thời (八非時), Bát Ác (八惡); là 8 loại nạn xứ, tức là 8 loại cảnh giới mà một vị tu hành không thấy được Phật, không được nghe chánh pháp, không tu phạm hạnh để hướng đến đạo Bồ Đề. Đó là:
(1) Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄);
(2) Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生);
(3) Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼);
(4) Trường Thọ Thiên (s: dīrghāyu-deva, p: digghāyu-deva, 長壽天, còn gọi là [無想天], tuổi thọ của chư thiên trên cõi trời này còn nhiều hơn tuổi thọ ở Bắc Cu Lô Châu [s: Uttara-kuru, 北俱盧洲], không có duyên gặp Phật, nghe pháp và thấy chư tăng);
(5) biên địa (s; pratyanta-janapada, p: paccanta-janapada, 邊地);
(6) manh lung ám á (s: indriya-vaikalya, p: indriya-vekalla, 盲聾瘖啞, mù, điếc, câm, ngọng, các căn bị hủy hoại, mất đi chức năng của chúng);
(7) thế trí biện thông (s: mithyā-darśana, p: micchā-dassana, 世智辯聰, tức tà kiến, nhận thức, quan điểm không đúng); và
(8) Phật tiền Phật hậu (s: tathāgatānāṁ anutpāda, p: tathāgatānāṁ anuppāda, 佛前佛後, sanh ra trước Phật hay sau Phật).
Như trong Thập Thượng Kinh (十上經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō No. 1) quyển 9, có giải thích rằng: “Vân hà Bát Nan Giải Pháp ? Vị Bát Bất Nhàn phương tu phạm hạnh, vân hà bát ? Như Lai chí chơn xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hữu nhân sanh Địa Ngục trung, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, nhi hữu chúng sanh tại Súc Sanh trung, Ngạ Quỷ trung, Trường Thọ Thiên trung, biên địa vô thức, vô Phật pháp xứ, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hoặc hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, nhi hữu tà kiến, hoài điên đảo tâm, ác hạnh thành tựu, tất nhập Địa Ngục, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hoặc hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, lung manh ám á, bất đắc văn pháp, tu hành phạm hạnh, thị vi bất nhàn xứ; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác bất xuất thế gian, vô hữu năng thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, nhi hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, bỉ chư căn cụ túc, kham thọ Thánh giáo, nhi bất trị Phật, bất đắc tu hành phạm hạnh, thị vi Bát Bất Nhàn (云何八難解法、謂八不閑妨修梵行、云何八、如來至眞出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、有人生地獄中、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、而有眾生在畜生中、餓鬼中、長壽天中、邊地無識、無佛法處、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞等正覺出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、或有眾生生於中國、而有邪見、懷顛倒心、惡行成就、必入地獄、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞等正覺出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、或有眾生生於中國、聾盲瘖啞、不得聞法、修行梵行、是爲不閑處、如來至眞等正覺不出世間、無有能說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、而有眾生生於中國、彼諸根具足、堪受聖敎、而不值佛、不得修行梵行、是爲八不閑, thế nào là Tám Pháp Khó Giải Quyết ? Tức là Tám Điều Không Yên làm trở ngại cho việc tu phạm hạnh, thế nào là tám ? Đức Như Lai chí chơn xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, nếu có người sanh vào trong Địa Ngục, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, mà có chúng sanh nào trong cõi Súc Sanh, trong cõi Ngạ Quỷ, trong cõi Trường Thọ Thiên, biên địa không biết, nơi chẳng có Phật pháp, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, hoặc có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, mà có tà kiến, mang tâm điên đảo, thành tựu hạnh ác, tất vào Địa Ngục, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, hoặc có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, bị điếc, đui, câm, ngọng, không thể nghe pháp, tu hành phạm hạnh, là nơi không yên ổn; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, không xuất hiện giữa đời, không thể nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, mà có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, các căn người đó đầy đủ, có thể thọ Thánh giáo, mà không gặp được Phật, không thể tu hành phạm hạnh; đó là Tám Điều Không Yên).” Hay như Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (慈悲道塲懺法, Taishō No. 1909) quyển 7 cũng giải thích tương tự: “Bát Nạn, nhất giả Địa Ngục, nhị giả Ngạ Quỷ, tam giả Súc Sanh, tứ giả biên địa, ngũ giả Trường Thọ Thiên, lục giả tuy đắc nhân thân lung tàn bách tật, thất giả sanh tà kiến gia, bát giả sanh Phật tiền, hoặc sanh Phật hậu, hữu thử Bát Nạn (八難、一者地獄、二者餓鬼、三者畜生、四者邊地、五者長壽天、六者雖得人身癃殘百疾、七者生邪見家、八者生佛前、或生佛後、有此八難, Tám Nạn, một là Địa Ngục, hai là Ngạ Quỷ, ba là Súc Sanh, bốn là biên địa, năm là Trường Thọ Thiên, sáu là tuy được thân người nhưng bị tàn tật trăm bệnh, bảy là sanh vào nhà tà kiến, tám là sanh ra trước Phật, hoặc sanh sau Phật, có Tám Nạn này).” Tắm Phật cũng có công đức xa lìa được Tám Nạn này, như trong Dục Phật Công Đức Kinh (浴佛功德經, Taishō No. 698) có dạy: “Trường từ Bát Nạn, vĩnh xuất khổ duyên (長辭八難、永出苦緣, từ bỏ Tám Nạn, mãi ra khỏi duyên khổ).” Hoặc trong Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, Isan Kōnen, ?-?) cũng có câu: “Chấp trì cấm giới, trần nghiệp bất xâm, nghiêm hộ oai nghi, quyên phi vô tổn, bất phùng Bát Nạn, bất khuyết Tứ Duyên (執持禁戒、塵業不侵、嚴護威儀、蜎飛無損、不逢八難、不缺四緣, vâng giữ giới cấm, trần nghiệp chẳng xâm, gìn giữ oai nghi, bọ bay chẳng hại, không gặp Tám Nạn, không khuyết Bốn Duyên).” Ngoài ra, theo giải thích của thế tục, Tám Nạn là 8 thứ tai ách: đói, khát, lạnh, nóng, lửa, nước, đao, binh.
(大覺寺, Daikaku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Giác Tự (大覺寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sagaōzawa-chō (嵯峨大澤町), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市), còn được gọi là Tha Nga Ngự Sở (嵯峨御所), Đại Giác Tự Môn Tích (大覺寺門跡). Nguyên lai xưa kia chùa là Ly Cung của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823), Không Hải Đại Sư điêu khắc tượng Ngũ Đại Minh Vương (五大明王) và kiến lập Ngũ Giác Viện (五覺院). Khi gặp bệnh dịch hoành hành, Đại Sư cho đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh do tự tay mình viết và nạp vào Tâm Kinh Đường (心經堂). Vào năm 876 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 18), thể theo lịnh chỉ của Hoàng Hậu Chánh Tử (正子), chùa được khai sáng và ban tặng cho Hoàng Tử thứ 2 là Thân Vương Hằng Tịch (恆寂, Kōjaku). Thân Vương an trí tượng A Di Đà, chỉnh trang cảnh quan chùa, và vào năm 878 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] thứ 2), chùa được phép cho độ mỗi năm 2 người. Đến năm 918 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 18), Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) thọ trì hai bộ Quán Đảnh tại chùa này, và Khoan Không (寛空) làm vị Tổ đời thứ 2 của chùa. Trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Nguyên (天元, 978-983), chùa thuộc quyền quản lý của Nhất Thừa Viện (一乘院) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Đến năm 1268 (niên hiệu văn vĩnh thứ 5), Hậu Tha Nga Thiên Hoàng (後嵯峨天皇, Gosaga Tennō, tại vị 1242-1246) đến tu tại đây, rồi sau đó Quy Sơn Thiên Hoàng (龜山天皇, Kameyama Tennō, tại vị 1259-1274) cũng đến nhập chúng. Vào năm 1307 (niên hiệu Đức Trị [德治] thứ 2), Hậu Vũ Đa Thiên Hoàng (後宇多天皇, Gouda Tennō, tại vị 1274-1287) tiến hành tổ chức Viện Chính tại Thọ Lượng Viện (壽量院), cho xây dựng phòng ốc và trở thành vị Tổ thời Trung Hưng của chùa. Đến năm 1336 (niên hiệu Kiến Võ thứ 3), chùa bị cháy toàn bộ. Năm 1392 (niên hiệu Nguyên Trung thứ 9), ngay tại chùa này, Hậu Quy Sơn Thiên Hoàng (後龜山天皇, Gokameyama Tennō, tại vị 1383-1392) nhường thần khí lại cho Hậu Tiểu Tùng Thiên Hoàng (後小松天皇, Gokomatsu Tennō, tại vị 1382-1412) và nơi đây trở thành vũ đài lịch sử đấu tranh. Đời đời chư vị Thân Vương đều làm trú trì ở đây, mặc dầu bị đốt cháy tan tành trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), nơi đây vẫn trở thành ngôi chùa Môn Tích và rất hưng thịnh. Chính các dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), Đức Xuyên (德川, Tokugawa) đã từng hộ trì đắc lực cho chùa, nhưng kể từ cuối thời Giang Hộ trở đi thì trở nên hoang phế. Dưới thời Minh Trị Duy Tân, có khi chẳng ai trú trì ở đây cả, rồi sau đó nhóm Nam Ngọc Đế (楠玉諦), Cao Tràng Long Sướng (高幢龍暢) đã tận lực phục hưng lại hiện trạng. Khách Điện (客殿) của chùa là kiến trúc thời Đào Sơn (桃山, Momoyama), trong đó có 13 bức tranh tùng và chim ưng. Thần Điện (宸殿) là kiến trúc cung điện đầu thời thời Giang Hộ, có 18 bức tranh hoa Mẫu Đơn, 8 bức Hồng Mai với bút tích của Thú Dã Sơn Lạc (狩野山樂, Kanō Sanraku, 1559-1635), do Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) hiến cúng. Trong Ngũ Đại Đường (五大堂) có an trí tượng Ngũ Đại Minh Vương thuộc cuối thời Bình An và một số tượng khác. Bảo vật của chùa có đồ hình Ngũ Đại Hư Không Tạng (五大虛空藏), Khổng Tước Kinh Âm Nghĩa (孔雀經音義), v.v.
(s, p: dāna, 檀那): còn gọi là Đà Na (柁那), Đán Na (旦那), Đà Nẵng (馱曩), Đàn (檀); ý dịch là thí (施, cho, ban phát), bố thí (布施), tức lấy tâm từ bi mà ban phát phước lợi cho tha nhân; cả Phạn Hán cùng gọi là Đàn Thí (檀施), Đàn Tín (檀信). Những tín đồ cúng dường y thực cho tăng chúng, hay xuất tiền tài để tiến hành pháp hội, tu hạnh bố thí được gọi là Thí Chủ (s: dānapati, 施主); âm dịch là Đàn Việt (檀越), Đà Na Bát Để (陀那鉢底), Đàn Na Ba Để (檀那波底), Đà Na Bà (陀那婆); cả Phạn Hán đều gọi chung là Đàn Việt Thí Chủ (檀越施主), Đàn Na Chủ (檀那主), Đàn Chủ (檀主). Trong Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集) quyển 1 có giải thích rằng: “Đàn Na hựu xưng Đàn Việt; Đàn tức thí; thử nhân hành thí, việt bần cùng hải, cố xưng Đàn Việt; tâm sanh xả pháp, năng phá xan tham, thị vi Đàn Na (檀那又稱檀越、檀卽施、此人行施,越貧窮海、故稱檀越、心生捨法、能破慳貪、是爲檀那, Đàn Na còn gọi là Đàn Việt; Đàn tức là bố thí; người này hành bố thí, vượt qua biển bần cùng; nên gọi là Đàn Việt; tâm sanh khởi pháp xả bỏ, có thể phá tan sự tham lam, keo kiệt, đó là Đàn Na).” Theo Thiện Sanh Kinh (善生經) của Trường A Hàm (長阿含經) quyển 11 có đoạn rằng: “Đàn Việt đương dĩ ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Vân hà vi ngũ ? Nhất giả thân hành từ, nhị giả khẩu hành từ, tam giả ý hành từ, tứ giả dĩ thời thí, ngũ giả môn bất chế chỉ. Thiện Sanh, nhược Đàn Việt dĩ thử ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn đương phục dĩ lục sự nhi giáo thọ chi. Vân hà vi lục ? Nhất giả phòng hộ bất linh vi ác, nhị giả chỉ thọ thiện xứ, tam giả giáo hoài thiện tâm, tứ giả sử vị văn giả văn, ngũ giả dĩ văn năng sử thiện giải, lục giải khai thị thiên lộ (檀越當以五事供奉沙門、婆羅門、云何爲五、一者身行慈、二者口行慈、三者意行慈、四者以時施、五者門不制止、善生、若檀越以此五事供奉沙門、婆羅門、沙門、婆羅門當復以六事而敎授之、云何爲六、一者防護不令爲惡、二者指授善處、三者敎懷善心、四者使未聞者聞、五者已聞能使善解、六者開示天路, Thí chủ nên lấy năm việc để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Thế nào là năm ? Một là thân hành từ bi, hai là miệng hành từ bi, ba là ý hành từ bi, bốn là cúng dường đúng thời, năm là cổng không đóng dừng. Này Thiện Sanh ! Nếu Thí chủ lấy năm việc trên để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn phải lấy sáu việc để giáo hóa lại cho họ. Thế nào là sáu ? Một là phòng ngừa, bảo hộ không khiến cho làm điều ác; hai là chỉ bày, truyền trao nơi tốt lành; ba là dạy họ luôn nhớ tâm lành; bốn là khiến cho người chưa nghe được nghe; năm là người được nghe có thể khiến cho khéo hiểu rõ; sáu là khai thị rõ đường lên trời).” Lại theo Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 24 cho biết rằng vị Thí Chủ Đàn Việt tùy thời mà bố thí, cúng dường thì sẽ có 5 công đức:
(1) Tiếng tăm vang khắp bốn phương và mọi người đều hoan hỷ, vui mừng;
(2) Nếu sanh làm thân chúng sanh, không mang tâm xấu hổ và cũng không có sự sợ hãi;
(3) Được mọi người kính ngưỡng, người thấy cũng sanh tâm hoan hỷ;
(4) Sau khi mạng hết, hoặc sanh lên cõi Trời, được chư Thiên cung kính; nếu sanh trong cõi người, cũng được người tôn quý;
(5) Trí tuệ xuất chúng, thân hiện đời hết lậu hoặc, chẳng trãi qua đời sau.
Món cháo do Thí Chủ cúng dường cho đại chúng được gọi là Đàn Na Chúc (檀那粥). Như trong Oánh Sơn Thanh Quy (瑩山清規) quyển Thượng, phần Nguyệt Trung Hành Sự (月中行事) của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin, 1268-1325), Tổ khai sơn Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Năng Đăng (能登, Noto), có câu: “Đàn Na Chúc, thán kệ như tiền, kim thần tịnh chúc nhất đường, phụng vị bổn tự Đàn Na thập phương Thí Chủ phước thọ trang nghiêm, ngưỡng bằng tôn chúng niệm (檀那粥、歎偈如前、金晨淨粥一堂、奉爲本寺檀那十方施主福壽莊嚴、仰憑尊眾念, Cháo Đàn Na, kệ tán thán như trước, hôm nay cháo chay một nhà, kính vì cầu chúc Đàn Na chùa này, Thí Chủ mười phương được phước thọ trang nghiêm, ngưỡng mong đại chúng tưởng niệm).” Đặc biệt, tại Nhật Bản, ngôi chùa sở thuộc nhà Đàn Việt được gọi là Đàn Na Tự (檀那寺, Danna-dera) hay Đán Na Tự (旦那寺, Danna-dera); hay còn có nghĩa là ngôi chùa ban pháp cho bản thân mình, hoặc là ngôi chùa do mình cúng dường và duy trì. Từ này xuất hiện trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), khi tiến hành đàn áp Thiên Chúa Giáo. Đàn Na Tự còn gọi với tên khác là Bồ Đề Tự (菩提寺), Hương Hoa Viện (香華院).
(家風, kafū): Gia (家) nghĩa là sư gia, Thiền gia, gia đình, v.v.; phong (風) là phong nghi, phong tục, phong cách. Như vậy, gia phong ở đây có nghĩa là phong nghi của một nhà nào đó. Trong Thiền Tông, đây là phong nghi sinh ra từ Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); còn gọi là tông phong (宗風), Thiền phong (禪風). Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 7, phần Hàng Châu Phủ Linh Ẩn Lãn Am Đạo Xu Thiền Sư (杭州府靈隱懶菴道樞禪師) có câu: “Tuyết lí mai hoa xuân tin tức, trì trung nguyệt sắc dạ tinh thần, niên lai bất thị vô giai thú, mạc bả gia phong cử tợ nhân (雪裡梅華春信息、池中月色夜精神、年來不是無佳趣、莫把家風舉似人, trong tuyết hoa mai xuân báo tin, bên hồ trăng tỏ đêm tinh thần, xuân về chẳng phải không thú đẹp, chớ lấy gia phong nói cùng người).” Hay trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 6 có đoạn: “Xích nhục đoàn thượng, nhân nhân cổ Phật gia phong; Tỳ Lô đảnh môn, xứ xứ Tổ sư ba tỷ; niêm nhất cơ thiên cơ vạn cơ thông thấu; dụng nhất cú thiên cú vạn cú lưu thông (赤肉團上、人人古佛家風、毘盧頂門、處處祖師巴鼻、拈一機千機萬機通透、用一句千句萬句流通, trên đống thịt đỏ, người người gia phong cổ Phật; cửa đỉnh Tỳ Lô, chốn chốn xuất xứ Tổ sư; đưa ra một cơ duyên thì ngàn cơ duyên, vạn cơ duyên đều thông thấu; dùng một câu thôi mà ngàn câu, vạn câu thảy lưu thông).” Hoặc như trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 11 có câu: “Độc lâu thường can thế giới, tỷ khổng ma xúc gia phong, vạn lí thần quang đảnh hậu tướng, trực hạ hội đắc, chuyển phàm thành Thánh chỉ tại phiến thời (髑髏常干世界、鼻孔摩觸家風、萬里神光頂後相、直下會得、轉凡成聖只在片時, đầu lâu thường chạm thế giới, lỗ mũi xát đụng gia phong, vạn dặm hào quang sau đỉnh đầu, ngay đó ngộ được, chuyển phàm thành Thánh chỉ trong phút chốc).”
(家風, kafū): Gia (家) nghĩa là sư gia, Thiền gia, gia đình, v.v.; phong (風) là phong nghi, phong tục, phong cách. Như vậy, gia phong ở đây có nghĩa là phong nghi của một nhà nào đó. Trong Thiền Tông, đây là phong nghi sinh ra từ Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); còn gọi là tông phong (宗風), Thiền phong (禪風). Như trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 7, phần Hàng Châu Phủ Linh ẩn Lãn Am Đạo Xu Thiền Sư (杭州府靈隱懶菴道樞禪師) có câu: “Tuyết lí mai hoa xuân tin tức, trì trung nguyệt sắc dạ tinh thần, niên lai bất thị vô giai thú, mạc bả gia phong cử tợ nhân (雪裡梅華春信息、池中月色夜精神、年來不是無佳趣、莫把家風舉似人, trong tuyết hoa mai xuân báo tin, bên hồ trăng tỏ đêm tinh thần, xuân về chẳng phải không thú đẹp, chớ lấy gia phong nói cùng người).” Hay trong Viên Ngộ Phật Quả Thiền Sư Ngữ Lục (圓悟佛果禪師語錄, Taishō Vol. 47, No. 1997) quyển 6 có đoạn: “Xích nhục đoàn thượng, nhân nhân cổ Phật gia phong; Tỳ Lô đảnh môn, xứ xứ Tổ sư ba tỷ; niêm nhất cơ thiên cơ vạn cơ thông thấu; dụng nhất cú thiên cú vạn cú lưu thông (赤肉團上、人人古佛家風、毘盧頂門、處處祖師巴鼻、拈一機千機萬機通透、用一句千句萬句流通, trên đống thịt đỏ, người người gia phong cổ Phật; cửa đỉnh Tỳ Lô, chốn chốn xuất xứ Tổ sư; đưa ra một cơ duyên thì ngàn cơ duyên, vạn cơ duyên đều thông thấu; dùng một câu thôi mà ngàn câu, vạn câu thảy lưu thông).” Hoặc như trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 11 có câu: “Độc lâu thường can thế giới, tỷ khổng ma xúc gia phong, vạn lí thần quang đảnh hậu tướng, trực hạ hội đắc, chuyển phàm thành Thánh chỉ tại phiến thời (髑髏常干世界、鼻孔摩觸家風、萬里神光頂後相、直下會得、轉凡成聖只在片時, đầu lâu thường chạm thế giới, lỗ mũi xát đụng gia phong, vạn dặm hào quang sau đỉnh đầu, ngay đó ngộ được, chuyển phàm thành Thánh chỉ trong phút chốc).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập