Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lương Thiền »»
(正親町天皇, Ōgimachi Tennō, tại vị 1557-1586): vị Thiên Hoàng sống dưới thời đại Chiến Quốc, hoàng tử thứ 2 của Hậu Nại Lương Thiên Hoàng (後奈良天皇, Gonara Tennō), tên là Phương Nhân (方仁, Michihito). Ông tức vị vào năm 1560 (niên hiệu Vĩnh Lộc [永祿] thứ 3). Trong thời gian tại vị, ông cùng với các tướng quân Tín Trưởng (信長, Nobunaga) và Tú Cát (秀吉, Hideyoshi) thống nhất quốc nội.
(嘉平): nguyên nghĩa là tên gọi của lễ hội vào tháng 12 Âm Lịch, từ đó nó có nghĩa là tháng 12 Âm Lịch. Sự việc này liên qua đến một câu chuyện thần tiên. Tương truyền vào cuối thời nhà Chu (周, 1134-250 ttl) có một người tên Mao Mông (茅濛), tự Sơ Thành (初成); xuất thân Nam Quan (南關), Hàm Dương (咸陽), Thiểm Tây (陝西), là Cao Tổ của Đông Khanh Mao Quân Doanh (東卿茅君盈). Mao Mông tánh tình rất từ bi, lương thiện, ngày thường hay tích đức, làm việc phước thiện, cần kiệm, thanh bần, học rộng nghe nhiều. Biết được vô thường của cuộc đời và kiếp người, ông bái Quỷ Cốc Tử (鬼谷子) làm thầy, học về thuật trường sanh bất tử và tiên đơn bí dược. Sau khi nhà Chu diệt vong, ông vào trong Hoa Sơn (華山), xa lìa trần thế, tĩnh tâm tu đạo luyện đơn; về sau ông cỡi rồng lướt mây bay lên trời thành tiên. Trong đô thành nơi ông thành tiên vẫn còn lưu truyền bài ca dao rằng: “Thần tiên đắc giả Mao Sơ Thành, giá long thượng thăng nhập đại thanh, thời hạ Huyền Châu hí Xích Thành, kế thế nhi vãng tại ngã doanh, đế nhược học chi lạp Gia Bình (神仙得者茅初成、駕龍上升入太清、時下玄洲戲赤城、繼世而徃在我盈、帝若學之臘嘉平, thần tiên đắc đạo Mao Sơ Thành, cỡi rồng bay lên tận trời xanh, bấy giờ Huyền Châu vui Xích Thành, kế nghiệp rồi đến tại chốn ta, vua nên biết tháng Chạp Gia Bình).” Sau này, Tần Thỉ Hoàng (秦始皇, tại vị 246-210 ttl) thích tu tiên cầu đạo, bèn đổi tên gọi tháng Chạp (臘月, lạp nguyệt) thành Gia Bình và lưu truyền cho đến hiện tại. Như trong Sử Ký (史記) quyển 6, phần Tần Thỉ Hoàng Bổn Kỷ (秦始皇本紀) có giải thích rằng: “Tam thập nhất niên thập nhị nguyệt, cánh danh Lạp viết Gia Bình (三十一年十二月、更名臘曰嘉平, vào tháng 12 năm thứ 31 [216 ttl], lại đổi tháng Chạp thành Gia Bình).” Trong Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp (修藥師儀軌布壇法, Taishō No. 928) có câu: “Đại Thanh Đạo Quang tuế thứ Giáp Thân Gia Bình nguyệt cát nhật Tịnh Trú Tự (大清道光歲次甲申嘉平月吉日淨住寺, Tịnh Trú Tự, ngày tốt tháng 12 năm Giáp Thân [1824] niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh).”
(行明, Gyōmyō, ?-1073): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, vị Kiểm Hiệu đời thứ 9 của Cao Dã Sơn, húy là Hành Minh (行明), thông xưng là Đại Bắc Thất Đại Sư (大北室大師). Ông lên tu ở Bắc Thất Viện (北室院) trên Cao Dã Sơn, đến năm 1044 thì làm chức Sơn Lung (山籠), nhập thất tu hành, bắt đầu công phu tu tập một ngày 3 thời tại Ngự ảnh Đường (御影堂), nơi thờ phụng Không Hải Đại Sư. Cùng năm đó, ông làm chức Kiểm Hiệu. Đến năm 1069, ông thọ pháp của Dòng Quảng Trạch (廣澤流) với Tánh Tín (性信) ở Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji). Đệ tử phú pháp của ông có Lương Thiền (良禪).
(s: nirmāṇa-kāya, j: keshin, 化身): nghĩa là thân biến hóa, là một trong 3 thân (Pháp Thân, Ứng Thân Và Hóa Thân) và 4 thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) của Phật. Nó còn được gọi là Ứng Phật, Ứng Thân Phật, Ứng Hóa Thân. Để cứu độ và giáo hóa chúng sanh, chư Phật và Bồ Tát đã hóa hiện ra 33 loại thân cũng như trăm ngàn ức loại thân khác nhau; cho nên có tên gọi “Thiên Bách Ức Hóa Thân (千百億化身).” Như trong Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh (六祖法寶壇經), Phẩm Sám Hối (懺悔品) thứ 6, có đoạn: “Hà danh Thiên Bách Ức Hóa Thân ? Nhược bất tư vạn pháp, tánh bổn như không, nhất niệm tư lường, danh vi biến hóa; tư lường ác sự, hóa vi Địa Ngục, tư lường thiện sự, hóa vi Thiên Đường, độc hại, hóa vi long xà, từ bi, hóa vi Bồ Tát, trí tuệ, hóa vi thượng giới, ngu si, hóa vi hạ phương, tự tánh biến hóa thậm đa, mê nhân bất năng tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành ác đạo, hồi nhất niệm thiện, trí tuệ tức sanh, thử danh Tự Tánh Hóa Thân Phật (何名千百億化身、若不思萬法、性本如空、一念思量、名爲變化、思量惡事、化爲地獄、思量善事、化爲天堂、毒害、化爲龍蛇、慈悲、化爲菩薩、智慧、化爲上界、愚癡、化爲下方、自性變化甚多、迷人不能省覺、念念起惡、常行惡道、迴一念善、智慧卽生、此名自性化身佛, thế nào là Trăm Ngàn Ức Hóa Thân ? Nếu không tư duy vạn pháp, tánh vốn là không, một niệm tư lường, gọi là biến hóa; suy nghĩ việc ác, hóa thành Địa Ngục; suy nghĩ việc thiện, hóa thành Thiên Đường; độc hại thì hóa làm rồng rắn; từ bi thì hóa làm Bồ Tát; trí tuệ thì hóa thành cõi trên, ngu si thì hóa thành cõi dưới; tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh thức, mỗi niệm khởi ác, thường hành đường ác, trở về niệm lành, trí tuệ liền sanh; đây gọi là Tự Tánh Hóa Thân Phật).”
(明寂, Myōjaku, ?-?): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, húy là Minh Tịch (明寂), thông xưng là Ẩn Kì Thượng Nhân (隱岐上人), tự là Giác Tuấn (覺俊) hay Giác Thuấn (覺舜); con của vị trưởng quan Kami vùng Ẩn Kì (隱岐, Oki) là Đại Giang An Thành (大江安成). Ông theo Minh Toán (明算) ở Trung Viện trên Cao Dã Sơn học về Mật Giáo, rồi theo hầu Lương Thiền (良禪) ở Cao Thất Viện (高室院). Sau đó, ông thọ pháp với Lương Nhã (良雅) và Thắng Nhân (勝因) của Dòng Tiểu Dã (小野流), rồi khai sáng Nhất Tâm Viện (一心院) cũng như Tối Thiền Viện (最禪院) trên Cao Dã Sơn. Trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Trị (寬治, 1087-1094), khi Bạch Hà Pháp Hoàng (白河法皇) lên tham bái Cao Dã Sơn, tương truyền ông được tặng cho bản truyền thừa của dòng họ Thiên Hoàng là Du Kỳ Bí Văn (瑜祇秘文). Vào năm 1114, ông truyền trao Cầu Văn Trì Pháp (求聞持法) cho Giác Noan (覺鑁).
(明算, Meizan, 1021-1106): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Kiểm Hiệu đời thứ 12 của Cao Dã Sơn, vị Tổ của Dòng Trung Viện (中院流), húy là Minh Toán (明算), thông xưng là Cao Dã Trung Viện A Xà Lê (高野中院阿闍梨), Trung Viện Ngự Phòng (中院御房); xuất thân vùng Thần Khi (神崎), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣]), họ Tá Đằng (佐藤). Năm 1031, ông được Định Dự (定譽) dẫn lên Cao Dã Sơn xuất gia, tu học ở Đông Thất, đến năm 1040 thì chuyển sang Trung Viện, và đến năm 1049 thì thọ phép Quán Đảnh với Lại Tầm (賴尋) ở Thích Vương Tự (釋王寺). Sau ông theo học pháp với Thành Tôn (成尊) ở Mạn Trà La Tự (曼荼羅寺, Mandara-ji), vùng Tiểu Dã (小野, Ono), rồi đến năm 1072 thì được truyền trao phép Quán Đảnh, và góp sức làm rạng rỡ Dòng Tiểu Dã (小野流). Năm sau, ông trở về núi và sáng lập Dòng Trung Viện. Năm 1075, ông khai sáng Long Tạng Viện (龍藏院) ở vùng Kỷ Y; đến năm 1090 thì được bổ nhiệm làm Kiểm Hiệu của Cao Dã Sơn; từ đó ông tận lực phục hưng Sơn Môn, xây dựng các ngôi đường tháp và độ chúng. Đệ tử phú pháp của ông có Lương Thiền (良禪), Giáo Chơn (敎眞), Minh Phạm (明範), Chơn Dự (眞譽), Minh Tịch (明寂), v.v.
(s: trīni-karmāṇi, 三業): ba nghiệp gồm thân, miệng và ý.
(1) Thân nghiệp (s: kāya-karman, p: kāya-kamma, 身業) là việc làm do thân làm ra, có thiện và ác. Như sát sanh, trộm cắp, tà dâm là nghiệp xấu của thân. Còn nếu không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, v.v., là nghiệp tốt của thân.
(2) Khẩu nghiệp (s: vāk-karman, p: vacī-kamma, 口業) là việc làm do miệng làm ra, có thiện có ác khác nhau. Tỷ dụ như nói dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt là nghiệp xấu của miệng. Và nếu không nói dối, không nói lời ly gián, không nói lời thô ác, không nói lời thêu dệt là nghiệp tốt của miệng.
(3) Ý nghiệp (s: manas-karman, p: mano-kamma, 意業) là việc làm do ý tạo ra, cũng có thiện và ác. Như tham dục, sân hận, tà kiến là nghiệp không tốt của ý. Và không tham lam, không sân hận, không tà kiến là nghiệp tốt của ý.
Ngoài ra, Tam Nghiệp còn có nghĩa là:
(1) Thiện Nghiệp (善業, hành vi tạo tác mang tính tốt, lương thiện),
(2) Ác Nghiệp (惡業, hành vi tạo tác mang tính xấu, thấp kém) và
(3) Vô Ký Nghiệp (無記業, hành vi tạo tác không thể phân biệt, chẳng thuộc về thiện và ác).
Hay Tam Nghiệp là:
(1) Lậu Nghiệp (漏業, tác nghiệp có phiền não, có thể chiêu cảm quả báo Phần Đoạn Sanh Tử, thuộc về hành vi tạo tác của phàm phu),
(2) Vô Lậu Nghiệp (無漏業, tác nghiệp không có phiền não, có thể chiêu cảm quả báo Phương Tiện Hữu Dư Độ, thuộc về tác nghiệp của hàng Nhị Thừa Thanh Văn và Duyên Giác) và
(3) Phi Lậu Phi Vô Lậu Nghiệp (非漏非無漏業, tác nghiệp không thuộc về hữu lậu và vô lậu, có thể chiêu cảm quả báo Thật Báo Độ, là tác nghiệp của Bồ Tát).
Như trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, CBETA No. 1085) có giải thích rằng: “Giới chi nhất tự thị danh, Phạn vân Thi La, diệc vân Tỳ Ni Ba La Đề Mộc Xoa đẳng, thử vân thanh lương, diệt Tam Nghiệp chi quá khiên, đắc giải thoát dã (戒之一字是名、梵云尸羅、亦云毗尼波羅提木叉等、此云清涼、滅三業之過愆、得解脫也, một chữ Giới là tên gọi, tiếng Phạn là Thi La, còn gọi là Tỳ Ni Ba La Đề Mộc Xoa, v.v.; Tàu gọi là trong mát, diệt các tội lỗi của Ba Nghiệp, được giải thoát).” Hay trong (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) có câu: “Kim trì giới chi yếu, tiên tu Tam Nghiệp thanh tịnh, tắc tâm tự tịnh (今持戒之要、先須三業清淨、則心自淨, nay điều côt yếu của việc giữ giới là trước hết phải Ba Nghiệp trong sạch, tức tâm tự trong sạch).”
(天堂): hay Thiên Quốc (天國), chỉ cho trú xứ hay quốc độ trên trời, là cung điện của thiên chúng, đối lập với Địa Ngục. Theo đa số các tôn giáo cũng như triết học tâm linh đều công nhận đây là nơi tồn tại hình thức sinh mạng con người sau khi chết. Theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Thiên Đường, Thiên Quốc, Thiên Giới (天界), Thần Giới (神界), v.v., đều cùng ngữ nghĩa với nhau, chỉ cho cảnh giới thần tiên do Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) thống quản. Nhân gian tin rằng con người sau khi chết sẽ lên Trời, tổ tiên của mỗi cá nhân đều ở trên đó nhìn mình, và linh hồn tổ tiên luôn hộ trì, che chở cho con cháu mình dưới trần thế. Do đó, người Trung Quốc có truyền thống kính Trời và thờ cúng tổ tiên. Thần và người đều giữ đạo riêng của mình. Thần tiên có khả năng hạ phàm xuống cõi người. Theo Đạo Giáo, người nào đắc đạo, đều có thể thành thần tiên. Thái Bình Kinh (太平經), kinh thư trọng yếu của tôn giáo này, giải thích rằng: “Thượng thiện chi nhân, tử hậu Âm Tào Phán Quan trước thiện tịch chi văn, danh chi vi thiện nhân chi tịch, hành ngưỡng thiện, dữ thiên địa Tứ Thời Ngũ Hành hợp tín, chư thần tương ái … cọng tấn ư thiên thần (上善之人、死後陰曹判官著善籍之文、名之爲善人之籍、行仰善、與天地四時五行合信、諸神相愛…共進於天神, người mà lương thiện, sau khi chết Âm Tào Phán Quan viết văn sổ lương thiện, đó gọi là sổ người lương thiện; làm và kính trọng việc thiện, cùng hợp niềm tin với Bốn Thời, Ngũ Hành của trời đất, các thần đều thương … cùng phong làm thiên thần).” Thanh Thành (青城), nơi phát xuất Đạo Giáo Trung Quốc, được xem như là đô thành Thiên Quốc trên cõi thế. Cho nên tác phẩm Quảng Hoàng Đế Bản Hạnh Ký (廣黃帝本行記) có ghi rằng: “Thanh Thành, Thiên Quốc chi đô (青城、天國之都, Thanh Thành là kinh đô của Thiên Quốc).” Theo tín ngưỡng dân gian, Ngọc Hoàng Đại Đế là vua của các Thần; nhưng trong Đạo Giáo thì chức năng của Ngài là thừa mạng của Tam Thanh (三清), tức Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊), Đạo Đức Thiên Tôn (道德天尊, Thái Thượng Lão Quân [太上老君]) và Linh Bảo Thiên Tôn (靈寶天尊, Thượng Thanh Đại Đế [上清大帝]). Căn cứ vào tác phẩm Vân Cấp Thất Tiêm (雲笈七籤), phần Thiên Địa Bộ (天地部) cho biết rằng Trời có 36 tầng. Trong bài kệ thỉnh chuông chiều có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ (洪鐘初扣、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府, chuông chùa mới đánh, kệ báu ngâm vang, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ).” Cho nên, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) quyển Thượng có giải thích rằng: “Kim minh chung thời, trượng Tam Bảo uy lực, nhi linh thử thanh, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ, giai đắc văn dã (今鳴鐘時、仗三寶威力、而令此聲、上徹天堂、下通地府、皆得聞也, nay khi đánh chuông, nương nhờ oai lực Tam Bảo, mà có âm thanh này, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ, thảy đều được nghe).” Trong Đạt Ma Đại Sư Huyết Mạch Luận (達磨大師血脈論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1218) có cho biết rằng: “Thiện ác lịch nhiên, nhân quả phân minh, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại nhãn tiền (善惡歷然、因果分明、天堂地獄只在眼前, thiện ác sáng tỏ, nhân quả rõ ràng, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại trước mắt).”
(知恩院, Chion-in): ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyoto (京都市), gọi cho đủ là Hoa Đảnh Sơn Tri Ân Giáo Viện Đại Cốc Tự (華頂山知恩敎院大谷寺). Pháp Nhiên Thượng Nhân (法然上人, Hōnen Shōnin) được xem như là người khai sơn ngôi viện này, và vị pháp đệ của ông Thế Quán Phòng Nguyên Trí (勢觀房源智) là người sáng kiến. Vào năm 1175, qua bộ Quán Kinh Sớ (觀經疏) của Thiện Đạo Đại Sư (善導大師), Pháp Nhiên Thượng Nhân ngộ được rằng việc xưng danh hiệu Di Đà là con đường thích hợp với bản nguyện của Như Lai, nên ông khai sáng ra Tịnh Độ Tông. Sau đó, ông dựng một ngôi thảo am ở vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimizu), cho dù có bị áp bức thế nào đi nữa ông vẫn truyền bá pháp môn Niệm Phật, và đến năm 1211, lúc 80 tuổi, ông thị tịch ở Thiền phòng (nay là thuộc nơi gần bên Thế Chí Đường) nơi vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani) thuộc Đông Sơn (東山, Higashiyama). Chúng môn đệ của ông mới an táng di cốt của ông nơi một góc phòng ở, rồi lập nên Miếu Đường để thờ phụng. Sau đó, phòng xá này bị chúng đồ của Sơn Môn phá hại, nên hài cốt của Thượng Nhân được dời về vùng Tha Nga (嵯峨, Saga), rồi làm lễ Trà Tỳ ở vùng Lật Sanh Dã (栗生野, nay ở cạnh bên Quang Minh Tự [光明寺]), và đem an táng ở vùng Tiểu Thương Sơn (小倉山). Về sau, vào năm 1234, Thế Quán Phòng Nguyên Trí lo sợ di tích ở vùng Đại Cốc bị phế diệt, nên mới thỉnh cầu Tứ Điền Thiên Hoàng (四條天皇, Shijō Tennō), và xây dựng lại Điện Phật, Ảnh Đường, Tổng Môn, v.v, lấy tên là Đại Cốc Tự (大谷寺). Nguồn gốc của chùa này là như vậy. Sau đó các đường vũ dần dần được xây dựng thêm, chùa trở rất hưng thạnh với tư cách là bản cứ của Tịnh Độ Tông, song đến năm 1434 chùa lại bị cháy rụi tan tành do hỏa tai. Đến thời vị Tổ đời thứ 20 của chùa là Không Thiền (空禪, Kūzen), ông mới thỉnh cầu sự ủng hộ của Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Giáo (足利義敎, Ashikaga Yoshinori), rồi mãi mấy năm sau thì mới tái kiến được các ngôi đường vũ và làm cho cảnh quan cũ trở lại như xưa. Vào năm 1467, nhân vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa lại bị thiêu cháy rụi, vị Tổ kế thế đời thứ 22 của chùa là Châu Dữ (周與) thì chạy trốn lên vùng Cận Giang (近江, Ōmi), và xây dựng lên một ngôi chùa khác. Đây chính là ngôi Tân Tri Ân Viện (新知恩院) ngày nay. Rồi đến 11 năm sau, tức vào năm 1478, ông thỉnh cầu Túc Lợi Nghĩa Chính (足利義政), xây dựng lại A Di Đà Đường và Ngự Ảnh Đường ở vùng đất cũ. Nhưng sau đó thì chùa cũng mấy lần bị hỏa hoạn cháy tan tành, mãi đến năm 1524 chùa mới được Hậu Bá Nguyên Thiên Hoàng (後柏原天皇, Gokashiwabara Tennō) cho phép gọi tên là Tổng Bản Sơn của Tịnh Độ Tông. Rồi Hậu Nại Lương Thiên Hoàng (後奈良天皇, Gonara Tennō) còn gởi sắc phong ban tên chùa là Tri Ân Giáo Viện Đại Cốc Tự (知恩敎院大谷寺). Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) thì quy y với vị đệ tử kế thế đời thứ 29 của chùa là Tôn Chiếu (尊照, Sonshō), cho nên Đại Ngự Ảnh Đường rồi các ngôi đường vũ khác đươc xây dựng lên, đăc biệt Cung Môn Tích (宮門跡) là nơi xuống tóc xuất gia của vị Hoàng Tử thứ 8 của Dương Thánh Thiên Hoàng (陽成天皇, Yōzei Tennō) là Lương Vụ Thân Vương (良輔親王). Tuy nhiên, ngôi già lam do Gia Khang tạo dựng cũng biến thành tro bụi vào năm 1633, rồi sau đó thì vị Tướng Quân đời thứ 3 của dòng họ Đức Xuyên là Gia Quang (家光, Iemitsu) mới phục hưng lại cảnh quang như xưa. Sau thời Gia Quang, đời đời con cháu dòng họ Đức Xuyên cũng luôn thâm tín quy ngưỡng với chùa này, và đã cúng dường ngoại hộ rất nhiều vô số kể. Đến thời Minh Trị, chùa được công nhiên gọi tên là chùa Môn Tích. Thêm vào đó, vào năm 1887, chức Quản Trưởng của Tịnh Độ Tông cũng được chế định ra để thống suất toàn giáo đồ Sơn Môn. Hiện tại, chánh điện chùa (tức Ngự Ảnh Đường), kiến trúc được Đức Xuyên Gia Quang tái kiến vào năm 1633, là kiến trúc đồ sộ được xếp nhất nhì ở vùng Kyoto. Ngoài ra Tam Môn, Đường Môn, Kinh Tàng, Thế Chí Đường, Đại Phương Trượng, Tiểu Phương Trượng, v.v, là những quần thể được kiến trúc được xếp vào di sản văn hóa quốc gia. Hiện chùa vẫn còn lưu lại nhiều bảo vật quý giá như 48 quyển tranh vẽ về Pháp Nhiên Thượng Nhân, tranh vẽ 25 vị Bồ Tát Lai Nghênh, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập