Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ Hành »»
(白虎): hổ trắng, trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, là tên gọi của 1 trong 4 vị thần. Căn cứ học thuyết Ngũ Hành (五行), đây là con linh thú đại biểu cho phương Tây, hình tượng là con hổ màu trắng, đại diện cho mùa Thu. Trong Nhị Thập Bát Tú (二十八宿), nó là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Tây gồm: Khuê (奎), Lâu (婁), Vị (胃), Mão (昴), Tất (畢), Tuy (觜) và Sâm (參). Cho nên trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Bạch Hổ Tây Đẩu Tinh Quân (白虎西斗星君) là: “Khuê Tú Thiên Tướng Tinh Quân, Lâu Tú Thiên Ngục Tinh Quân, Vị Tú Thiên Thương Tinh Quân, Mão Tú Thiên Mục Tinh Quân, Tất Tú Thiên Nhĩ Tinh Quân, Chuy Tú Thiên Bình Tinh Quân, Tham Tú Thiên Thủy Tinh Quân (奎宿天將星君、婁宿天獄星君、胃宿天倉星君、昴宿天目星君、畢宿天耳星君、觜宿天屛星君、參宿天水星君).” Người thời nhà Hán xem con hổ là tượng trưng cho vua của trăm thú. Tương truyền khi một con hổ sống đến 500 tuổi thì lông của nó tự nhiên biến thành màu trắng; cho nên hổ trắng được xem như là đại diện cho một loại linh vật. Khi bậc đế vương có đủ tài đức hay lúc thiên hạ thái bình thì loại thần thú này xuất hiện. Vì màu trắng đại biểu cho phương Tây, nên hổ trắng là thần bảo vệ phương Tây. Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Tây phương Bạch Hổ thượng ứng Chuy tú, anh anh tố chất, túc túc thanh âm, uy nhiếp cầm thú, khiếu động sơn lâm, lai lập ngô hữu (西方白虎上應觜宿、英英素質、肅肅聲音、威攝禽獸、嘯動山林、來立我右, hổ trắng phương Tây trên ứng với sao Chuy, tinh túy nguyên chất, nghiêm nghị âm thanh, uy nhiếp cầm thú, rống động núi rừng, đến bên phải ta).” Hổ trắng là chiến thần, tức là thần sát phạt, do tinh tú biến thành, có đủ quyền năng thần lực như trừ tà, giải trừ tai ương, cầu no đủ, trị ác, khuyến thiện, ban tài lộc, kết lương duyên, v.v. Sở dĩ hổ trắng đại diện cho phương Tây vì trong Ngũ Hành, phương Tây thuộc về Kim, màu trắng. Cho nên tên gọi Bạch Hổ không phải căn cứ vào màu sắc, mà vốn có do Ngũ Hành. Đạo Giáo cũng lấy hổ trắng làm thuật ngữ luyện đơn, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Bạch Hổ giả, Tây phương Canh Tân Kim Bạch Kim dã, đắc chân nhất chi vị (白虎者、西方庚辛金白金也、得眞一之位, Bạch Hổ là Kim, Bạch Kim thuộc Canh Tân ở phương Tây, đắc chân vị số một).” Ngoài ra, Bạch Hổ còn là hình tượng của một hung thần; như trong Hiệp Kỷ Biện Phương (協紀辨方) có dẫn nhân Nguyên Bí Xu Kinh (元秘樞經): “Bạch Hổ giả, tuế trung hung thần dã, thường cư tuế hậu Tứ Thần, sở cư chi địa, phạm chi, chủ hữu tang phục chi tai (白虎者、歲中凶神也、常居歲後四辰、所居之地、犯之、主有喪服之災, Bạch Hổ là hung thần trong năm, thường cư bốn mùa sau một năm; vùng đất ngài sống, nếu phạm phải, chủ yếu có tai họa tang phục).” Thuật Phong Thủy chỉ Bạch Hổ là địa hình phía bên phải huyệt núi; như trong Táng Kinh (葬經) của Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Đông Tấn có cho rằng: “Địa hữu tứ thế, khí tùng bát phương, cố táng giả dĩ tả vi Thanh Long, hữu vi Bạch Hổ (地有四勢、氣從八方、故葬者以左爲青龍、右有白虎, đất có bốn thế, khí từ tám hướng, cho nên người chôn cất gọi bên trái là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ).” Hay Bạch Hổ còn là tên gọi của con đường lớn bên phải, như trong Dương Trạch Thập Thư (陽宅十書) quyển 1 có câu: “Phàm trạch, hữu hữu trường đạo vị chi Bạch Hổ (凡宅、右有長道謂之白虎, phàm nhà phía bên phải có đường dài, được gọi là Bạch Hổ).” Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) có đề cập đến hiệu của Bạch Hổ là “Giám Binh Thần Quân (監兵神君).”
(八卦): là khái niệm triết học cơ bản của Trung Quốc cổ đại. Nguyên lai có hai khái niệm khác nhau:
(1) Khái niệm gọi là “Vô Cực sanh Hữu Cực, Hữu Cực thị Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng diễn Bát Quái, bát bát lục thập tứ quái (無極生有極、有極是太極、太極生兩儀、兩儀生四象、四象演八卦、八八六十四卦, Vô Cực sanh ra Hữu Cực, Hữu Cực là Thái Cực, Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi [tức âm và dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [tức Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm], Tứ Tượng diễn thành Bát Quái, tám tám sáu mươi bốn quẻ).” Đây được gọi là Phục Hy Bát Quái (伏羲八卦) hay còn gọi là Tiên Thiên Bát Quái (先天八卦).
(2) Là học thuyết càn khôn của Chu Văn Vương (周文王). Ông cho rằng trước có trời đất, trời đất giao nhau sinh ra vạn vật; Thiên là Càn (乾), Địa là Khôn (坤); còn lại 6 quẻ kia là các con của nhà vua. Quẻ Chấn (震) là con trai đầu, Khảm (坎) là con trai giữa, Cấn (艮) là con trai út, Tốn (巽) là con gái đầu, Ly (離) là con gái giữa, Đoài (兌) là con gái út. Đây được gọi là Văn Vương Bát Quái (文王八卦) hay Hậu Thiên Bát Quái (後天八卦). Thông thường phù hiệu Bát Quái được kết hợp với Thái Cực Đồ (太極圖), đại diện cho chân lý chung cực mang tính tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc—Đạo (道). Bát Quái được hình thành do ba vạch, thể hiện ý tượng theo thứ tự: tên quẻ, tự nhiên, tánh tình, gia đình, thân thể, phương vị. Càn (乾, ☰, Trời, khỏe mạnh, cha, đầu, Tây Bắc); Đoài (兌, ☱, đầm nước, vui mừng, thiếu nữ, Tây); Ly (離, ☲, lửa, tươi đẹp, gái giữa, miệng, Nam); Chấn (震, ☳, sấm sét, cử động, trưởng nam, chân, Đông); Tốn (巽, ☴, gió, đi vào, trưởng nữ, bắp đùi, Đông Nam); Khảm (坎, ☵, nước, vùi lấp, trai giữa, lỗ tai, Bắc); Cấn (艮, ☶, núi, dừng lại, thiếu nam, tay, Đông Bắc); Khôn (坤, ☷, đất, thuận hòa, mẹ, bụng, Tây Nam). Từ hình tượng phù hiệu của các quẻ như trên, Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống đã đặt ra bài ca cho các em nhỏ dễ nhớ: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phú oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn (乾三連、坤六斷、震仰盂、艮覆碗、離中虛、坎中滿、兌上缺、巽下斷, quẻ Càn ba vạch nối liền, quẻ Khôn ba vạch đứt thành sáu đoạn, quẻ Chấn có hai vạch trên đứt đoạn, quẻ Cấn có hai vạch dưới đứt đoạn, quẻ Ly có vạch giữa đứt đoạn, quẻ Khảm có vạch giữa liền nhau, quẻ Đoài có vạch trên đứt đoạn, quẻ Tốn có vạch dưới đứt đoạn).”
Tại Trung Quốc, đồ hình Bát Quái thường được treo trước cửa nhà để trấn trừ tà ma, quỷ mị, bên trong có cái kính, gọi là “Chiếu Yêu Kính (照妖鏡).” Nó có ảnh hưởng đến các phương diện bói toán, phong thủy, y học, võ thuật, âm nhạc, v.v. Tại Việt Nam, tư tưởng Bát Quái cũng có ảnh hưởng và phổ cập trong dân gian. Trong tác phẩm Chu Dịch Dịch Chú (周易譯注) của Chu Chấn Phủ (周振甫) nhận định rằng Bát Quái có mối quan hệ giống như 4 nguyên tố hình thành vạn vật của Ấn Độ cũng như Hy Lạp cổ đại là đất, nước, gió và lửa. Ông cho rằng Bát Quái có thể phân thành 4 loại: đất hòa với núi tương thông, nước hòa với sông hồ tương thông, gió hòa với trời tương thông, lửa hòa với sấm sét tương thông. Hơn nữa, Bát Quái cũng có mối quan hệ rất mật thiết với Ngũ Hành (五行) của truyền thống Trung Quốc: Càn là trời, thuộc về Kim; Đoài là sông hồ, thuộc về Kim; Ly là lửa, thuộc về Hỏa; Chấn là sấm sét, thuộc về Mộc; Tốn là gió, thuộc về Mộc; Khảm là nước, thuộc về Thủy; Cấn là núi, thuộc về Thổ; Khôn là đất, thuộc về Thổ. Về mối quan hệ với Cửu Cung (九宮), Cửu Cung là 9 phương vị được quy định trong Lạc Thư (洛書). Nhìn chung, người ta thường lấy hậu thiên bát quái đặt vào phương vị trong Lạc Thư, hình thành nên cái gọi là Cửu Cung Bát Quái (九宮八卦). Tại Đài Loan rất thịnh hành thuyết Bái Quái này, như dưới thời nhà Thanh có xuất hiện Bát Quái Hội (八卦會), lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và hiện tại vẫn còn địa danh Bát Quái Sơn (八卦山). Trong dân gian Việt Nam cũng rất thịnh hành một loại Bát Quái Đồ gọi là Bát Quái Đồ Trừ Tà, hay thường gọi là Bùa Bát Quái, người Tàu vẽ sẵn, bán ở các tiệm kiếng. Loại Bát Quái Đồ Trừ Tà này gồm các quẻ giống hệt Bát Quái Tiên Thiên, nhưng sắp thứ tự các quẻ theo chiều quay ngược lại. Trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 87 có đoạn liên quan đến Cửu Cung Bát Quái: “Tống Giang tùy tức điều khiển quân mã xuất thành, ly thành thập lí, địa danh Phương Sơn, địa thế bình thản, kháo sơn bàng thủy, bài hạ Cửu Cung Bái Quái trận thế, đẳng hầu gian, chỉ kiến Liêu binh phân cố tam đội nhi lai (宋江隨卽調遣軍馬出城、離城十裏、地名方山、地勢平坦、靠山傍水、排下九宮八卦陣勢、等候間、只見遼兵分做三隊而來, Tống Giang vâng lời liền điều khiển quân mã ra khỏi thành, rời thành được mười dặm, có vùng đất tên Phương Sơn, địa thế bằng phẳng, nương núi tựa sông, bèn bày trận thế Cửu Cung Bái Quái; chờ đợi một lúc, chỉ thấy quân Liêu chia thành ba đội tiến đến).”
(姑洗): có hai nghĩa chính:
(1) Tên gọi âm thứ 3 trong 6 âm thanh thuộc về Dương của 12 luật âm, tương đương với âm Hạ Vô (下無, shimomu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Như trong Chấn Trạch Trường Ngữ (震澤長語), chương Âm Luật (音律) giải thích rằng: “Nam Lữ vi Vũ, Cô Tẩy vi Giốc (南呂爲羽、姑洗爲角, Nam Lữ là cung Vũ, Cô Tẩy là cung Giốc).”
(2) Chỉ tháng Ba Âm Lịch. Như trong tác phẩm Bạch Hổ Thông (白虎通), chương Ngũ Hành (五行) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán có ghi rõ rằng: “Tam nguyệt vị chi Cô Tẩy hà ? Cô giả cố dã; Tẩy giả tiên dã; ngôn vạn vật giai khử cố tự kỳ tân, mạc bất tiên minh dã (三月謂之姑洗何、姑者故也、洗者鮮也、言萬物皆去故就其新、莫不鮮明也, tháng Ba gọi là Cô Tẩy, vì sao ? Cô nghĩa là cũ, Tẩy nghĩa là mới; tức là vạn vật đều bỏ cái cũ mà đón cái mới, chẳng có gì mà không mới mẻ cả).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 còn cho biết rằng: “Thìn vi Cô Tẩy, tam nguyệt chi thần danh Thìn, Thìn giả chấn động chi nghĩa, thử nguyệt vật giai chấn động nhi trưởng, cố vị chi Thìn (辰爲姑洗、三月之辰名辰、辰者震動之義、此月物皆震動而長、故謂之辰, Thìn là Cô Tẩy, chi của tháng Ba là Thìn; Thìn có nghĩa là chấn động; tháng này muôn vật chuyển động mà lớn lên, nên gọi nó là Thìn).” Trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 8 cũng có giải thích thêm rằng: “Tam nguyệt kiến Thìn, hựu viết Cô Tẩy, hựu viết Mạc Xuân, viết Vãn Xuân, viết Diểu Xuân, hựu xưng Túc Nguyệt (三月建辰、又曰姑洗、又曰莫春、曰晚春、曰杪春、又稱宿月, tháng Ba kiến Thìn, lại gọi là Cô Tẩy, là Mạc Xuân, còn gọi là Vãn Xuân, là Diểu Xuân, còn có tên là Túc Nguyệt).” Hay trong Thích Thị Kê Cổ Lược (釋氏稽古略, Taishō Vol. 49, No. 2037) quyển 1 có câu: “Đại Minh Gia Tĩnh Quý Sửu tuế Cô Tẩy nguyệt Giáp Thân nhật Cú Khúc Thiên Vương Tự hậu học Sa Môn Xương Phục trùng san (大明嘉靖癸丑歲姑洗月甲申日句曲天王寺後學沙門昌腹重刊, hậu học Sa Môn Xương Phục khắc bản lại tại Thiên Vương Tự ở Cú Khúc, ngày Giáp Thân tháng Ba năm Quý Sửu [1553] niên hiệu Gia Tĩnh nhà Đại Minh).”
(久我通親, Kuga-no-Michichika): tức Nguyên Thông Thân (源通親, Minamoto-no-Michichika, 1149-1202), nhà quý tộc, công gia, chính trị gia sống vào đầu thời Liêm Thương, con của Nguyên Nhã Thông (源雅通, Minamoto-no-Masamichi), thuộc hàng cháu của Thôn Thượng Nguyên Thị (村上源氏, Murakami Genji); biệt danh là Thổ Ngự Môn Nội Đại Thần (土御門內大臣), Phi Tướng Quân (飛將軍), Nguyên Bác Lục (源博陸). Có thuyết cho rằng ông là thân phụ của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen). Trong Tào Động Tông vẫn thường gọi ông là Cửu Ngã Thông Thân. Ông từng bài xích vị Quan Bạch Cửu Điều Kiêm Thật (九條兼實, Kujō Kanezane), người kết thân với Nguyên Lại Triều (源賴朝, Minamoto-no-Yoritomo); giúp cho cháu ngoại Thổ Ngự Môn Thiên Hoàng (後土御門天皇, Gotsuchimikado Tennō, tại vị 1464-1500) lên ngôi và nắm quyền thế. Ông có sở trường về Hòa Ca, có trước tác Cao Thương Viện Nghiêm Đảo Ngự Hạnh Ký (高倉院嚴島御幸記), v.v.
(后土): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Tôn xưng đối với đại địa, như trong chương Hy Công Thập Ngũ Niên (僖公十五年) của Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Quân lý Hậu Thổ nhi đái Hoàng Thiên (君履后土而戴皇天, người tuy đạp lên Thần Đất mà đội ông Trời).”
(2) Chỉ Thần Thổ Địa, Thần Đất, Địa Thần (地神), đồng nghĩa với Địa Kỳ (地祗), hay chỉ cho nơi thờ tự Thần Thổ Địa. Như trong Chu Lễ (周禮), phần Xuân Quan (春官), Đại Tông Bá (大宗伯) có câu: “Vương đại phong, tắc tiên cáo Hậu Thổ (王大封、則先告后土, nhà vua phong chức, trước phải cáo Thần Thổ Địa).” Hay trong Hán Thư (漢書), phần Võ Đế Kỷ (武帝紀) lại có câu: “Trẫm cung tế Hậu Thổ Địa Kỳ, kiến quang tập vu linh đàn, nhất dạ tam chúc (朕躬祭后土地祇、見光集于靈壇、一夜三燭, Trẫm cung kính cúng tế Thần Thổ Địa, thấy ánh sáng tập trung nơi linh đàn, một đêm ba lần thắp nến sáng).”
(3) Tên gọi khác của Thổ Công (土公), xem chú thích Thổ Công bên trên.
(4) Tên gọi của một chức quan chuyên quản lý đất đai thời Thượng Cổ, như trong Tả Truyện, chương Chiêu Công Nhị Thập Cửu Niên (昭公二十九年) có giải thích rằng: “Ngũ Hành chi quan, thị vị Ngũ Quan …, Thủy Chánh viết Huyền Minh, Thổ Chánh viết Hậu Thổ (五行之官、是謂五官…水正曰玄冥、土正曰后土, quan Ngũ Hành được gọi là Ngũ Quan; … quan trông coi về thủy đạo là Huyền Minh, quan trông coi về đất đai là Hậu Thổ).”
Trong dân gian Trung Quốc có câu chuyện Hậu Thổ Phu Nhân (后土夫人) cưới chàng họ Vi (韋). Trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820), khi tướng Cao Biền (高駢, 821-887) làm Tiết Độ Sứ (節度使) Hoài Nam (淮南), bộ tướng (呂用之) ngụy tạo ra điềm linh dị của Hậu Thổ Phu Nhân và khuyên Cao Biền nên cát cứ một phương. Như trong bài thơ Hậu Thổ Miếu (后土廟) của La Ẩn (羅隱, 833-909) nhà Đường có câu: “Cửu Thiên Huyền Nữ do vô Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân khởi hữu linh (九天玄女猶無聖、后土夫人豈有靈, Cửu Thiên Huyền Nữ chẳng phải Thánh, Hậu Thổ Phu Nhân sao có linh)” để nói lên sự hôn mê, vô tri của Cao Biền lúc bấy giờ. Hậu Thổ còn có tên gọi khác là Thổ Hoàng (土皇), vị Địa Thần của Đạo Giáo, được liệt vào trong Tứ Ngự (四御). Thần hiệu của Hậu Thổ là Thừa Thiên Hiệu Pháp Khai Hoàng Hậu Thổ Nguyên Quân (承天効法開皇后土元君), còn gọi là Địa Mẫu Nương Nương (地母娘娘), Hậu Thổ Nương Nương (后土娘娘). Trong điện thờ Tứ Ngự có thần tượng hay thần vị của Hậu Thổ. Tại Trung Quốc, kể từ thời nhà Đường trở đi, theo đà phát triển của thuật Phong Thủy, mỗi khi động thổ, thượng lương, về nhà mới, trấn trạch, làm cầu, đắp đường, v.v., người dân đều có thiết trai nghi dâng cúng tạ Hậu Thổ để cầu cho gia trạch bình an, cầu đường hanh thông, ban phước tiêu tai cát tường. Truyền thống này cũng được tìm thấy trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Tại Huế mỗi năm có 2 tháng để Cúng Đất là tháng 2 hoặc tháng 8 Âm Lịch. Trong lễ này, ngoài những lễ vật độc đáo như cua, trứng vịt luộc, rau muống luộc mắm nêm, v.v., còn có luộc một con gà kiến tuổi đã trưởng thành và con gà đó phải được chọn lựa kỹ lưỡng, đặc biệt đôi chân phải “đẹp”. Sau khi cúng đất xong, theo tục lệ cặp chân gà được đem đi nhờ thầy xem bói giò để biết thời vận trong gia đình, hoặc được đem treo ở chàng bếp cho khô.
(林鐘、林鍾): có hai nghĩa chính:
(1) Tên gọi âm thứ 4 trong 6 âm thanh thuộc về Âm của 12 luật âm, tương đương với âm Hoàng Chung (黃鐘, ōshiki) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Như trong Sử Ký (史記), chương Luật Thư (律書) thứ 3 giải thích rằng: “Lâm Chung giả, ngôn vạn vật tựu tử, khí lâm lâm nhiên (林鍾者、言萬物就死、氣林林然, Lâm Chung nghĩa là vạn vật sắp chết, khí đông đúc như vậy).” Trong bài Đáp Lưu Bá Thằng Vấn Luật Lữ (答劉伯繩問律呂) của Hoàng Tông Hi (黃宗羲, 1610-1695) nhà Thanh có câu: “Lâm Chung trường lục thốn, tích tứ bách bát thập lục phân (林鍾長六寸、積四百八十六分, Lâm Chung dài 7 tấc, chứa 486 phân).”
(2) Tên gọi khác của tháng 6 Âm Lịch. Như trong tác phẩm Bạch Hổ Thông (白虎通), chương Ngũ Hành (五行) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán có ghi rõ rằng: “Lục nguyệt vị chi Lâm Chung hà ? Lâm giả, chúng dã; vạn vật thành thục, chủng loại chúng đa (六月謂之林鍾何、林者、眾也、萬物成熟、種類眾多, tháng Sáu gọi là Lâm Chung, vì sao ? Lâm nghĩa là chúng [số nhiều]; vạn vật thành thục, chủng loại rất nhiều).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 cho biết thêm về Lâm Chung rằng: “Mùi vi Lâm Chung, lục nguyệt chi thần danh Mùi; Mùi giả, vị dã; ngôn thời vật hướng thành, giai hữu khí vị, cố vị chi Mùi (未爲林鍾、六月之辰名未、未者、味也、言時物向成、皆有氣味、故謂之未, Mùi là Lâm Chung, chi của tháng Sáu tên Mùi; Mùi nghĩa là vị [mùi vị]; nghĩa là muôn vật đã trưởng thành, đều có khí vị, nên gọi nó là Mùi).” Trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 8 còn giải thích rằng: “Lục nguyệt kiến Mùi viết Hiệp Hợp, hựu viết Lâm Chung, hựu hiệu xưng Thả Nguyệt, Hà Nguyệt (六月建未曰協洽、又曰林鍾、又號稱且月、荷月, tháng Sáu kiến Mùi, gọi là Hiệp Hợp, còn gọi là Lâm Chung, lại có tên là Thả Nguyệt, Hà Nguyệt).” Trong Kim Cang Kinh Đại Ý (金剛經大意, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 25, No. 484) có câu “Lâm Chung nguyệt Đại Sĩ Thành Đạo nhật Vương Khởi Long cẩn thức (林鍾月大士成道日王起隆謹識, Vương Khởi Long kính ghi vào ngày Đại Sĩ Thành Đạo, tháng Sáu).”
(臘月、蠟月): tên gọi khác của tháng 12 Âm Lịch. Cách gọi như vậy có liên quan rất lớn với mùa màng tự nhiên, chủ yếu là với việc cúng tế trong năm. Từ lạp (臘) ở đây vốn là tên của một lễ tế cuối năm. Bộ Phong Tục Thông Nghĩa (風俗通義) của Ứng Thiệu (應劭, khoảng 153-196) nhà Hán giải thích rằng: “Hạ viết Gia Bình, Ân viết Thanh Tự, Chu dụng Đại Lạp, Hán cải vi Lạp. Lạp giả, lạp dã, ngôn điền lạp thủ cầm thú, dĩ tế tự kỳ tiên tổ dã (夏曰嘉平、殷曰清祀、周用大蠟、漢改爲臘、臘者、獵也、言田獵取禽獸、以祭祀其先祖也, nhà Hạ gọi là Gia Bình, nhà Ân gọi là Thanh Tự, nhà Chu dùng chữ Đại Lạp, nhà Hán đổi thành Lạp. Lạp nghĩa là săn bắn, tức săn bắn cầm thú, để cúng tế tổ tiên vậy).” Hay cho rằng: “Lạp giả, tiếp dã; tân cố giao tiếp, cố đại tế dĩ báo công dã (臘者、接也、新故交接、故大祭以報功也, Lạp nghĩa là hội họp; vì năm mới nên giao tiếp, cho nên cúng tế lớn để báo công vậy).” Nhân tháng 12 này thường có lễ cúng tế lớn nên được gọi là “Tháng Cúng Tế”. Người Tần gọi lễ Tế Thần vào cuối năm là Lạp. Tháng 12 là tháng cuối cùng của một năm, đúng vào tiết Đông giá buốt. Ngạn ngữ dân gian có câu: “Lạp thất, Lạp Bát, đống trạo hạ ba (臘七、臘八、凍掉下巴, mồng bảy tháng Chạp, mồng 8 tháng Chạp, lạnh buốt xương tủy)”; để diển tả cái lạnh tột cùng âm 20 độ C, mọi công việc đồng án đều phải đình trệ; cho nên tháng Chạp còn được gọi là Đông Nhàn (冬閑, mùa Đông nhàn hạ). Dưới thời nhà Chu, bất luận nhà quan quyền hay bá tánh thường dân, mỗi nhà đều phải cử hành lễ gọi là “tuế chung chi tế (歲終之祭, cúng cuối năm)”, rất long trọng, rầm rộ nhất trong năm; lễ cúng đó gọi là Lạp. Trong tác phẩm Độc Đoán (獨斷), quyển Hạ của Thái Ung (蔡邕, 132-192) nhà Đông Hán có ghi rằng: “Lạp giả, tuế chung đại tế (臘者、歲終大祭, Lạp nghĩa là cúng tế lớn cuối năm).” Hay như tác phẩm Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Đài Khanh (杜臺卿, ?-?) nhà Tùy cũng ghi là: “Lạp, nhất tuế chi đại tế (臘、一歲之大祭, Lạp là lễ tế lớn trong một năm).” Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) do Tông Lẫm (宗懍, khoảng 501-565) nhà Lương thời Nam Triều cũng cho rằng: “Khổng Tử sở dĩ dự bồi tân, nhất tuế chi xuất, thạnh ư thử tiết (孔子所以預以陪賓、一歲之出、盛於此節, sở dĩ Khổng Tử chuẩn bị mọi thứ để tiếp khách, nội trong một năm, thịnh hành vào tiết này).” Về thời gian tiến hành cúng tế Lạp, từ thời nhà Chu trở đi, trãi qua các thời đại đều quy định tháng 12, nhưng ngày nào thì trước thời nhà Tần vẫn chưa có ký lục cụ thể. Sau thời nhà Hán, chư vị hoàng đế của các triều đại, nương vào lý luận Ngũ Hành tương sanh, có định ra một ngày Tuất nào đó trong tháng 12, nhưng cũng chẳng thống nhất. Đến thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), vua Lương Võ Đế (梁武帝, tại vị 502-549) định Tiết Lạp Nhật (臘日節) là ngày mồng 8 tháng Chạp. Vì ông là người sùng tín Phật Giáo, ngày mồng 8 tháng Chạp cũng đúng vào dịp Phật thành đạo, nên ông kết hợp đồng thời cúng tế tổ tiên, thần linh và đức Phật. Trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Hạ có câu: “Lạp Nguyệt tận thị tuế trừ dạ, minh triêu hựu thị chánh nguyệt nhất, niên khứ niên lai vô tận kỳ (臘月盡是歲除夜、明朝又是正月一、年去年來無盡期, tháng Chạp hết là đêm cuối năm, sáng mai lại là mồng một Tết, xuân đến xuân đi vô cùng tận).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 33 có bài Tụng Cổ của Thiền Sư Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文, 1025-1102): “Lạp Nguyệt nhị thập ngũ, kỵ lư bất đả cổ, xuân phong bách thảo sanh, trũng thượng thiêm tân thổ (臘月二十五、騎驢不打鼓、春風百草生、塚上添新土, ngày hai lăm tháng Chạp, cỡi lừa không đánh trống, gió xuân trăm cỏ sinh, trên gò thêm đất mới).”
(戊): tên gọi 1 trong 10 can, ở vị trí thứ 5; trong Ngũ Hành nó là Thổ; về phương hướng nó ở vị trí trung ương; về thời khắc thì trước giờ ngọ 4 tiếng, hay trước sau giờ ngọ hai tiếng.
(戊己): tên gọi 2 can trong 10 can (Giáp [甲], Ất [乙], Bính [丙], Đinh [丁], Mậu [戊], Kỷ [己], Canh [庚], Tân [辛], Nhâm [壬], Quý [癸]). Mậu (戊) ở vị trí thứ 5, Kỷ (己) ở vị trí thứ 6; trong Ngũ Hành hai can này thuộc về Thổ; về phương hướng chúng ở vị trí trung ương; về thời khắc thì trước giờ ngọ 4 tiếng, hay trước sau giờ ngọ hai tiếng. Cho nên, Mậu Kỷ là tên gọi khác của Thổ. Như trong bài Tư Vô Tà Trai Tán (思無邪齋贊) của Tô Thức (蘇軾, 1036-1101) nhà Tống có câu: “Bồi dĩ Mậu Kỷ, canh dĩ Xích Xà (培以戊己、耕以赤蛇, bồi thêm đất tốt, canh nơi rắn đỏ).” Theo tín ngưỡng của Đạo Mẫu, Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊己土德黃虎神官) còn là tên gọi của một trong 5 vị quan Ngũ Hổ. Trong Tế Công Thiền Sư Độ Thế Diệu Pháp Kinh (濟公禪師度世妙法經) của Đạo Giáo có câu: “Đông phương Giáp Ất Mộc, nhân chi dức dã; Nam phương Bính Đinh Hỏa, lễ chi đức dã; trung ương Mậu Kỷ Thổ, tín chi đức dã; Tây phương Canh Tân Kim, nghĩa chi đức dã; Bắc phương Nhâm Quý Thủy, trí chi đức dã (東方甲乙木、仁之德也、南方丙丁火、禮之德也、中央戊己土、信之德也、西方庚辛金、義之德也、北方壬癸水、智之德也, phương Đông là Giáp Ất thuộc về Mộc, là đức của lòng nhân; phương Nam là Bính Đinh thuộc về Hỏa, là đức của lễ; ở trung ương là Mậu Kỷ thuộc về Thổ, là đức của niềm tin; phương Tây là Canh Tân thuộc về Kim, là đức của nghĩa; phương Bắc là Nhâm Quý thuộc về Thủy, là đức của trí).”
(五斗星君): là 5 vị thần thánh được Đạo Giáo kính thờ, chuyên quản lý việc sống chết, phước họa, giàu sang của con người, được phân làm Bắc Đẩu Tinh Quân (北斗星君), Nam Đẩu Tinh Quân (南斗星君), Đông Đẩu Tinh Quân (東斗星君), Tây Đẩu Tinh Quân (西斗星君) và Trung Đẩu Tinh Quân (中斗星君). Mỗi vị tinh quân quản hạt mỗi cung khác nhau.
(1) Bắc Đẩu Tinh Quân có 7 cung, được gọi là Thất Tinh (七星), hay Thất Nguyên (七元), chủ yếu chưởng quản về việc giải ách, kéo dài mạng sống. Bảy cung gồm: Thiên Quỹ Tinh (天櫃星), Dương Minh Tham Lang Tinh Quân (陽明貪狼星君); Thiên Tuyền Tinh (天璇星), Âm Tinh Cự Môn Tinh Quân (陰精巨門星君); Thiên Ki Tinh (天璣星), Chơn Nhân Lộc Tồn Tinh Quân (眞人祿存星君); Thiên Quyền Tinh (天權星), Huyền Minh Văn Khúc Tinh Quân (玄明文曲星君); Thiên Hành Tinh (天衡星), Đơn Nguyên Liêm Trinh Tinh Quân (丹元廉貞星君); Khai Dương Tinh (開陽星), Bắc Cực Võ Khúc Tinh Quân (北極武曲星君); Diêu Quang Tinh (搖光星), Thiên Xung Phá Quân Tinh Quân (天沖破軍星君). Trên thực tế, chùm sao Bắc Đẩu có 9 ngôi sao, nên còn thêm Động Minh Tinh (洞明星), Ngoại Phụ Tinh Quân (外輔星君); và Ẩn Nguyên Tinh (隱元星), Nội Bậc Tinh Quân (內弼星君).
(2) Nam Đẩu Tinh Quân thì chưởng quản về kéo dài tuổi thọ, độ người, chia thành 6 cung, gồm: Thiên Phủ Tinh (天府星), Ty Mạng Tinh Quân (司命星君); Thiên Tướng Tinh (天相星), Ty Lộc Tinh Quân (司祿星君); Thiên Lương Tinh (天梁星), Diên Thọ Tinh Quân (延壽星君); Thiên Đồng Tinh (天同星), Ích Toán Tinh Quân (益算星君); Thiên Quỹ Tinh (天櫃星), Độ Ách Tinh Quân (度厄星君); và Thiên Cơ Tinh (天機星), Thượng Sanh Tinh Quân (上生星君).
(3) Đông Đẩu Tinh Quân có 5 cung, chưởng quản việc tính toán mạng sống, gồm: Thương Linh Diên Sanh Tinh Quân (蒼靈延生星君), Lăng Diên Hộ Mạng Tinh Quân (陵延護命星君), Khai Thiên Tập Phước Tinh Quân (開天集福星君), Đại Minh Hòa Dương Tinh Quân (大明和陽星君), và Vĩ Cực Tổng Giám Tinh Quân (尾極總監星君).
(4) Tây Đẩu Tinh Quân có 4 cung chưởng quản về mạng sống, hộ thân, gồm: Bạch Tiêu Tinh Quân (白標星君), Cao Nguyên Tinh Quân (高元星君), Hoàng Linh Tinh Quân (皇靈星君), Cự Uy Tinh Quân (巨威星君).
(5) Trung Đẩu Tinh Quân, còn gọi là Đại Khôi (大魁), chủ yếu quản lý việc bảo vệ mạng sống, gồm 3 cung: Hách Linh Độ Thế Tinh Quân (赫靈度世星君), Cán Hóa Thượng Thánh Tinh Quân (幹化上聖星君), Xung Hòa Chí Đức Tinh Quân (沖和至德星君).
Trong 5 chùm sao nói trên, hai chùm sao Bắc Đẩu và Nam Đẩu được người đời kính phụng nhiều nhất. Người sanh năm Giáp và Ất thì thuộc về Đông Đẩu; năm Bính, Đinh thuộc về Nam Đẩu; năm Mậu, Kỷ thuộc về Trung Đẩu; năm Canh, Tân thuộc về Tây Đẩu; năm Nhâm, Quý thuộc về Bắc Đẩu. Như trong Thái Thượng Lão Quân Thuyết Ngũ Đẩu Kim Chương Thọ Sanh Kinh (太上老君說五斗金章受生經) của Đạo Giáo có giải thích rõ rằng: “Giáp Ất sanh nhân Đông Đẩu chú sanh, Bính Đinh sanh nhân Nam Đẩu chú sanh, Mậu Kỷ sanh nhân Trung Đẩu chú sanh, Canh Tân sanh nhân Tây Đẩu chú sanh, Nhâm Quý sanh nhân Bắc Đẩu chú sanh; chú sanh chi thời các bẩm Ngũ Hành chân khí, chân khí hỗn hợp, kết tú thành thai; thọ thai thập nguyệt, châu hồi thập phương, thập phương sanh khí, …, thọ sanh chi thời, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, chú sanh chú lộc, chú phú chú bần, chú trường chú đoản, chú cát chú hung, giai do chúng sanh, tự tác tự thọ (甲乙生人東斗注生、丙丁生人南斗注生、戊己生人中斗注生、庚辛生人西斗注生、壬癸生人北斗注生、注生之時、各稟五行眞氣、眞氣混合、結秀成胎、受胎十月、周回十方、十方生氣…受生之時、五斗星君、九天聖眾、注生注祿、注富注貧、注長注短、注吉注凶、皆由眾生、自作自受, người sanh năm Giáp Ất thì Đông Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Bính Đinh thì Nam Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Mậu Kỷ thì Trung Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Canh Tân thì Tây Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Nhâm Quý thì Bắc Đẩu ban cho mạng sống; khi ban cho mạng sống, mỗi người đều nhờ chân khí Ngũ Hành, chân khí hỗn hợp, kết tụ thành thai; thọ thai mười tháng, vòng quanh mười phương, mười phương sinh khí, …, khi thọ thai ấy, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, ban cho sự sống, phước lộc; ban cho giàu có, nghèo cùng; ban cho ngắn dài; ban cho tốt xấu, đều do chúng sanh, tự làm tự chịu).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập