Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lưỡng Nghi »»
(寶樹): cây báu. Từ này thường thấy xuất hiện trong kinh điển Phật Giáo. Người ta dùng bày loại trân báu để tạo thành hình dáng cây; tỷ dụ như vàng vòng (黃金) làm gốc cây, Bạch Ngân (白銀) làm thân cây, Lưu Ly (琉璃) làm cành cây, Thủy Tinh (水晶) làm ngọn cây, Hổ Phách (琥珀) làm lá cây, Mỹ Ngọc (美玉) làm hoa và Mã Não (瑪瑙) làm trái cây. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō No. 360) có đoạn rằng: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ Tát, tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung, giai tất chiếu kiến, do như minh kính, đỗ kỳ diện tượng (設我得佛、國中菩薩、隨意欲見十方無量嚴淨佛土、應時如願、於寶樹中、皆悉照見、猶如明鏡、睹其面像, nếu như ta thành Phật, các Bồ Tát trong nước, tùy ý muốn thấy mười phương vô lượng Phật độ nghiêm tịnh, tùy thời được như nguyện; trong hàng cây báu, tất đều chiếu thấy, giống như gương sáng, thấy rõ hình mặt).” Hay như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō No. 365) cũng có đoạn: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: 'Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thọ; quán bảo thọ giả, nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thọ tưởng, nhất nhất thọ cao bát thiên do tuần, kỳ chư bảo thọ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ tục (佛告阿難及韋提希:地想成已、次觀寶樹、觀寶樹者、一一觀之、作七重行樹想、一一樹高八千由旬、其諸寶樹、七寶華葉、無不具足, Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy rằng: 'Quán tưởng về đất xong rồi, kế đến quán cây báu; quán cây báu thì quán từng cây một, tưởng tượng bảy hàng lớp cây, mỗi một cây cao tám ngàn do tuần; các cây báu ấy, hoa và lá bằng bảy thứ báu, không cây nào không đầy đủ').” Ngoài ra, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).” Câu “thường du bảo thọ chi giai (常遊寳樹之堦)” có nghĩa là thường rong chơi nơi thềm ngọc có hàng cây báu, tức chỉ cho thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật Di Đà.
(八卦): là khái niệm triết học cơ bản của Trung Quốc cổ đại. Nguyên lai có hai khái niệm khác nhau:
(1) Khái niệm gọi là “Vô Cực sanh Hữu Cực, Hữu Cực thị Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng diễn Bát Quái, bát bát lục thập tứ quái (無極生有極、有極是太極、太極生兩儀、兩儀生四象、四象演八卦、八八六十四卦, Vô Cực sanh ra Hữu Cực, Hữu Cực là Thái Cực, Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi [tức âm và dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [tức Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm], Tứ Tượng diễn thành Bát Quái, tám tám sáu mươi bốn quẻ).” Đây được gọi là Phục Hy Bát Quái (伏羲八卦) hay còn gọi là Tiên Thiên Bát Quái (先天八卦).
(2) Là học thuyết càn khôn của Chu Văn Vương (周文王). Ông cho rằng trước có trời đất, trời đất giao nhau sinh ra vạn vật; Thiên là Càn (乾), Địa là Khôn (坤); còn lại 6 quẻ kia là các con của nhà vua. Quẻ Chấn (震) là con trai đầu, Khảm (坎) là con trai giữa, Cấn (艮) là con trai út, Tốn (巽) là con gái đầu, Ly (離) là con gái giữa, Đoài (兌) là con gái út. Đây được gọi là Văn Vương Bát Quái (文王八卦) hay Hậu Thiên Bát Quái (後天八卦). Thông thường phù hiệu Bát Quái được kết hợp với Thái Cực Đồ (太極圖), đại diện cho chân lý chung cực mang tính tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc—Đạo (道). Bát Quái được hình thành do ba vạch, thể hiện ý tượng theo thứ tự: tên quẻ, tự nhiên, tánh tình, gia đình, thân thể, phương vị. Càn (乾, ☰, Trời, khỏe mạnh, cha, đầu, Tây Bắc); Đoài (兌, ☱, đầm nước, vui mừng, thiếu nữ, Tây); Ly (離, ☲, lửa, tươi đẹp, gái giữa, miệng, Nam); Chấn (震, ☳, sấm sét, cử động, trưởng nam, chân, Đông); Tốn (巽, ☴, gió, đi vào, trưởng nữ, bắp đùi, Đông Nam); Khảm (坎, ☵, nước, vùi lấp, trai giữa, lỗ tai, Bắc); Cấn (艮, ☶, núi, dừng lại, thiếu nam, tay, Đông Bắc); Khôn (坤, ☷, đất, thuận hòa, mẹ, bụng, Tây Nam). Từ hình tượng phù hiệu của các quẻ như trên, Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống đã đặt ra bài ca cho các em nhỏ dễ nhớ: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phú oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn (乾三連、坤六斷、震仰盂、艮覆碗、離中虛、坎中滿、兌上缺、巽下斷, quẻ Càn ba vạch nối liền, quẻ Khôn ba vạch đứt thành sáu đoạn, quẻ Chấn có hai vạch trên đứt đoạn, quẻ Cấn có hai vạch dưới đứt đoạn, quẻ Ly có vạch giữa đứt đoạn, quẻ Khảm có vạch giữa liền nhau, quẻ Đoài có vạch trên đứt đoạn, quẻ Tốn có vạch dưới đứt đoạn).”
Tại Trung Quốc, đồ hình Bát Quái thường được treo trước cửa nhà để trấn trừ tà ma, quỷ mị, bên trong có cái kính, gọi là “Chiếu Yêu Kính (照妖鏡).” Nó có ảnh hưởng đến các phương diện bói toán, phong thủy, y học, võ thuật, âm nhạc, v.v. Tại Việt Nam, tư tưởng Bát Quái cũng có ảnh hưởng và phổ cập trong dân gian. Trong tác phẩm Chu Dịch Dịch Chú (周易譯注) của Chu Chấn Phủ (周振甫) nhận định rằng Bát Quái có mối quan hệ giống như 4 nguyên tố hình thành vạn vật của Ấn Độ cũng như Hy Lạp cổ đại là đất, nước, gió và lửa. Ông cho rằng Bát Quái có thể phân thành 4 loại: đất hòa với núi tương thông, nước hòa với sông hồ tương thông, gió hòa với trời tương thông, lửa hòa với sấm sét tương thông. Hơn nữa, Bát Quái cũng có mối quan hệ rất mật thiết với Ngũ Hành (五行) của truyền thống Trung Quốc: Càn là trời, thuộc về Kim; Đoài là sông hồ, thuộc về Kim; Ly là lửa, thuộc về Hỏa; Chấn là sấm sét, thuộc về Mộc; Tốn là gió, thuộc về Mộc; Khảm là nước, thuộc về Thủy; Cấn là núi, thuộc về Thổ; Khôn là đất, thuộc về Thổ. Về mối quan hệ với Cửu Cung (九宮), Cửu Cung là 9 phương vị được quy định trong Lạc Thư (洛書). Nhìn chung, người ta thường lấy hậu thiên bát quái đặt vào phương vị trong Lạc Thư, hình thành nên cái gọi là Cửu Cung Bát Quái (九宮八卦). Tại Đài Loan rất thịnh hành thuyết Bái Quái này, như dưới thời nhà Thanh có xuất hiện Bát Quái Hội (八卦會), lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và hiện tại vẫn còn địa danh Bát Quái Sơn (八卦山). Trong dân gian Việt Nam cũng rất thịnh hành một loại Bát Quái Đồ gọi là Bát Quái Đồ Trừ Tà, hay thường gọi là Bùa Bát Quái, người Tàu vẽ sẵn, bán ở các tiệm kiếng. Loại Bát Quái Đồ Trừ Tà này gồm các quẻ giống hệt Bát Quái Tiên Thiên, nhưng sắp thứ tự các quẻ theo chiều quay ngược lại. Trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 87 có đoạn liên quan đến Cửu Cung Bát Quái: “Tống Giang tùy tức điều khiển quân mã xuất thành, ly thành thập lí, địa danh Phương Sơn, địa thế bình thản, kháo sơn bàng thủy, bài hạ Cửu Cung Bái Quái trận thế, đẳng hầu gian, chỉ kiến Liêu binh phân cố tam đội nhi lai (宋江隨卽調遣軍馬出城、離城十裏、地名方山、地勢平坦、靠山傍水、排下九宮八卦陣勢、等候間、只見遼兵分做三隊而來, Tống Giang vâng lời liền điều khiển quân mã ra khỏi thành, rời thành được mười dặm, có vùng đất tên Phương Sơn, địa thế bằng phẳng, nương núi tựa sông, bèn bày trận thế Cửu Cung Bái Quái; chờ đợi một lúc, chỉ thấy quân Liêu chia thành ba đội tiến đến).”
(孤山智圓, Kosan Chien, 976-1022): vị tăng sống dưới thời nhà Tống, thuộc Phái Sơn Ngoại (山外派) của Thiên Thai Tông Trung Quốc, xuất thân Tiền Đường (錢塘, Hàng Châu), họ Từ (徐), tự Vô Ngoại (無外), hiệu Tiềm Thiên (潛天), Trung Dung Tử (中庸子). Năm lên 8 tuổi, ông xuất gia ở Long Hưng Tự (龍興寺), Tiền Đường. Ban đầu ông học về Nho Giáo, có khiếu về thi văn, sau nương theo Nguyên Thanh (源清) ở Phụng Tiên Tự (奉先寺) học về giáo quán Thiên Thai. Sau khi Nguyên Thanh qua đời, ông sống một mình chuyên tâm nghiên cứu kinh luận, cùng với các bạn đồng môn như Khánh Chiêu (慶昭), Ngộ Ân (晤恩) nỗ lực xiển dương giáo học của Phái Sơn Ngoại. Chính ông đã từng luận tranh với nhân vật đại biểu của Phái Sơn Gia (山家派) là Tứ Minh Tri Lễ (四明知禮). Về sau, ông lui về ẩn cư nơi Tây Hồ Cô Sơn (西湖孤山); số người theo học rất đông. Từ đó về sau, ông chuyên tâm trước tác, soạn ra bộ Nhàn Cư Biên (閒居編) 60 quyển (hiện tồn 51 quyển), Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa Biểu Chưng Ký (金光明經玄義表徴記) 1 quyển, v.v. Ông còn tinh thông các sách của Khổng Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Dương Hùng, Vương Thông, v.v., thường cho rằng lấy Nho để tu thân, lấy Thích để trị tâm và có ý muốn hòa hợp Tam Giáo. Vào tháng 2 năm đầu (1022) niên hiệu Càn Hưng (乾興), ông làm thơ tế văn rồi an nhiên mà thoát hóa, hưởng thọ 47 tuổi. Ông có viết khoảng 10 loại chú sớ như Văn Thù Bát Nhã Kinh Sớ (文殊般若經疏), Di Giáo Kinh Sớ (遺敎經疏), Bát Nhã Tâm Kinh Sớ (般若心經疏), Thoại Ứng Kinh Sớ (瑞應經疏), Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú (四十二章經注), Bất Tư Nghì Pháp Môn Kinh Sớ (不思議法門經疏), Vô Lượng Nghĩa Kinh Sớ (無量義經疏), Quán Phổ Hiền Hành Pháp Kinh Sớ (觀普賢行法經疏), A Di Đà Kinh Sớ (阿彌陀經疏), Thủ Lăng Nghiêm Kinh Sớ (首楞嚴經疏), v.v. Vì ông ẩn cư nơi Cô Sơn nên người đời thường gọi ông là Cô Sơn Trí Viên. Vào năm thứ 3 (1104) niên hiệu Sùng Đức (崇德) đời vua Huy Tông, ông được ban cho thụy là Pháp Huệ Đại Sư (法慧大師). Trừ các tác phẩm nêu trên, ông còn soạn các tập khác như Niết Bàn Kinh Sớ Tam Đức Chỉ Quy (涅槃經疏三德指歸) 20 quyển, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經畧疏垂裕記) 10 quyển, Thủ Lăng Nghiêm Kinh Sớ Cốc Hưởng Sao (首楞嚴經疏谷響鈔) 5 quyển, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Sách Ẩn Ký (金光明經文句索隱記) 1 quyển, Niết Bàn Huyền Nghĩa Phát Nguyên Cơ Yếu (涅槃玄義發源機要) 1 quyển, Thập Bất Nhị Môn Chánh Nghĩa (十不二門正義) 1 quyển, v.v., tất cả hơn 170 quyển.
(二儀): hay còn gọi là Lưỡng Nghi (兩儀), gồm trời và đất, hay âm và dương. Trong bài Thiên Địa Phú (天地賦) của Thành Công Tuy (成公綏) có câu: “Hà âm dương chi nan trắc, vĩ Nhị Nghi chi xa khoát (何陰陽之難測、偉二儀之奢闊, Sao âm dương thật khó xét, lớn đất trời quả bao la).” Trong bài thơ Thu Hồ Hành (秋胡行) của Tào Tháo (曹操, 155-220) cũng có đoạn rằng: “Minh minh nhật nguyệt quang, hà sở bất quang chiêu, minh minh nhật nguyệt quang, hà sở bất quang chiêu, Nhị Nghi hợp thánh hóa, quý giả độc nhân phủ (明明日月光、何所不光昭、明明日月光、何所不光昭、二儀合聖化、貴者獨人不, rực rỡ ánh trời trăng, nơi nào không chiếu sáng, rực rỡ ánh trời trăng, nơi nào không chiếu sáng, đất trời hợp hóa thánh, người quý một mình chăng ?).”
(法水): nước pháp, có hai nghĩa chính.
(1) Chỉ cho Phật pháp, vì Phật pháp có thể làm cho tiêu trừ phiền não, giống như nước có thể rửa sạch những cấu bẩn; nên có tên gọi như vậy. Như trong Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經, Taishō Vol. 9, No. 276), Phẩm Thuyết Pháp (說法品) thứ 2 có giải thích rằng: “Pháp thí như thủy, năng tẩy cấu uế; nhược tỉnh, nhược trì, nhược giang, nhược hà, khê, cừ, đại hải, giai tất năng tẩy chư hữu cấu uế; kỳ pháp thủy giả, diệc phục như thị, năng tẩy chúng sanh chư phiền não cấu (法譬如水、能洗垢穢、若井、若池、若江、若河、溪、渠、大海、皆悉能洗諸有垢穢、其法水者、亦復如是、能洗眾生諸煩惱垢, pháp ví như nước, có thể rửa sạch dơ bẩn; như giếng, như hồ, như sông nhỏ, như sông lớn, khe, kênh, biển lớn, đều có thể rửa sạch các dơ bẩn; nước pháp này cũng giống như vậy, có thể rửa sạch các dơ bẩn phiền não của chúng sanh).” Hay trong bài thơ Ngọc Thạch Kệ (玉石偈) của Tô Thức (蘇軾, 1036-1101) nhà Tống có đoạn: “Nguyện dĩ pháp thủy tẩm Ma Ni, đương quán thử thạch như ngõa lịch (願以法水浸摩尼、當觀此石如瓦礫, nguyện lấy nước pháp ngâm Ma Ni, mới biết đá này như ngói sỏi).”
(2) Là loại nước có thể trừ bệnh, xua đuổi tà ma của các Đạo sĩ, thầy pháp. Như trong hồi thứ 6 của Tây Du Bổ (西遊補), tiểu thuyết thần ma tiếp theo Tây Du Ký, của Đổng Thuyết (董說, 1620-1686) nhà Minh có đoạn: “Bị Đạo sĩ nhất khẩu pháp thủy, chỉ kiến địa lập cước bất định, kính vãng Tây Nam khứ liễu (被道士一口法水、只見他立腳不定、逕往西南去了, bị Đạo sĩ phun một bụm nước pháp, chỉ thấy chân không đứng vững trên đất, theo lối tắt đi về phía Tây Nam).” Trong bài Tịnh Tam Nghiệp Văn (淨三業文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 2 có câu: “Thân tâm cấu tịnh bằng pháp thủy dĩ địch trừ, phẫn hận nghiệp tiêu trượng từ phong nhi đãng khứ (身心垢淨憑法水以滌除、忿恨業消仗慈風而蕩去, thân tâm nhớp sạch nhờ nước pháp để tẩy trừ, phẫn hận nghiệp tiêu nương gió từ mà quét sạch).” Hay trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1 có đoạn: “Cố năng tinh luyện Ngũ Minh, diệu thông chư bộ, ý dục vận Tây Vức chi pháp thủy, nhuận Đông Hạ chi khát ngưỡng, phán thân hứa vu hiểm nạn, vụ tồn hoằng đạo chi tâm (故能精練五明、妙通諸部、意欲運西域之法水、潤東夏之渴仰、判身許于險難、務存弘道之心, nên có thể tinh luyện Năm Minh, thông suốt các bộ, ý muốn vận dòng nước pháp của Tây Vức [Ấn Độ], thấm nhuần sự khát mong của Đông Hạ [Trung Quốc], phân thân nơi chốn hiểm nạn, chuyên giữ hoằng đạo thâm tâm).”
(三部經, Sambukyō): tên gọi ba bộ kinh có cùng chung nhất với nhau về nghĩa lý, được rút ra từ trong kinh điển. Tiêu biểu nhất là ba bộ Pháp Hoa, gồm Vô Lượng Nghĩa Kinh (無量義經), Pháp Hoa Kinh (法華經) và Quán Phổ Hiền Kinh (觀普賢經). Ở Nhật ngoài ba bộ này ra còn có ba bộ Trấn Hộ Quốc Gia, được gọi là Hộ Quốc Tam Bộ Kinh (護國三部經), gồm Pháp Hoa Kinh, Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), và Kim Cang Minh Kinh (金剛明經). Thêm vào đó còn có ba bộ Đại Nhật gồm Đại Nhật Kinh (大日經), Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經) và Tô Tất Địa Kinh (蘇悉地經); ba bộ Di Lặc gồm Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經), Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經), và Di Lặc Thành Phật Kinh (彌勒成佛經), v.v. Trong bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Pháp Nhiên, lần đầu tiên dùng đến tên gọi Tịnh Độ Tam Bộ Kinh (淨土三部經), gồm Vô Lượng Thọ Kinh (無量義經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量義經), và A Di Đà Kinh (阿彌陀經).
(太極): có hai nghĩa chính. (1) Các triết học gia cổ đại gọi Thái Cực là khí hỗn độn lúc ban đầu. Khi Thái Cực vận động thì phân hóa thành âm dương; từ âm dương mà sinh ra 4 thời biến hóa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), từ đó xuất hiện các loại hiện tượng tự nhiên, và đó là nguồn gốc của vạn vật vũ trụ. Như trong Dịch Kinh (易經), Hệ Từ Thượng (繫辭上), giải thích rằng: “Dịch hữu Thái Cực, thị sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái (易有太極、是生兩儀、兩儀生四象、四象生八卦, Dịch có Thái Cực, sanh ra Lưỡng Nghi [âm dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [Xuân, Hạ, Thu, Đông], Tứ Tượng sanh ra Bát Quái [Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài]).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Thái Cực vị thiên địa vị phân chi tiền, nguyên khí hỗn nhi vi nhất, tức thị Thái Sơ, Thái Nhất dã (太極謂天地未分之前、元氣混而爲一、卽是太初、太一也, Thái Cực nghĩa là trời đất trước khi chưa phân chia, nguyên khí hỗn tạp mà thành một, tức là Thái Sơ, Thái Nhất vậy).” (2) Chỉ thiên cung, cõi tiên. Như trong Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) quyển 8 có đoạn: “Thái Cực hữu Nguyên Cảnh chi vương, ty nhiếp tam thiên chi thần tiên giả dã (太極有元景之王、司攝三天之神仙者也, thiên cung có vua Nguyên Cảnh, là người cai quản thần tiên của ba cõi trời).”
(s, p: aṇu-raja, aṇu-rajas, 微塵): nhỏ như bụi trần, âm dịch là A Noa (阿拏), A Nậu (阿耨); gọi riêng là vi (微), trần (塵); tức là sắc lượng nhỏ nhất do Nhãn Căn nhận lấy được. Cực nhỏ là đơn vị nhỏ nhất tồn tại của sắc pháp được thuyết trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 10, 12. Lấy một cái cực nhỏ làm trung tâm, bốn phương trên dưới tụ tập đồng nhất cực nhỏ mà thành một khối, tức gọi là vi trần. Hợp 7 cực vi thì thành một vi trần, 7 vi trần thành một kim trần (金塵), 7 kim trần thành một thủy trần (水塵). Ngoài ra, các kinh luận cũng lấy vi trần tỷ dụ cho số lượng cực nhỏ, lấy số vi trần để dụ cho số cực lớn. Trong Bắc Tề Thư (北齊書), Truyện Phàn Tốn (樊遜傳), có đoạn: “Pháp vương tự tại, biến hóa vô cùng, trí thế giới ư vi trần, nạp Tu Di ư thử mễ (法王自在、變化無窮、置世界於微塵、納須彌於黍米, Pháp vương tự tại, biến hóa vô cùng, bỏ thế giới trong hạt bụi, gom Tu Di nơi hạt lúa).” Hay trong Phật Thuyết Thập Địa Kinh (佛說十地經, Taishō Tripitaka Vol. 10, No. 287) quyển 6 cũng có đoạn: “Ư nhất mao đoan bách thiên ức, na dữu đa quốc vi trần số, như thị vô lượng chư như lai, ư trung an tọa thuyết diệu pháp (於一毛端百千億、那庾多國微塵數、如是無量諸如來、於中安坐說妙法, trên đầu mảy lông trăm ngàn ức, muôn vạn nước bụi trần số, như vậy vô lượng các Như Lai, trong đó an tọa thuyết pháp mầu).” Hoặc trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) có bài niệm hương rằng: “Thử nhất biện hương, bất tùng thiên giáng, khởi thuộc địa sanh, Lưỡng Nghi vị phán chi tiên, căn nguyên sung tắc, Tam Giới nhất khí, tài phân chi hậu, chi diệp biến mãn thập phương, siêu nhật nguyệt chi quang hoa, đoạt sơn xuyên chi tú lệ, tức Giới tức Định tức Tuệ, phi mộc phi hỏa phi yên, thâu lai tại nhất vi trần, tán xứ phổ huân pháp giới, nhiệt hướng lô trung, chuyên thân cúng dường, thường trú Tam Bảo, sát hải vạn linh, lịch đại Tổ sư, nhất thiết Thánh chúng, hà sa phẩm loại, u hiển Thánh phàm, tất trượng chơn hương, phổ đồng cúng dường (此一瓣香、不從天降、豈屬地生、兩儀未判之先、根源充塞、三界一氣、纔分之後、枝葉遍滿十方、超日月之光華、奪山川之秀麗、卽戒卽定卽慧、非木非火非煙、收來在一微塵、散處普薰法界、爇向爐中、專伸供養、常住三寶、剎海萬靈、歷代祖師、一切聖眾、河沙品類、幽顯聖凡、悉仗眞香、普同供養, một nén hương này, không từ trời xuống, sao thuộc đất sanh, Lưỡng Nghi [âm dương] chưa phân đầu tiên, nguồn căn đầy ắp, Ba Cõi một khí, mới chia sau đó, cành lá biến khắp mười phương, siêu trời trăng ấy rực sáng, vượt núi sông bao tú lệ, là Giới là Định là Tuệ, chẳng gỗ chẳng lửa chẳng khói, thâu vào trong một bụi trần, tan biến khắp xông pháp giới, rực hướng lò hương, thành tâm cúng dường, thường trú Tam Bảo, tất cả sinh linh, bao đời Tổ sư, hết thảy Thánh chúng, hà sa các loài, ẩn hiện Thánh phàm, đều nhờ chơn hương, cúng dường khắp cùng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập