Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lục Vị »»
(白象): voi trắng toàn thân, vì con voi có uy lực lớn nhưng tánh tình nhu thuận, cho nên khi vị Bồ Tát vào mẫu thai thường cỡi con voi trắng có sáu ngà hay hiện thân hình con voi trắng, biểu thị tánh của vị Bồ Tát khéo nhu hòa nhưng có oai lực vĩ đại. Bên cạnh đó, 6 ngà voi thể hiện tinh thần Lục Độ (六度), 4 chân là Tứ Như Ý (四如意). Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) cỡi con voi trắng 6 ngà cũng thí dụ cho oai lực vô song như vậy. Như trong Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (普賢菩薩勸發品) thứ 28 của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có giải thích rằng: “Thị nhân nhược tọa, tư duy thử kinh, nhĩ thời ngã phục thừa bạch tượng vương, hiện kỳ nhân tiền, kỳ nhân nhược ư Pháp Hoa Kinh, sở hữu vong thất nhất cú nhất kệ, ngã đương giáo chi, dữ cọng độc tụng, hoàn linh thông lợi (是人若坐、思惟此經、爾時我復乘白象王、現其人前、其人若於法華經、有所忘失一句一偈、我當敎之、與共讀誦、還令通利, người ấy nếu ngồi, suy nghĩ kinh này, lúc bấy giờ ta lại cỡi vua voi trắng, hiện trước mặt người đó, nếu người đó đối với Kinh Pháp Hoa, bị sai mất một câu một bài kệ, ta sẽ chỉ cho, cùng với người đó đọc tụng, khiến được thông lợi).” Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō 3, 624) quyển 1 có đoạn rằng: “Nhĩ thời, Bồ Tát quán giáng thai thời chí, tức thừa lục nha bạch tượng phát Đâu Suất cung; vô lượng chư thiên tác chư kỷ nhạc, thiêu chúng danh hương, tán thiên diệu hoa, tùy tùng Bồ Tát (爾時、菩薩觀降胎時至、卽乘六牙白象發兜率宮、無量諸天作諸伎樂、燒眾名香、散天妙花、隨從菩薩, lúc bấy giờ, Bồ Tát quán sát đã đến lúc giáng xuống bào thai, liền cỡi con voi trắng sáu ngà từ trên cung trời Đâu Suất xuống; vô lượng các vị trời trỗi những thứ âm nhạc, đốt các loại hương thơm, rãi hoa trời tuyệt diệu, theo Bồ Tát xuống)”. Bên cạnh đó, Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō 46, 14) quyển 2 có giải thích rằng: “Ngôn lục nha bạch tượng giả, thị Bồ Tát vô lậu lục thần thông; nha hữu lợi dụng như thông chi tiệp tật, tượng hữu đại lực, biểu pháp thân hà phụ, vô lậu vô nhiễm, xưng chi vi bạch (言六牙白象者、是菩薩無漏六神通、牙有利用如通之捷疾、象有大力、表法身荷負、無漏無染、稱之爲白, voi trắng sáu ngà là vị Bồ Tát có sáu thần thông vô lậu; ngà có mũi nhọn có thể xuyên qua rất nhanh; voi có sức mạnh phi thường, thể hiện cho pháp thân gánh vác nặng; không bị rỉ ra, không bị nhiễm ô, cho nên gọi nó là trắng)”.
(九天): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho trung ương và tám phương khác của trời. Như trong Sở Từ (楚辭), thiên Ly Tao (離騷), có câu: “Chỉ cửu thiên dĩ vi chánh hề, phù duy linh tu chi cố dã (指九天以爲正兮、夫唯靈脩之故也, chỉ cửu thiên lấy làm chính chừ, cho nên phàm thần minh thấy xa được vậy).” Trong Thái Huyền (太玄), Thái Huyền Số (太玄數), của Dương Hùng (揚雄, 53 ttl.-18) nhà Hán, lại cho rằng: “Cửu thiên, nhất vi Trung Thiên, nhị vi Tiện Thiên, tam vi Tùng Thiên, tứ vi Canh Thiên, ngũ vi Túy Thiên, lục vi Quách Thiên, thất vi Giảm Thiên, bát vi Trầm Thiên, cửu vi Thành Thiên (九天、一爲中天、二爲羡天、三爲從天、四爲更天、五爲睟天、六爲廓天、七爲減天、八爲沉天、九爲成天, cửu thiên, một là Trung Thiên, hai là Tiện Thiên, ba là Tùng Thiên, bốn là Canh Thiên, năm là Túy Thiên, sáu là Quách Thiên, bảy là Giảm Thiên, tám là Trầm Thiên, chín là Thành Thiên).” Hay trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), Phần Hữu Thỉ (有始), lại đưa ra giải thích khác về cửu thiên là phương trung ương có Quân Thiên (鈞天), phương Đông có Thương Thiên (蒼天), Đông Bắc là Biến Thiên (變天), Bắc là Huyền Thiên (玄天), Tây Bắc là U Thiên (幽天), Tây là Hạo Thiên (顥天), Tây Nam là Chu Thiên (朱天), Nam là Viêm Thiên (炎天), Đông Nam là Dương Thiên (陽天). (2) Chỉ cho nơi cao nhất trên bầu trời. Như trong Tôn Tử (孫子), Hình Thiên (形篇), có câu: “Thiện công giả, động ư cửu thiên chi thượng (善攻者、動於九天之上, người khéo đánh, có thể làm động đến tận trời cao).” Hay trong bài thơ Vọng Lô Sơn Bộc Bố (望廬山瀑布) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường cũng có câu: “Phi lưu trực hạ tam thiên xích, nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên (飛流直下三千尺、疑是銀河落九天, bay vù thẳng xuống ba ngàn thước, ngờ ấy Ngân Hà rụng trời cao).” (3) Chỉ cấm cung. Như trong bài thơ Hòa Cổ Xá Nhân Tảo Triều Đại Minh Cung Chi Tác (和賈舍人早朝大明宮之作) của Vương Duy (王維, 701-761) nhà Đường có câu: “Cửu thiên xương hạp khai cung điện, vạn quốc y quan bái miện lưu (九天閶闔開宮殿、萬國衣冠拜冕旒, cấm cung cửa trời bày cung điện, muôn nước áo quan vái Thượng Hoàng).”
(大圓境智): hay Đại Viên Kính Trí (s: ādarśa-jñāna, 大圓鏡智), một trong 4 Trí (Đại Viên Kính Trí [大圓鏡智], Bình Đẳng Tánh Trí [平等性智], Diệu Quan Sát Trí [妙觀察智] và Thành Sở Tác Trí [成所作智]) của đức Phật, chỉ trí tuệ của đức Phật có thể ánh hiện một cách như thật tất cả các pháp. Giống như cái gương tròn, lớn, loại trí tuệ này trong sạch, tròn đầy, có thể phản chiếu tất cả hình tượng; Mật Giáo gọi nó là Kim Cang Trí (金剛智). Theo Duy Thức Tông, sau khi thành Phật, phiền não chuyển biến thành trí tuệ. Trí tuệ Phật này được chia thành 4 loại, trong đó, loại thứ tư (tức A Lại Da Thức [s: ālaya-vijñāna, p: ālaya-viññāṇa, 阿賴耶識]) sẽ chuyển biến thành Thanh Tịnh Trí, tức Đại Viên Kính Trí này. Trong Bát Thức Quy Cũ Tụng (八識規矩頌) có giải thích rằng: “Nhất sát na gian, vĩnh đoạn thế gian nhị chướng chủng tử, chuyển Đệ Bát Thức thành Đại Viên Kính Trí, thử thời xả khứ Dị Thục chi danh, nhi xưng vi A Đà Na Thức (一剎那間、永斷世間二障種子、轉第八識成大圓鏡智、此時捨去異熟之名、而稱爲阿陀那識, trong khoảng sát na, mãi đoạn các hạt giống của hai chướng ngại trên đời, chuyển Thức Thứ Tám thành Đại Viên Kính Trí; lúc bấy giờ bỏ đi tên gọi Dị Thục, mà gọi là A Đà Na Thức).” Hay như trong Nhân Thiên Nhãn Mục (人天眼目) quyển 5 cũng có đoạn: “Phật chuyển Bát Thức nhi thành Tứ Trí giả, dụng bát vi Đại Viên Kính Trí, thất vi Bình Đẳng Tánh Trí, lục vi Diệu Quan Sát Trí, tiền ngũ vi Thành Sở Tác Trí (佛轉八識而成四智者、用八爲大圓鏡智、七爲平等性智、六爲妙觀察智、前五爲成所作智, Phật chuyển Tám Thức thành Bốn Trí; dùng Thức Thứ Tám làm Đại Viên Kính Trí, Thức Thứ Bảy làm Bình Đẳng Tánh Trí, Thức Thứ Sáu làm Diệu Quan Sát Trí, và năm thức trước làm Thành Sở Tác Trí).”
(黃鐘, 黃鍾): âm thanh đầu tiên thuộc về Dương trong 12 Luật của âm nhạc được quy định từ thời xưa của Trung Quốc, và cũng là tên gọi khác của tháng 11 Âm Lịch. Âm này tương đương với âm Nhất Việt (壱越, ichikotsu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Trong A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa (阿彌陀經疏鈔事義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 425) có giải thích rõ rằng 6 âm thanh thuộc về Dương gồm Hoàng Chung (黃鍾), Thái Thốc (太簇), Cô Tẩy (姑洗), Nhuy Tân (蕤賓), Di Tắc (夷則) và Vô Xạ (無射); 6 âm thanh thuộc về Âm là Đại Lữ (大呂), Giáp Chung (夾鍾), Trọng Lữ (仲呂), Lâm Chung (林鐘), Nam Lữ (南呂) và Ưng Chung (應鍾). Từ đó có cụm từ Hoàng Chung hủy khí (黃鐘毀棄) ám chỉ người hiền bị bài xích, ruồng bỏ. Như trong bài Bốc Cư (卜居) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) của nhà Sở thời Chiến Quốc có đoạn: “Hoàng Chung hủy khí, ngõa phữu lôi minh, sàm nhân cao trương, hiền sĩ vô danh (黃鐘毀棄、瓦缶雷鳴、讒人高張、賢士無名, Hoàng Chung đem bỏ, bụng rỗng kêu to, kẻ hèn lên mặt, người hiền không tên).” Hay trong Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp (準提淨業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1077) quyển 3 có câu: “Hoàng Chung thập nhất nguyệt luật, đắc Đông khí cố, ngưng âm băng đống (黃鐘十一月律、得冬氣故、凝陰冰凍, Hoàng Chung tháng Mười Một luật, vì có khí Đông, đất trời băng đóng).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 có giải thích về Hoàng Chung rằng: “Hoàng Chung giả, thị âm dương chi trung, nhược thiên hữu Lục Khí, giáng vi Ngũ Vị, thiên hữu Lục Giáp, địa hữu Ngũ Tý, tổng thập nhất, nhi thiên địa chi số tất hỉ, cố dĩ lục vi trung. Hoàng Chung giả, thị Lục Luật chi thủ, cố dĩ Hoàng Chung vi danh. Hoàng giả, thổ chi sắc, dương khí tại địa trung, cố dĩ Hoàng vi xưng. Chung giả, động dã, tụ dã; dương khí tiềm động ư huỳnh tuyền, tụ dưỡng vạn vật, manh nha tương xuất, cố danh Hoàng Chung dã (黃鍾者、是陰陽之中、若天有六氣、降爲五味、天有六甲、地有五子、總十一、而天地之數畢矣、故以六爲中、黃鍾者、是六律之首、故以黃鍾爲名、黃者、土之色、陽氣在地中、故以黃爲稱、鍾者、動也、聚也、陽氣潛動於黃泉、聚養萬物、萌芽將出、故名黃鍾也, Hoàng Chung là ở trong âm dương, nếu trời có Sáu Khí, giáng xuống thành Năm Vị, trời có Sáu Giáp, đất có Năm Tý, tổng cọng là mười một, là đủ hết số của trời đất vậy, nên lấy số sáu làm chính. Hoàng Chung là đứng đầu trong Sáu Luật, nên lấy Hoàng Chung làm tên. Hoàng [màu vàng] là sắc màu của đất, khí dương ở trong đất, cho nên lấy màu vàng mà gọi tên. Chung nghĩa là động, là tích tụ; khí dương ngầm chuyển động dưới Suối Vàng, tích tụ và nuôi dưỡng vạn vật, mầm non sẽ nhú ra, nên có tên là Hoàng Chung vậy).”
(s: ṣaḍ-indriyāṇi, 六根): hay còn gọi là Lục Tình (六情), tức 6 cơ quan cảm giác hay năng lực nhận thức, là Sáu Xứ trong Mười Hai Xứ, Sáu Căn Giới trong Mười Tám Giới. Căn (s, p: indriya, 根) có nghĩa là cơ quan nhận thức. Sáu Căn gồm:
(1) Nhãn (s: cakṣus, p: cakkhu, 眼, mắt, cơ quan và năng lực thị giác);
(2) Nhĩ (s: śrotra, śrotas, p: sota, 耳, tai, cơ quan và năng lực thính giác);
(3) Tỷ (s: ghrāṇa, p: ghāna, 鼻, mũi, cơ quan và năng lực khứu giác);
(4) Thiệt (s: jihvā, p: jivhā, 舌, lưỡi, cơ quan và năng lực vị giác);
(5) Thân (s, p: kāya, 身, thân thể, cơ quan và năng lực xúc giác); và
(6) Ý (s: manaḥ, p: mano, manas, 意, ý, cơ quan và năng lực tư duy).
Năm Căn đầu được gọi là Ngũ Căn (五根), thuộc về sắc pháp, có 2 loại: cơ quan sinh lý là Phù Trần Căn (浮塵根, hay Thô Sắc Căn [粗色根]), tức 5 căn này hiện hình trạng ra bên ngoài; còn Ý Căn là nơi nương tựa của tâm để sanh khởi tâm lý, nương vào Phù Trần Căn để có thể phát sinh tác dụng thấy, nghe, hiểu biết, v.v.; có tên là Thắng Nghĩa Căn (勝義根, hay Tịnh Sắc Căn [淨色根]). Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh, Lục Thức tạo nghiệp, sở chiêu ác báo, tùng Lục Căn xuất (一切眾生、六識造業、所招惡報、從六根出, hết thảy chúng sanh, Sáu Thức tạo nghiệp, ác báo nhận lấy, do Sáu Căn ra).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có giải thích về Lục Căn thanh tịnh rằng: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh đạt bỉ ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn; cố danh Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Ấn Độ gọi là Ba La Mật, người Trung Quốc gọi là qua bờ bên kia; do Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; nên được gọi là Ba La Mật).” Hoặc trong bài Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Đệ tử mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc thanh nhi tham nhiễm; Thập Triền Thập Sử, tích thành Hữu Lậu chi nhân; Lục Căn Lục Trần, vọng tác vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪, đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo sanh tử để thăng trầm, đắm sắc thanh mà tham nhiễm; Mười Triền Mười Sử, tích thành Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn Sáu Trần, lầm tạo vô biên tội lỗi).”
(五燈全書, Gotōzensho): 120 quyển, do Tể Lôn Siêu Vĩnh (霽崙超永) nhà Minh biên soạn, Luân Am Siêu Bát (輪菴超撥) hiệu đính, san hành vào năm thứ 36 (1697) niên hiệu Khang Hy (康熙). Bộ này được hình thành dựa trên cơ sở của Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元), tham khảo các sách truyền đăng từ xưa nay, rút ra những tinh yếu, cắt bỏ đi những phần rắc rối; bên cạnh người biên soạn đã bỏ ra hơn 10 năm trường đi sưu tra khắp các địa phương để hoàn thành bộ Truyền Đăng Lục vĩ đại như thế này. Nội dung của tác phẩm này gồm 7 vị Phật thời quá khứ, chư vị tổ sư của Tây Thiên, Đông Độ, và kèm theo liệt vị tổ sư cũng như cư sĩ xuất hiện sau khi bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên ra đời, tổng cọng hơn 7.000 người. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều vấn đề như một số bộ phận chưa chỉnh lý, hay điểm công nhận sự hiện hữu của Thiên Vương Đạo Ngộ (天皇道悟), v.v.
(筮龜) hay Phệ Bốc (筮卜): bói toán bằng thẻ tre (một bó có 50 thẻ) và bằng cách đốt mu rùa. Từ đó nó có nghĩa là bói toán nói chung. Trong Chu Dịch Chánh Nghĩa (周易正義), phần Nhĩ Nhã (爾雅) có giải thích về 10 loại thẻ rùa để bói toán, quyết đoán mọi nghi nan rằng: “Thập bằng chi quy giả, nhất viết Thần Quy, nhị viết Linh Quy, tam viết Nhiếp Quy, tứ viết Bảo Quy, ngũ viết Văn Quy, lục viết Phệ Quy, thất viết Sơn Quy, bát viết Trạch Quy, cửu viết Thủy Quy, thập viết Hỏa Quy (十朋之龜者、一曰神龜、二曰靈龜、三曰攝龜、四曰寶龜、五曰文龜、六曰筮龜、七曰山龜、八曰澤龜、九曰水龜、十曰火龜, mười loại thẻ bói rùa, một là Thần Quy, hai là Linh Quy, ba là Nhiếp Quy, bốn là Bảo Quy, năm là Văn Quy, sáu là Phệ Quy, bảy là Sơn Quy, tám là Trạch Quy, chín là Thủy Quy, mười là Hỏa Quy).”
(岡山藩, Okayama-han): tên gọi một Phiên lãnh hữu toàn bộ tiểu quốc Bị Tiền (僃前, Bizen) và một phần của Bị Trung (僃中, Bicchū). Cơ sở hành chính của Phiên là Thành Cương Sơn (岡山城, Okayama-jō), phần lớn thời gian đều do dòng họ Trì Điền (池田, Ikeda) quản trị. Người từng phục vụ cho Phong Thần Ngũ Đại Lão (豐臣五大老) là dòng họ Vũ Hỷ Đa (宇喜田, Ukita). Tuy nhiên, vào năm 1600 (Khánh Trường [慶長] 5), trong trận chiến Sekigahara (關ヶ原), Vũ Hỷ Đa Tú Gia (宇喜田秀家, Ukita Hideie), chủ lực của quân phía Tây, lại bị thay đổi người; nên Tiểu Tảo Xuyên Tú Thu (早小川秀秋, Kobayakawa Hideaki) tiến vào, chiếm lãnh 51 vạn thạch ở Bị Tiền và Mỹ Tác (美作, Mimasaka). Thế nhưng, vào năm 1602 (Khánh Trường 7), Tú Thu và chẳng có con nối dõi; nên dòng họ Tiểu Tảo Xuyên (早小川, Kobayakawa) xem như bị tuyệt tự. Năm sau, 1603, người con thứ 2 của Trì Điền Huy Chính (池田輝政, Ikeda Terumasa) là Trì Điền Trung Kế (池田忠繼, Ikeda Tadatsugu) đến lãnh hữu vùng Cương Sơn (岡山, Okayama) với 28 vạn thạch, và tại đây dòng họ Trì Điền bắt đầu trị thế với tư cách là nhà Đại Danh thời kỳ Giang Hộ. Vào năm 1613 (Khánh Trường 18), Phiên nhận thêm khoảng 10 vạn thạch, trở thành 38 vạn thạch. Đến năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), Trung Kế qua đời và cũng chẳng có con nối nghiệp; nên người em Trì Điền Trung Hùng (池田忠雄, Ikeda Tadakatsu) lên thay thế với 31 vạn 5 ngàn thạch. Năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), Trung Hùng qua đời; thay vào đó, người anh em họ là Trì Điền Quang Chính (池田光政, Ikeda Mitsumasa) lên thay thế với 31 vạn 5 ngàn thạch. Từ đó trở về sau, gia hệ của Quang Chính thay nhau thống trị Phiên Cương Sơn. Quang Chính cùng với Đức Xuyên Quang Quốc (德川光圀, Tokugawa Mitsukuni), Phiên chủ Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han) và Bảo Khoa Chánh Chi (保科正之), phiên chủ Phiên Hội Tân (會津藩, Aizu-han), cả ba được gọi là Tam Danh Quân (三名君) vào đầu thời Giang Hộ. Quang Chính trọng dụng Hùng Trạch Phiên Sơn (熊澤蕃山, Kumazawa Banzan), nhà Dương Minh Học, vào năm 1669 (Khoan Văn [寛文] 9), ông tiên phong mở Cương Sơn Học Hiệu (岡山學校), trường Quốc Học đầu tiên. Năm sau, 1670, ông còn khai giảng Nhàn Cốc Học Hiệu (閑居學校, hiện tại Giảng Đuờng của trường được xếp hạng quốc bảo), trường học cho hàng thứ dân cổ nhất của Nhật Bản. Sau này, vào năm 1700 (Nguyên Lộc [元祿] 3), Trì Điền Cương Chính (池田綱政, Ikeda Tsunamasa), con của Quang Chính, đã dốc sức cho hoàn thành 3 đình viên nổi tiếng nhất của Nhật Bản, gồm: Giai Lạc Viên (偕樂園, Kairakuen, Mito-shi [水戸市]), Kiêm Lục Viên (兼六園, Kenrokuen, Kanazawa-shi [金澤市]) và Hậu Lạc Viên (後樂園, Kōrakuen, Tōkyō-to [東京都]). Lịch đại chư vị Phiên chủ của Phiên này có 12 đời, gồm: (1) Trì Điền Trung Kế (池田忠繼, Ikeda Tadatsugu); (2) Trì Điền Trung Hùng (池田忠雄, Ikeda Tadakatsu); (3) Trì Điền Quang Chính (池田光政, Ikeda Mitsumasa); (4) Trì Điền Cương Chính (池田綱政, Ikeda Tsunamasa); (5) Trì Điền Kế Chính (池田繼政, Ikeda Tsugumasa); (6) Trì Điền Tông Chính (池田宗政, Ikeda Munemasa); (7) Trì Điền Trị Chính (池田治政, Ikeda Harumasa); (8) Trì Điền Tề Chính (池田齊政, Ikeda Narimasa); (9) Trì Điền Tề Mẫn (池田齊敏, Ikeda Naritoshi); (10) Trì Điền Khánh Chính (池田慶政, Ikeda Yoshimasa); (11) Trì Điền Mậu Chính (池田茂政, Ikeda Mochimasa); và (12) Trì Điền Chương Chính (池田章政, Ikeda Akimasa). Các Phiên chi nhánh của Phiên Cương Sơn có Phiên Áp Phương (鴨方藩, Kamogata-han, 2 vạn 5 ngàn thạch) và Phiên Sanh Phản (生坂藩, Ikusaka-han, 1 vạn 5 ngàn thạch).
(三德): tức là Pháp Thân Đức (法身德), Bát Nhã Đức (般若德) và Giải Thoát Đức (解脫德). Căn cứ vào Phẩm Tựa của Kinh Đại Bát Niết Bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đã chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Nghĩa là những thức ăn dâng cúng cho Phật và tăng thì phải đầy đủ 3 đức tính (yếu tố), gồm:
(1) Trong sạch, không nhơ nhớp;
(2) Mềm mại, ngon ngọt;
(3) Như pháp, tùy thời mà chế biến, làm ra đúng pháp.
Tam Đức này tượng trưng cho Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân) của Phật hoặc ba đức tướng (Trí Đức, Đoạn Đức, Ân Đức) của quả vị Phật. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu “Tam Đức, Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, ba đức, sáu vị, cúng Phật cùng tăng, cùng khắp cúng dường).” Trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 90 có đoạn rằng: “Tại kính tắc Tam Đế viên dung, tại tâm tắc Tam Quán câu vận, tại nhân tắc Tam Đạo tương tục, tại quả tắc Tam Đức châu viên, như thị bản mạt tương thâu, phương nhập Đại Niết Bàn bí mật chi tạng (在境則三諦圓融、在心則三觀俱運、在因則三道相續、在果則三德周圓、如是本末相收、方入大涅槃祕密之藏, nơi kính thì Ba Đế viên dung, nơi tâm thì Ba Quán vận hành, nơi nhân thì Ba Đường liên tục, nơi quả thì Ba Đức tròn khắp, như vậy gốc ngọn cùng thâu, rồi nhập vào kho tàng bí mật của Đại Niết Bàn).” Hay như trong Thiền Môn Yếu Lược (禪門要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 908) cũng có câu: “Hựu Tam Quán thành cố tức Tam Đức mãn, Trung Quán thành tức Pháp Thân mãn, Giả Quán thành tức Bát Nhã mãn, Không Quán thành tức giải thoát mãn, Tam Đức mãn cố danh Bí Mật Tạng (又三觀成故卽三德滿、中觀成卽法身滿、假觀成卽般若滿、空觀成卽解脫滿、三德滿故名秘密藏, lại Ba Quán thành nên Ba Đức tròn, Trung Quán thành tức Pháp Thân tròn, Giả Quán thành tức Bát Nhã tròn, Không Quán thành tức giải thoát tròn, vì Ba Đức tròn nên gọi là Kho Tàng Bí Mật).” Hoặc như trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung lại có câu: “Lịch Ngũ Vị Bồ Đề chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念, trãi qua con đường Bồ Đề Năm Vị, vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn thành Ba Niệm).”
(神煞): hay Thần Sát Tinh (神煞星), là tên gọi những ngôi sao chiếu mạng quyết định việc tốt xấu của con người. Một số sao Thần Sát thường dùng như:
(1) Thiên Ất Quý Nhân (天乙貴人), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, với người lớn hơn mình, với người khác phái, thích xã giao.
(2) Thiên Y (天醫), người gặp sao này thì có năng lực rất mạnh như học tập, lý giải, quán sát, mô phỏng, tâm hiếu kỳ, tâm nghiên cứu, trực giác, v.v.
(3) Thiên Đức (天德), người gặp sao này thì có tài trí mưu lược xuất sắc, tâm vinh dự cao, năng lực lớn, phàm mọi việc gặp hung dữ hóa thành tốt, được quý nhân giúp đỡ.
(4) Nguyệt Đức (月德), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, xã giao, tâm cung kính, tâm trách nhiệm, năng lực thích ứng cao.
(5) Nguyệt Đức Hợp (月德合), người gặp sao này thì có năng lực quán sát, đối ứng, bàn chuyện kinh doanh rất mạnh.
(6) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì trong đời này có tiền tài dư dật, kinh tế không bao giờ gặp nguy cơ, có quý nhân giúp đỡ, thường có phước, có năng lực làm thân, kết duyên lành với mọi người.
(7) Văn Xương (文昌), người gặp sao này thì có năng lực viết lách, văn nghệ, học tập.
(8) Tam Kỳ Quý (三奇貴), người gặp sao này thì có năng lực học tập tinh chuyên, sức tập trung mạnh, đầu óc làm việc linh mẫn, cơ trí nhạy bén, dễ thành nhân tài có kỹ năng chuyên nghiệp, như công trình sư, nhà tư vấn, v.v.
(9) Lục Tú (六秀), là ngôi sao có năng lực viết văn trác việt, người gặp sao này thì có năng lực học tập, tư duy rất mạnh, thuộc nhà nghệ thuật ở trạng thái tĩnh như họa sĩ, nhà thư pháp, sáng tác khúc từ, v.v.
(10) Thập Linh Nhật (十靈日), là ngôi sao thuộc về tôn giáo, người gặp sao này thì có trực giác linh nhuệ, khéo quán sát lời nói, nhìn sắc mặt người, năng lực lãnh ngộ, khéo hiểu ý người, v.v.
(11) Khôi Cương (魁罡), người gặp sao này thì về ăn uống nên thận trọng, chớ ăn thịt bò, chó; duyên hôn nhân rắc rối, tai tiếng, có đủ tinh thần độc lập tự chủ, năng lực tổ chức mạnh.
(12) Học Đường (學堂), người gặp sao này thì có năng lực bắt chước, sáng tác, tưởng tượng, lý giải.
(13) Học Sĩ (學士), người gặp sao này thì có tâm nghiên cứu, lòng hiếu kỳ, muốn tìm hiểu, có năng lực học thuộc lòng, nhớ dai.
(14) Kim Quỹ (金匱), người gặp sao này thì có đầy đủ năng lực sáng tác, lãnh ngộ, cầm quyền, quyết đoán, quy hoạch.
(15) Tấn Thần (進神), người gặp sao này thì có ý thức chủ quan rất mạnh, kiêu ngạo, tự phụ, không chịu phục tùng bất cứ ai, nóng nảy.
(16) Lộc Thần (祿神), người gặp sao này thì có thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(17) Bối Lộc (背祿), đại diện cho những người xem thường tổ tiên, ly hương biệt xứ, không được hưởng phúc ấm của tổ tông.
(18) Kiến Lộc (建祿:代表建功立業白手自足,不得雙視庇蔭,不宜合夥生意), đại diện cho những người tạo công lập nghiệp tay trắng một mình, không được phúc ấm của song thân.
(19) Chuyên Lộc (專祿), đại diện cho những người thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(20) Quy Lộc (歸祿), đại diện cho những người giao tế rộng rãi, tài lộc đầy đủ, tránh chuyện vay mượn, có thể tránh kiện tụng.
(21) Hoa Cái (華蓋), người gặp sao này thì có tâm cầu học, tự động tìm tòi, tự ngộ để đạt đến kết quả cao, có thiên tánh về mỹ thuật, thiết kế, trang hoàng, âm nhạc; về phương diện văn học thì rất hứng thú và có thiên tài; đây là ngôi sao chỉ chuyên về nghệ thuật, tôn giáo, nên có tánh nghiên cứu, muốn tìm cầu, năng lực học tập, tính chất mẫn cảm.
(22) Cô Thần (孤辰), người gặp sao này thì có tánh cách cô đơn, trầm mặc, không nói nhiều, tâm trong sạch, ít ham muốn, thường an phận, không có tâm cầu tiến.
(23) Quả Tú (寡宿), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái rất ít, duyên hôn nhân cũng mong manh, chủ nghĩa độc thân.
(24) Nguyên Thần (元辰), là sao hao tổn, miệng tiếng.
(25) Kim Dư (金輿), là sao về tài của cùng với quan hệ phối ngẫu, được hỗ trợ về chuyện phối ngẫu, kỹ thuật.
(26) Kim Tinh (金星), người gặp sao này thì anh minh, trí tuệ, dũng cảm, quả quyết, kiên nhẫn, cương nhu đều có đủ, chú trọng vinh dự, quyền uy.
(27) Thiên Xá (天赦), người gặp sao này thì một đời bị kiện tụng cửa quan, lao ngục, tai hại ngoài ý muốn, một đời thường đều có thể gặp xấu hóa tốt, có kinh động nhưng không nguy hiểm.
(28) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì có quý nhân tương trợ, kinh tế phát triển, một đời tài lộc, ăn uống sung túc, có duyên xã giao, năng lực kết duyên lành.
(29) Tướng Tinh (將星), người gặp sao này thì hiển đạt về quan quyền, có thể nắm quyền bính trong tay, có năng lực quản lý, quyết đoán, cơ trí.
(30) Dịch Mã (驛馬), là sao đổi dời, đi xa, biến động.
(31) Âm Dương Sát (陰陽煞), người gặp sao này thì nên tiến hành duyên hôn nhân chậm, không nên sớm, mới có thể trừ được lo âu thay đổi chuyện hôn nhân, nên thận trọng trong việc giao tế với người khác phái, mới có thể tránh được chuyện thị phi, tranh giành.
(32) Kiếp Sát (劫煞), người gặp sao này thì có cơ trí linh mẫn, phản ứng nhạy bén, tâm háo thắng.
(33) Quải Kiếm Sát (掛劍煞), người gặp sao này thì dễ mắc phải các bệnh tật về gân cốt, đường ruột, cơ quan vận động, v.v., hằng ngày nên đề phòng các vật kim loại bén nhọn, vật nguy hiểm gây thương tích; dễ bị thương tích đánh đập, ngã quỵ, té xuống đất.
(34) Câu Giao (勾絞), là sao phiền phức về chuyện cảm tình, hôn nhân.
(35) Đào Hoa (桃花), đại diện cho sức hấp dẫn, thu hút, năng lực thưởng thức, trang sức, có duyên xã giao.
(36) Thiên Hỷ (天喜), là sao vui sướng, như ý, có cảm giác thâm sâu, năng lực hòa đồng, tình người.
(37) Hồng Diễm (紅艷), là sao nghệ thuật lãng mạn, có đủ năng lực thưởng thức, thiết kế trang phục, trang hoàng, có duyên với người khác phái.
(38) Hồng Loan (紅鸞), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái, tư tưởng lãng mạn, có năng lực phối hợp sắc màu nghệ thuật tranh tĩnh vật.
(39) Lưu Hà (流霞), người gặp sao này thì trong quá trình sinh sản dễ gặp nguy hiểm, lưu sản, dễ mắc bệnh tuần hoàn huyết dịch về tim mạch.
(40) Vong Thần (亡神), là sao ẩn tàng, không lộ hiện tung tích, người gặp sao này thì giỏi về mưu lược, vui, buồn, tức giận đều không thể hiện ra ngoài sắc mặt.
(41) Dương Nhận (羊刃), là sao về chức võ, chủ yếu người gặp sao này thì có tâm háo thắng, không chịu khuất phục, dõng mãnh, đảm đương, lanh lẹ.
(42) Huyết Nhận (血刃), là sao thương tích ngoài ý muốn, bất ngờ, người gặp sao này thì hằng ngày nên thận trọng về bỏng lửa, thương tích đánh đập, các vật kim loại, bén nhọn, chú ý về giao thông.
(43) Phi Nhận (飛刃), là sao gặp công kích bất ngờ, tranh tụng, thị phi.
(44) Cách Giác (隔角), là sao chủ về việc kiện tụng cửa quan, miệng tiếng, thị phi; nếu gặp Hình Xung (刑沖) thì ắt sẽ có tai họa về kiện tụng, lao ngục.
(45) Không Vong (空亡), kim loại rỗng thì kêu to, lửa trống thì sẽ phát lớn, cây rỗng thì mục, đất rỗng thì lỡ sụt; người gặp sao này thì vô duyên với thân thích, nên tinh tấn tu hành.
Ngoài ra, còn có 12 ngôi sao Thần Sát, được gọi là Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, gồm:
(1) Thái Tuế (太歲), có câu kệ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện.
(2) Thái Dương (太陽), có câu kệ rằng: “Thái Dương cát tinh chiếu, cầu tài ngộ trân bảo, âm dương hữu hòa hợp, định cảm phước lai bảo (太陽吉星照、求財遇珍寶、陰陽有和合、定感福來保, Thái Dương sao tốt chiếu, cầu tài gặp của báu, âm dương có hòa hợp, tất có phước đến nhà).” Người gặp sao này chủ yếu chiếu sáng hóa tốt, lấy lễ đãi người, thông minh cần mẫn, có chuyện vui giáng lâm.
(3) Tang Môn (喪門), câu kệ là: “Tang Môn tối vi hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phá tài tinh ngoại hiếu, nùng huyết kiến tai nghinh (喪門最爲凶、孝服重重逢、破財幷外孝、濃血見災迎, Tang Môn thật rất hung, tang phục lại trùng phùng, phá tài thêm bất hiếu, máu chảy thấy tai ương).” Người gặp sao này chủ yếu có đám tang, khóc lóc, hiếu sự hay hung tai, bị trộm cướp, con nhỏ sợ bị mất mạng vì xe cộ.
(4) Thái Âm (太陰), câu kệ là: “Thái Âm nhập mạng lai, thiêm hỷ hựu tấn tài, quý nhân tương tiếp dẫn, canh tác ngộ tài phong (太陰入命來、添喜又進財、貴人相接引、耕作遇財豐, Thái Âm gặp mạng này, thêm vui lại có tài, quý nhân thường giúp đỡ, canh tác gặp của hay).” Sao này chủ yếu tích tụ tài của hoặc thuộc loại ngũ quỷ đem tài của đến, người gặp sao này kinh doanh rất tốt, mỗi ngày càng phát tài, rất hợp với người nữ.
(5) Quan Phù (官符), có câu kệ là: “Quan Phù nhập mạng hung, khẩu thiệt quan ty trùng, phá tài kiêm ngoại hiếu, tác phước đảo thương cùng (官符入命凶、口舌官司重、破財兼外孝、作福禱蒼窮, Quan Phù gặp mạng hung, miệng tiếng chốn quan trường, phá tài thêm bất hiếu, làm phước cầu khắp cùng).” Người gặp sao này thường gặp kẻ tiểu nhân, tất gây ồn ào nơi cửa quan, chọn bạn nên cẩn thận, nên khuyên kẻ tiểu nhân làm phước.
(6) Tử Phù (死符), bài kệ rằng: “Tử Phù nhập mạng lai, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ mẫu thê nhi khắc, tác phước miễn tai ương (死符入命來、孝服重重逢、父母妻兒剋、作福免災殃, Tử Phù gặp mạng đây, tang phục lại chất chồng, mẹ cha vợ con khắc, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu có tai họa đột xuất như hình phạt của quan ty, bệnh tật, tranh đấu, phá tài, v.v. Người gặp sao này nên thận trọng khi đi băng qua khe nước, nên tìn đường vòng mà đi.
(7) Tuế Phá (歲破), bài kệ rằng: “Tuế Phá nhập mạng lai, nhật nguyệt phá tiền tài, lục súc hữu tổn thất, hợp gia vĩnh vô tai (歲破入命來、日月破錢財、六畜有損失、合家永無災, Tuế Phá gặp mạng đây, trời trăng phá tiền tài, gia súc có tổn thất, cả nhà hết ương tai).” Tuế Phá có nghĩa là xung phá Thái Tuế, chủ yếu làm hao phá tài vật cũng như trong nhà nhiều tai họa kéo dài trong nữa năm.
(8) Nguyệt Đức (月德), bài kệ rằng: “Nguyệt Đức nhập mạng lai, tứ quý tấn hoành tài, tại gia dã vô sự, xuất lộ dã vô tai (月德入命來、四季進橫財、在家也無事、出路也無災, Nguyệt Đức gặp mạng đây, bốn mùa thêm tiền tài, trong nhà cũng vô sự, ra đường chẳng hung tai).” Sao này chủ yếu là đức của người lớn, được gọi là Long Đức (龍德), nhờ bố thí, làm việc thiện tạo lợi lạc, trăm việc gặp xấu hóa thành tốt.
(9) Bạch Hổ (白虎), bài kệ rằng: “Bạch Hổ khiếu nhai nhai, nhân đinh tổn huyết tài, ngưu sự tài quá khứ, mã sự hựu tấn lai (白虎叫涯涯、人丁損血財、牛事才過去、馬事又進來, Bạch Hổ kêu hoài hoài, người thêm tổn tiền tài, chuyện trâu về quá khứ, chuyện ngựa lại về đây).” Sao này chủ yếu có tai họa về tang lễ, phá tài, họa về xe cộ, thương tật; nếu có hóa giải thì sẽ nhẹ bớt; nếu không hóa giải thì quá xấu.
(10) Phước Đức (福德), bài kệ rằng: “Phước Đức nhập mạng du, niên nguyệt tấn tứ ngưu, thiêm hộ tinh tấn khẩu, tài hỷ lưỡng toàn chu (福德入命遊、年月進四牛、添戶並進口、財喜兩全週, Phước Đức đến mạng chơi, năm tháng tăng bò trâu, thêm nhà lại thêm người, tài vui cả hai tròn).” Sao này chủ yếu tốt đẹp, hanh thông, vui vẻ, có thiên tướng, được trời phù hộ, đến đâu gặp xấu hóa tốt, đại thành công.
(11) Điếu Khách (吊客), bài kệ rằng: “Điếu Khách nhập mạng hung, nội ngoại hiếu phục phùng, quan tai tinh nùng huyết, tiểu khẩu đa tao độn (吊客入命凶、內外孝服逢、官災並濃血、小口多遭迍, Điếu Khách đến mạng hung, trong ngoài tang phục chung, tai vạ máu loang chảy, thận trọng miệng tiếng tăm).” Sao này chủ yếu về tang phục, chuyện hung tai, bệnh tật, lo buồn khóc than, trộm cắp, tai nạn về cốt nhục.
(12) Bệnh Phù (病符), bài kệ rằng: “Bệnh Phù nhập mạng hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ phục hữu hình khắc, tác phước miễn tai ương (病符入命凶、孝服重重逢、父服有刑剋、作福免災殃, Bệnh Phù đến mạng hung, tang phục lại trùng phùng, thân phụ mang hình phạt, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu bệnh kéo dài lâu, trong một năm hay vài tháng, kỵ thấy xe tang hoặc ăn các đồ tang lễ, nên cúng tế thì có thể giải được.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập