Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lục Thú »»

(朱雀):
(1) Tên của một loại thần điểu, như trong Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) quyển 7 có câu: “Tứ phương thủ tượng, Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; duy Châu Tước mạc tri hà vật, đản vị điểu nhi châu giả, vũ tộc xích tường thượng, tập tất phụ mộc, thử hỏa chi tượng dã; hoặc vị chi trường cầm (四方取象、蒼龍、白虎、朱雀、龜蛇、唯朱雀莫知何物、但謂鳥而朱者、羽族赤而翔上、集必附木、此火之象也、或謂之長离, bốn phương có các hình tượng là Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; chỉ có Châu Tước không biết thuộc vật nào; có người bảo rằng chim màu đỏ là loại có lông đỏ mà bay liệng trên cao; khi tập trung thì nương vào cây; loại này tượng trưng cho lửa; hoặc bảo nó là loài chim dài).”
(2) Tên gọi chung của bảy ngôi sao ở phương Nam, gồm: Tỉnh (井), Quỷ (鬼), Liễu (柳), Tinh (星), Trương (張), Dực (翼) và Chẩn (軫). Cho nên, trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Nam Phương Châu Thôi Tinh Quân (南方朱崔星君) là Tỉnh Tú Thiên Tỉnh Tinh Quân, Quỷ Tú Thiên Quỹ Tinh Quân, Liễu Tú Thiên Trù Tinh Quân, Tinh Tú Thiên Khố Tinh Quân, Trương Tú Thiên Bình Tinh Quân, Dực Tú Thiên Đô Tinh Quân, Chẩn Tú Thiên Nhai Tinh Quân (井宿天井星君、鬼宿天匱星君、柳宿天廚星君、星宿天庫星君、張宿天秤星君、翼宿天都星君、軫宿天街星君).
(3) Một trong Tứ Linh (四靈), là vị thần thủ hộ phương Nam trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, còn gọi là Châu Điểu (朱鳥), cũng gọi là Phụng Hoàng (鳳凰) hay Huyền Điểu (玄鳥). Châu là màu đỏ, tượng trưng cho lửa, phương Nam thuộc lửa, nên có tên Phụng Hoàng. Châu Tước cũng thuộc một dạng của Bất Tử Điểu (不死鳥) ở phương Tây, vì vậy có tên là Khiếu Hỏa Phụng Hoàng (叫火鳳凰). Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) của Đạo Giáo có đề cập đến hiệu của Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君).” Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Nam phương Châu Thôi, tùng cầm chi trưởng, đan huyệt hóa sanh, bích lôi lưu hưởng, kỳ thái ngũ sắc, thần nghi Lục Tượng, lai đạo ngã tiền (南方朱崔、從禽之長、丹穴化生、碧雷流響、奇彩五色、神儀六象、來導吾前, Châu Thôi phương Nam, từ loài chim lớn lên, hóa sanh trong hang đỏ, sấm xanh vang tiếng, năm sắc kỳ diệu, dung nghi vượt Sáu Loài, dẫn đến trước ta).” Đạo Giáo dùng tên Châu Tước làm thuật ngữ luyện đan, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Châu Thôi giả, Nam phương Bính Đinh Hỏa Chu Sa dã; bào dịch thành long, kết khi thành điểu; kỳ khí đằng nhi vi thiên, kỳ chất trận nhi vi địa; sở dĩ vi đại đan chi bổn dã; kiến hỏa tức phi, cố đắc Châu Thôi chi xưng dã; Thanh Long đích phương vị thị Đông, đại biểu Xuân quý; Bạch Hổ đích phương vị thị Tây, đại biểu Thu quý; Châu Tước đích phương vị thị Nam, đại biểu Hạ quý; Huyền Võ đích phương vị thị Bắc, đại biểu Đông quý (朱崔者、南方丙丁火朱砂也、刨液成龍、結氣成鳥、其氣騰而爲天、其質陣而爲地、所以爲大丹之本也、見火卽飛、故得朱崔之稱也、青龍的方位是東、代表春季、白虎的方位是西、代表秋季、朱雀的方位是南、代表夏季、玄武的方位是北、代表冬季, Châu Thôi là Chu Sa, Bính Đinh, thuộc Hỏa; biến chất dịch thành rồng, kết khí thành chim; khí của nó bốc lên làm trời, chất của nó dàn trận thành đất, nên được gọi là nguồn gốc của màu đỏ huyết; thấy lửa thì bay, nên có tên gọi Châu Thôi; phương vị của Thanh Long là Đông, đại diện cho mùa Xuân; phương vị của Bạch Hổ là Tây, đại diện cho mùa Thu; phương vị của Châu Tước là Nam, đại diện cho mùa Hạ; phương vị của Huyền Võ là Bắc, đại diện cho mùa Đông).”
(4) Tên gọi của một trong Lục Thú (六獸) hay Lục Thần (六神), gồm: Thanh Long (青龍), Châu Tước (朱雀), Câu Trần (勾陳), Đằng Xà (騰蛇), Bạch Hổ (白虎) và Huyền Võ (玄武).
(5) Tên của một trong 12 vị Thiên Tướng, gồm: Thanh Long (青龍), Bạch Hổ (白虎), Huyền Võ (玄武), Châu Tước (朱雀), Quý Nhân (貴人), Đằng Xà (螣蛇), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Thiên Không (天空), Thái Thường (太常), Thái Âm (太陰) và Thiên Hậu (天后). (6) Tên gọi của một trong 8 vị thần, gồm: Trực Phù (直符), Đằng Xà (螣蛇), Thái Âm (太陰), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Châu Tước (朱雀), Cửu Địa (九地) và Cửu Thiên (九天).
(檀林, danrin): nguyên lai, nó là từ gọi tắt của Chiên Đàn Lâm (旃檀林), nơi chúng tăng hòa hợp, tập trung tu hành; thường chỉ cho tự viện; cho nên nó cũng là tên gọi khác của tự viện Phật Giáo. Về sau, nó trở thành cơ sở học vấn của Phật Giáo, vì tính chất cũng như cơ năng của nó giống như Học Lâm (學林), Học Liêu (學寮). Tại Nhật Bản, Đàn Lâm Viện (檀林院) được xây dựng vào năm thứ 3 (853) niên hiệu Nhân Thọ (仁壽) được xem như là tiền thân đầu tiên của Đàn Lâm. Đến thời đại Đức Xuyên (德川, Tokugawa), các tông phái bắt đầu thiết kế những cơ sở học vấn Đàn Lâm và Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm (關東十八檀林, 18 cơ sở học vấn Đàn Lâm ở vùng Quan Đông) là tiêu biểu, nổi tiếng nhất. Riêng Tào Động Tông, trong khuôn viên của Cát Tường Tự (吉祥寺, Kichijō-ji) ở Giang Hộ (江戸, Edo) có Chiên Đàn Lâm với rất nhiều tăng chúng đến tham học. Tương truyền đến năm thứ 3 (1774) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), nơi đây có đến 641 người. Khoảng vào năm đầu (1624) niên hiệu Khoan Vĩnh, Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm được thành lập, nhưng người hình thành hệ thống là Nguyên Dự Tồn Ứng (源譽存應, Genyō Zonō, 1544-1620), vị tổ đời thứ 12 của Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji). Đây là 18 ngôi tự viện có cơ cấu giáo dục cho tăng sĩ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, gồm:
(1) Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]);
(2) Thắng Nguyện Tự (勝願寺, Shōgan-ji) ở Hồng Sào (鴻巢, Konosu, thuộc Saitama-ken [埼玉縣]);
(3) Thường Phước Tự (常福寺, Jōfuku-ji) ở Qua Liên (瓜連, Urizura, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]);
(4) Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji) ở Đông Kinh (東京, Tokyo);
(5) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Phạn Chiểu (飯沼, Iinuma, thuộc Ibaraki-ken);
(6) Đông Tiệm Tự (東漸寺, Tōzen-ji) ở Tùng Hộ (松戸, Maddo, thuộc Chiba-ken [千葉縣]);
(7) Đại Nham Tự (大巖寺, Daigan-ji) ở Thiên Diệp (千葉, Chiba, thuộc Chiba-ken);
(8) Liên Hinh Tự (蓮馨寺, Renkei-ji) ở Xuyên Việt (川越, Kawagoe, thuộc Saitama-ken);
(9) Đại Thiện Tự (大善寺, Daizen-ji) ở Bát Vương Tử (八王子, Hachiōji, thuộc Tokyo);
(10) Tịnh Quốc Tự (淨國寺, Jōkoku-ji) ở Nham Quy (岩槻, Iwatsuki, thuộc Saitama-ken);
(11) Đại Niệm Tự (大念寺, Dainen-ji) ở Đạo Phu (稻敷, Inashiki, thuộc Ibaraki-ken);
(12) Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji) ở Quán Lâm (館林, Tatebayashi, thuộc Gunma-ken [群馬縣]);
(13) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Thường Tổng (常總, Jōsō, thuộc Ibaraki-ken);
(14) Linh Sơn Tự (靈山寺, Reizan-ji) ở Mặc Điền (墨田, Sumida, thuộc Tokyo);
(15) Phan Tùy Viện (幡隨院, Banzui-in) ở Tiểu Kim Tỉnh (小金井, Koganei, thuộc Tokyo);
(16) Truyền Thông Viện (傳通院, Denzū-in) ở Văn Kinh (文京, Bunkyō, thuộc Tokyo);
(17) Đại Quang Viện (大光院, Daikō-in) ở Thái Đa (太田, Ōta, thuộc Gunma-ken);
(18) Linh Nham Tự (靈巖寺, Reigan-ji) ở Thâm Xuyên (深川, Fukagawa, thuộc Tokyo).
Trong Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Nghi (孔雀尊經科儀) có câu: “Chiên Đàn Lâm nội lục thù giá trọng ư Ta Bà, Cấp Cô Viên trung nhất chú thông tân ư Linh Thứu, cổ chế bàn toàn thanh thoại khí, ngọc lô liêu nhiễu bích tường vân, ngã kim nhiệt xử hiến Như Lai, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (旃檀林內六銖價重於娑婆、給孤園中一炷通津於靈鷲、古晢盤旋清瑞氣、玉爐繚遶碧祥雲、我今熱處獻如來、唯願慈悲哀納受, trong Chiên Đàn Lâm sáu cây giá nặng bằng Ta Bà, nơi Vườn Cấp Cô một nén hương xông tận Linh Thứu, sao xưa xoay chuyển trong lành khí, lò ngọc tỏa vờn mây xanh thiêng, con nay đốt lên cúng Như Lai, cúi mong từ bi thương lãnh thọ).” Hay trong Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713) cũng có câu: “Chiên Đàn Lâm vô tạp thọ, uất mật sum trầm sư tử trú, cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du, tẩu thú phi cầm giai viễn khứ (旃檀林無雜樹、鬱密森沉師子住、境靜林間獨自遊、走獸飛禽皆遠去, Chiên Đàn Lâm chẳng cây tạp, rừng rậm thâm u sư tử sống, cảnh vắng non nhàn mặc ngao du, thú chạy chim bay đều xa lánh).”
(s: naraka, niraya, p: niraya, 地獄): âm dịch là Nại Lạc Ca (捺落迦), Na Lạc Ca (那落迦), Nại Lạc (奈落), Nê Lê Da (泥犁耶), Nê Lê (泥犁); ý dịch là Bất Lạc (不樂), Khả Yếm (可厭), Khổ Cụ (苦具), Khổ Khí (苦器), Vô Hữu (無有); là một trong Ngũ Thú (五趣), Lục Thú (六趣), Ngũ Đạo (五道), Lục Đạo (六道), Thất Hữu (七有), Thập Giới (十界); cho nên có tên gọi là Địa Ngục Đạo (地獄道), Địa Ngục Thú (地獄趣), Địa Ngục Hữu (地獄有), Địa Ngục Giới (地獄界). Địa Ngục hay Âm Gian (陰間) được con người xem như là địa phương nơi linh hồn người chết sẽ trở về sau khi từ giã cõi đời này. Quan niệm về Địa Ngục phân bố thế giới rộng hay hẹp tùy theo quan niệm tín ngưỡng của mỗi tôn giác khác nhau. Theo Phật Giáo, Địa Ngục được chia thành như sau: (1) Tám Địa Ngục Lớn, còn gọi là Tám Địa Ngục Nóng (八熱地獄, Bát Nhiệt Địa Ngục), gồm: Đẳng Hoạt (s: sañjīva, 等活), Hắc Thằng (s: kālasūtra, 黒繩), Chúng Hợp (s: saṅghāta, 眾合), Khiếu Hoán (s: raurava, 叫喚, hay Hiệu Khiếu [號叫]), Địa Khiếu Hoán (s: mahāraurava, 大叫喚, hay Đại Khiếu [大叫]), Tiêu Nhiệt (s: tapana, 焦熱, hay Viêm Nhiệt [炎熱]), Đại Tiêu Nhiệt (s: pratapana, 大焦熱), A Tỳ (s: avīci, 阿鼻, hay Vô Gián [無間], A Tỳ Chỉ [阿鼻旨], Bát Vạn [八萬]). (2) Tám Địa Ngục Lạnh (八寒地獄, Bát Hàn Địa Ngục), gồm: Át Bộ Đà (s: arbuda, 頞部陀), Ni Lạt Bộ Đà (s: nirarbuda, 尼剌部陀), Át Chiết Tra (s: aṭaṭa, 頞哳吒, hay A Tra Tra [阿吒吒]), Hoắc Hoắc Bà (s: hahava, 臛臛婆, hay A Ba Ba [阿波波]), Hổ Hổ Bà (s: huhuva, 虎虎婆), Miệt Bát La (s: utpala, 嗢鉢羅), Bát Đặc Ma (s: padma, 鉢特摩), Ma Ha Bát Đặc Ma (s: mahāpadma, 摩訶鉢特摩). Ngoài ra, trong Tám Địa Ngục Lớn ấy, mỗi Địa Ngục đều có 16 Địa Ngục quyến thuộc (tức 16 Địa Ngục nhỏ), hợp cả Địa Ngục lớn và nhỏ lại, tổng cọng có 136 Địa Ngục. Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) quyển 5 có nêu rõ 18 loại Địa Ngục nhỏ như 18 Địa Ngục Lạnh (十八寒地獄, Thập Bát Hàn Địa Ngục), 18 Địa Ngục Tối Tăm (十八黑闇地獄, Thập Bát Hắc Ám Địa Ngục), 18 Địa Ngục Nóng Ít (十八小熱地獄, Thập Bát Tiểu Nhiệt Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Đao (十八刀輪地獄, Thập Bát Đao Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vòng Tròn Kiếm (十八劍輪地獄, Thập Bát Kiếm Luân Địa Ngục), 18 Địa Ngục Xe Lửa (十八火車地獄, Thập Bát Hỏa Xa Địa Ngục), 18 Địa Ngục Phân Sôi (十八沸屎地獄, Thập Bát Phí Thỉ Địa Ngục), 18 Địa Ngục Vạc Nước Sôi (十八鑊湯地獄, Thập Bát Hoạch Thang Địa Ngục), 18 Địa Ngục Sông Tro (十八灰河地獄, Thập Bát Hôi Hà Địa Ngục), 18 Địa Ngục Đá Nhọn (十八尖石地獄, Thập Bát Tiêm Thạch Địa Ngục), 18 Địa Ngục Hang Thép (十八鐵窟地獄, Thập Bát Thiết Quật Địa Ngục), 18 Địa Ngục Uống Nước Đồng (十八飲銅地獄, Thập Bát Ẩm Đồng Địa Ngục), v.v. Có 5 ý nghĩa về từ Vô Gián: (1) Thú Quả Vô Gián (趣果無間, chiêu thọ nghiệp quả không qua đời khác, tức báo ứng ngay đời này); (2) Thọ Khổ Vô Gián (受苦無間, chịu khổ không gián đoạn); (3) Thời Vô Gián (時無間, trong một kiếp, chịu khổ báo không gián đoạn); (4) Mạng Vô Gián (命無間, thọ mạng chịu khổ liên tục, không gián đoạn); (5) Hình Vô Gián (形無間, thân hình của chúng sanh và sự lớn nhỏ của Địa Ngục tương đồng mà không có kẻ hở). Do chúng sanh tạo các loại nghiệp nhân bất đồng, mỗi loại Địa Ngục chiêu cảm quả báo bất đồng. Về vị trí của Địa Ngục, có 3 thuyết khác nhau: (1) Theo Trường A Hàm Kinh (長阿含經) quyển 19, Đại Lâu Thán Kinh (大樓炭經) quyển 2, Phẩm Nê Lê (泥犁品), Địa Ngục nằm chung quanh biển lớn, trong khoảng giữa của Đại Kim Cang Sơn và Đại Kim Cang Sơn thứ hai. (2) Theo Lập Thế A Tỳ Đàm Luận (立世阿毘曇論) quyển 1, Địa Động Phẩm (地動品), Địa Ngục nằm ngoài Thiết Vi Sơn (s: Cakravāḍa-parvata, p: Cakkavāḷa-pabbata, 鐵圍山), chỗ hẹp nhất là 80.000 do tuần; chỗ rộng nhất là 160.000 do tuần. (3) Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 172, Câu Xá Luận (具舍論) quyển 11, v.v., Vô Gián Địa Ngục nằm cách khoảng 20.000 do tuần dưới Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲); các Địa Ngục khác nằm chồng chất lên nhau theo thứ tự, hay nằm một bên. Hơn nữa, còn có Cô Địa Ngục (孤地獄), Biên Địa Ngục (邊地獄), không lệ thuộc vào các Địa Ngục lớn nhỏ bên trên, hoặc nằm trong Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲), bên sông núi, hay dưới lòng đất, trên không, v.v. Trong Di Sơn Nhiên Thiền Sư Phát Nguyện Văn (怡山然禪師發願文) của Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō No. 2023) quyển 6 có đoạn rằng: “Nê Lê khổ thú, Ngạ Quỷ đạo trung; hoặc phóng đại quang minh, hoặc kiến chư thần biến, kỳ hữu kiến ngã tướng, nãi chí văn ngã danh, giai phát Bồ Đề tâm, vĩnh xuất luân hồi khổ (泥犁苦趣餓鬼道中、或放大光明、或見諸神變、其有見我相、乃至聞我名、皆發菩提心、永出輪迴苦, Địa Ngục nẻo khổ, Quỷ Đói đường trong; hoặc phóng ánh quang minh, hoặc thấy các thần biến, nếu có thấy tướng ta, cho đến nghe tên ta, đều phát Bồ Đề tâm, mãi ra luân hồi khổ).” Hay trong Thiện Huệ Đại Sĩ Lục (善慧大士錄, CBETA No. 1335) quyển 3, phần Đệ Tứ Chương Minh Tướng Hư Dung (第四章明無相虛融) lại có câu: “Như Lai Pháp Thân vô biệt xứ, phổ thông Tam Giới khổ Nê Lê, Tam Giới Nê Lê bổn phi hữu, vi diệu thùy phục đắc tri hề (如來法身無別處。普通三界苦泥犁。三界泥犁本非有。微玅誰復得知蹊, Như Lai Pháp Thân đâu chốn khác, thông cùng Ba Cõi khổ Nê Lê, Ba Cõi Nê Lê vốn không có, vi diệu ai lại biết nẻo về).” Hoặc như trong Vĩnh Bình Điển Tòa Giáo Huấn (永平典座敎訓) có đoạn: “Ngã nhược sanh Địa Ngục Ngạ Quỷ Súc Sanh Tu La đẳng chi thú, hựu sanh tự dư chi Bát Nạn thú, tuy hữu cầu tăng lực chi phú thân, thủ tự bất khả tác cúng dường Tam Bảo chi tịnh thực (我若生地獄餓鬼畜生修羅等之趣、又生自餘之八難趣、雖有求僧力之覆身、手自不可作供養三寶之淨食, ta nếu sanh vào các đường Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Tu La, hay sanh vào các đường Tám Nạn khác, tuy có cầu năng lực chư tăng che chở thân, nhưng tay không thể tự mình lấy thức ăn thanh tịnh cúng dường Tam Bảo).”
(混跡): trà trộn tung tích, dấu vết, không để lộ rõ ra; tức là hòa mình vào môi trường sống, không thể hiện hành tung của bậc Thánh, mai danh ẩn tích. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 9 có câu: “Tổ ư Nghiệp Đô hóa đạo, Tứ Chúng quy y, phàm tam thập tứ niên, toại thao quang hỗn tích, biến dịch nghi tướng, nhân mạc chi trắc (祖於鄴都化導、四眾皈依、凡三十四年、遂韜光混跡、變易儀相、人莫之測, Tổ [Huệ Khả] hóa đạo ở Nghiệp Đô, Bốn Chúng quy y, được ba mươi bốn năm, bèn mai danh ẩn tích, thay đổi hình tướng, người đời không lường được).” Hay như trong Phật Pháp Kim Thang Biên (佛法金湯編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628) quyển 4, phần Lục Thùy (陸倕) có câu: “Pháp sư tự thuyết tánh Chu danh Bảo Chí, hỗn tích loạn từ, cư vô thường sở, y phục ẩm thực suyễn bác bất hằng, Tống Thái Thỉ trung xuất nhập Chung Sơn (法師自說姓朱名寶誌、混跡亂詞、居無常所、衣服飲食舛駁不恆、宋泰始中出入鍾山, Pháp sư [Lục Thùy] tự bảo họ là Chu, tên Bảo Chí, ẩn tích nói lung tung, sống nơi không cố định, áo quần, ăn uống xuề xòa chẳng bình thường; trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ [466-471] nhà Tống, Pháp sư thường ra vào Chung Sơn).”
(s: ṣaḍ-gati, j: rokudō, 六道): hay còn gọi là Lục Thú (六趣), là 6 thế giới trong đó chúng sanh luân hồi lưu chuyển sanh tử do nghiệp nhân thiện ác mình đã từng tạo ra, gồm có:
(1) Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄),
(2) Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼),
(3) Súc Sanh (s; tiryagoni, p: tiracchāna, 畜生),
(4) Tu La (s, p: asura, 修羅),
(5) Con Người (s: manuṣya, p: manussa, 人間) và
(6) Cõi Trời (s, p: deva, 天).
Cũng có truyền thuyết theo thứ tự Địa Ngục, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và quan điểm gộp chung Tu La vào Địa Ngục để trở thành Ngũ Đạo (五道). Gati vốn phát xuất từ động từ √gam, nguyên ý là “sự đi, con đường”, được dịch là “đạo (道)” hay “thú (趣)”; tuy nhiên, trường hợp Lục Đạo thì có nghĩa là “cảnh giới, trạng thái sinh tồn”. Kết hợp với Tứ Sanh (四生), có dụng ngữ Lục Đạo Tứ Sanh (六道四生). Lục Đạo là tông thể phân loại về 4 hình thức sanh ra gồm thai sanh, thai sanh, thấp sanh và hóa sanh, từ đó nó bao quát hết toàn bộ tồn tại luân hồi. Luân hồi trong Lục Đạo được gọi là Lục Đạo Luân Hồi (六道輪廻). Từ khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc dưới thời Hậu Hán, quan niệm về Luân Hồi và Lục Đạo được tuyên truyền rộng rãi trong xã hội nước này và trở thành tác động to lớn đối với người dân Trung Quốc vốn mang chủ nghĩa hiện thế trung tâm. Đặc biệt, sức mạnh báo động có hình ảnh Địa Ngục đã sản sinh ra những đồ hình biến tướng của Địa Ngục vốn miêu tả thảm cảnh ở cõi này, các Minh Báo Ký (冥報記) lưu truyền những câu chuyện bị đọa xuống Địa Ngục, hay văn học truyền khẩu, v.v; và tạo ảnh hưởng rộng rãi cho mỹ thuật cũng như văn học. Chính Đạo Giáo cũng lấy tư tưởng Lục Đạo của Phật Giáo để hình thành nên quan niệm Lục Đạo tương tợ như vậy. Hơn nữa, quan niệm cho rằng phạm tội ở đời này sẽ bị luân hồi trong Lục Đạo đã trở thành cơ duyên làm cho mọi người thức tỉnh về tội nghiệp của tự thân; cho nên, dưới thời đại Nam Bắc Triều, rất nhiều bản văn sám hối cầu nguyện cho tội lỗi tiêu trừ đã được sáng tác ra. Khi tư tưởng mạt pháp từ cuối thời Nam Bắc Triều cho đến thời Tùy Đường được quảng bá, niềm tin về đức A Di Đà Phật (阿彌陀佛), Địa Tạng (地藏), Quan Âm (觀音) cứu độ chúng sanh thoát khỏi cảnh khổ bị luân hồi trong Lục Đạo trở nên rất thịnh hành. Từ thời Ngũ Đại cho đến nhà Tống, trên các bức bích họa ở động Đôn Hoàng (敦煌) thỉnh thoảng xuất hiện hình Lục Đạo. Trong Thiên Thai Tông, tín ngưỡng về Lục Quan Âm (六觀音) được phối trí theo từng cảnh giới của Lục Đạo cũng khá phổ biến. Tại Nhật Bản, từ Lục Đạo, Địa Ngục, v.v., xuất hiện đầu tiên trong Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記, Nihonryōiki), nếu so sánh thì quan niệm về Lục Đạo rất lạc quan. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 10, theo đà băng hoại của Chế Độ Luật Lịnh, trong những biến động và chiến loạn của xã hội, tư tưởng mạt pháp và quán sát vô thường càng mạnh hơn thêm; từ đó, quan niệm về Lục Đạo trở nên nghiêm trọng hơn. Đặc biệt, trong phần Lục Đạo Giảng Thức (六道講式徃生) của bộ Vãng Sanh Yếu Tập (徃生要集, Ōjōyōshū) cũng như Nhị Thập Ngũ Tam Muội Thức (二十五三昧式), Nguyên Tín (源信, Genshin) có miêu tả về sự khủng khiếp của Lục Đạo và đã tạo ảnh hưởng khá lớn cho văn học cũng như mỹ thuật. Do đó, Bảo Vật Tập (寳物集, Hōbutsushū) nói về nỗi khổ của Lục Đạo và khai thị 12 cửa vãng sanh, Bình Gia Vật Ngữ (平家物語, Heikemonogatari) lấy sự sa thải của Lục Đạo trong Quán Đảnh Quyển (灌頂巻) để làm nội dung cho toàn quyển, hay Phương Trượng Ký (方丈記, Hōjōki) làm cho liên tưởng đến những nghiệp khổ trong ác đạo thông qua các thiên tai như hỏa tai, gió lớn, nghèo đói, động đất, v.v., đều là những tác phẩm có ảnh hưởng sâu đến tư tưởng Lục Đạo. Mặt khác, từ giữa và cuối thời Bình An trở đi, các bức tranh bình phong cũng như tranh vẽ về Lục Đạo được phổ biến rộng rãi. Hiện còn lại một số tác phẩm tiêu biểu như Địa Ngục Thảo Chỉ (地獄草紙, Jigokusōshi), Ngạ Quỷ Thảo Chỉ (餓鬼草紙, Gakisōshi), Bệnh Thảo Chỉ (病草紙, Yamaisōshi), v.v., thuộc hậu bán thế kỷ 12. Hơn nữa, vào thời kỳ biến động và chiến loạn, tín ngưỡng về Lục Quan Âm cũng như Địa Tạng phát triển rộng khắp. Đặc biệt, Địa Tạng được gọi là “bậc có thể hóa độ chốn Lục Đạo”, đến thế kỷ thứ 11 thì tín ngưỡng Lục Địa Tạng cho rằng ngài có mặt khắp các cõi để cứu độ hết thảy chúng sanh, được hình thành. Đến cuối thời Liêm Thương trở đi, kết hợp với Thần Tạ Ơn, Thần Tổ Đạo, tại các ngã tư đường cũng như cửa vào mộ địa, người ta có đặt 6 bức tượng Địa Tạng. Những ngã tư như vậy được xem như là nơi người chết phân chia theo sáu đường, cho nên có tên gọi là “Ngã Tư Lục Đạo”. Như trong Phật Thuyết Dự Tu Thập Vương Sanh Thất Kinh (佛說預修十王生七經, CBETA No. 21) có câu: “Bi tăng phổ hóa thị uy linh, Lục Đạo luân hồi bất tạm đình, giáo hóa yếm khổ tư an lạc, cố hiện Diêm La Thiên Tử hình (悲增普化示威靈、六道輪迴不暫停、敎化厭苦思安樂、故現閻羅天子形, buồn thêm hóa độ hiện oai linh, sáu nẻo luân hồi chẳng tạm dừng, giáo hóa bỏ khổ vui an lạc, nên hiện Diêm La Thiên Tử hình).”
(南陽和上頓敎解脫禪門直了性壇語, Nanyōwajōtonkyōgedatsuzemmonjikiryōshōdango): 1 quyển, do Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會) soạn, gọi tắt là Đàn Ngữ (壇語). Đây là ký lục thuyết pháp của Thần Hội tại giới đàn cho chúng đạo tục ở Long Hưng Tự (龍興寺) vùng Nam Dương (南陽) từ năm thứ 6 (718) niên hiệu Khai Nguyên (開元) trở đi. Nó thể hiện tư tưởng thời kỳ đầu của Thần Hội và có mối quan hệ mật thiết với Lục Tổ Đàn Kinh (六祖壇經). Bản Đôn Hoàng có ký số S2492, S7977, P2045, Bắc Kinh Bản Hàn Tự (北京本寒字) 81, Tàng Bản của Nhiệm Tử Nghi (任子宜).
(s: preta, p: peta, 餓鬼): quỷ đói, ma đói; âm dịch là Bế Lệ Đa (薜荔多、閉戾多), Tỉ Lễ Đa (俾禮多), Ti Lợi Đa (卑利多), Di Lệ Đa (彌荔多), Bế Đa (閉多); là một loại trong Tam Đồ (三途, Ba Đường), Ngũ Thú (五趣, Năm Cõi) hay Lục Thú (五趣, Sáu Cõi). Người nào đời trước tạo ác nghiệp, nhiều ham muốn, sau khi chết sẽ đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ sở vì đói khát. Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經, Taishō Vol. 17, No. 721) quyển 16, Phẩm Ngạ Quỷ (餓鬼品), cho biết rằng trú xứ của Ngạ Quỷ có hai nơi: một là trong cõi người, hai là tại thế giới Ngạ Quỷ cách 500 Do Tuần dưới lòng đất cõi Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提). Kinh điển này và Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 6, phần Liệt Số Bộ (列數部) thứ 4 cũng có nêu ra tên 36 loại Ngạ Quỷ. (1) Ca Bà Ly (迦婆離), Hoạch Thân Ngạ Quỷ (鑊身餓鬼, Ngạ Quỷ thân cái vạc nước sôi); (2) Tô Chi Mục Khư (甦支目佉), Châm Khẩu Ngạ Quỷ (針口餓鬼, Ngạ Quỷ miệng nhỏ như cây kim); (3) Bàn Đa Bà Xoa (槃多婆叉), Thực Thổ Ngạ Quỷ (食吐餓鬼, Ngạ Quỷ ăn vào nôn mữa ra); (4) Tỳ Sư Tha (毘師咃), Thực Phẩn Ngạ Quỷ (食糞餓鬼, Ngạ Quỷ ăn phân); (5) A Bà Xoa (阿婆叉), Vô Thực Ngạ Quỷ (無食餓鬼, Ngạ Quỷ không ăn được gì cả); (6) Kiền Đà (揵陀), Thực Khí Ngạ Quỷ (食氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn hơi); (7) Đạt Ma Bà Xoa (達摩婆叉), Thực Pháp Ngạ Quỷ (食法餓鬼, Ngạ Quỷ ăn pháp); (8) Bà Lợi Lam (婆利藍), Thực Thủy Ngạ Quỷ (食水餓鬼, Ngạ Quỷ ăn nước); (9) A Xa Ca (阿賒迦), Hy Vọng Ngạ Quỷ (悕望餓鬼, Ngạ Quỷ hy vọng); (10) Xí Tra (企吒), Thực Thùy Ngạ Quỷ (食唾餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ khạc nhổ); (11) Ma La Bà Xoa (摩羅婆叉), Thực Man Ngạ Quỷ (食鬘餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tràng hoa); (12) Ra Ngật Tra (囉訖吒), Thực Huyết Ngạ Quỷ (食血餓鬼, Ngạ Quỷ ăn máu); (13) Mông Ta Bà Xoa (瞢娑婆叉), Thực Nhục Ngạ Quỷ (食肉餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt); (14) Tô Kiện Đà (蘇揵陀), Thực Hương Yên Ngạ Quỷ (食香煙餓鬼, Ngạ Quỷ ăn khói nhang); (15) A Tỳ Già La (阿毘遮羅), Tật Hành Ngạ Quỷ (疾行餓鬼, Ngạ Quỷ chạy nhanh); (16) Xi Đà La (蚩陀邏), Tứ Tiện Ngạ Quỷ (伺便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình đại tiểu tiện); (17) Ba Đa La (波多羅), Địa Hạ Ngạ Quỷ (地下餓鬼, Ngạ Quỷ sống dưới lòng đất); (18) Hĩ Lợi Đề (矣利提), Thần Thông Ngạ Quỷ (神通餓鬼, Ngạ Quỷ có thần thông); (19) Xà Bà Lệ (闍婆隸), Xí Nhiên Ngạ Quỷ (熾燃餓鬼, Ngạ Quỷ bốc cháy); (20) Si Đà La (蚩陀羅), Tứ Anh Nhi Tiện Ngạ Quỷ (伺嬰兒便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình con nít đại tiểu tiện); (21) Ca Ma (迦摩), Dục Sắc Ngạ Quỷ (欲色餓鬼, Ngạ Quỷ ham sắc dục); (22) Mâu Đà La Đề Ba (牟陀羅提波), Hải Chử Ngạ Quỷ (海渚餓鬼, Ngạ Quỷ sống ở cồn biển); (23) Diêm La Vương Sứ (閻羅王使), Chấp Trượng Ngạ Quỷ (執杖餓鬼, Ngạ Quỷ cầm gậy); (24) Bà La Bà Xoa (婆羅婆叉), Thực Tiểu Nhi Ngạ Quỷ (食小兒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt con nít); (25) Ô Thù Bà Xoa (烏殊婆叉), Thực Nhân Tinh Khí Ngạ Quỷ (食人精氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tinh khí người); (26) Bà La Môn La Sát Ngạ Quỷ (婆羅門羅剎餓鬼, Ngạ Quỷ La Sát Bà La Môn), (27) Quân Trà Hỏa Lô (君茶火爐), Thiêu Thực Ngạ Quỷ (燒食餓鬼, Ngạ Quỷ ăn lửa cháy); (28) A Du Bà Ra Tha (阿輸婆囉他), Bất Tịnh Hạng Mạch Ngạ Quỷ (不淨巷陌餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ bất tịnh nơi đường hẽm, bờ ruộng); (29) Bà Di Bà Xoa (婆移婆叉), Thực Phong Ngạ Quỷ (食風餓鬼, Ngạ Quỷ ăn gió); (30) Ương Già Ra Bà Xoa (鴦伽囉婆叉), Thực Hỏa Thán Ngạ Quỷ (食火炭餓鬼, Ngạ Quỷ ăn than); (31) Tỳ Sa Bà Xoa (毘沙婆叉), Thực Độc Ngạ Quỷ (食毒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn chất độc); (32) A Tra Tỳ (阿吒毘), Khoáng Dã Ngạ Quỷ (曠野餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đồng trống); (33) Xa Ma Xá La (賒摩舍羅), Trũng Gian Trú Thực Nhiệt Hôi Thổ Ngạ Quỷ (塚間住食熱灰土餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi gò mã ăn tro đất nóng); (34) Tỳ Lợi Sai Thọ Trung Trú Ngạ Quỷ (毘利差樹中住餓鬼, Ngạ Quỷ sống trong cây Tỳ Lợi Sai); (35) Già Đa Bà Tha (遮多波他), Tứ Giao Đạo Ngạ Quỷ (四交道餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đường giao thông); và (36) Ma La Ca Da (魔羅迦耶), Sát Thân Ngạ Quỷ (殺身餓鬼, Ngạ Quỷ giết thân). Trong tác phẩm Pháp Tánh Tức Phật Tánh Luận (法性卽佛性論) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh có đoạn: “Tự Phật tri kiến, nãi chí Địa Ngục tri kiến, giai biến nhất thiết xứ, nhữ khai Ngạ Quỷ tri kiến, quỷ pháp giới biến nhất thiết xứ (自佛知見、乃至地獄知見、皆遍一切處、汝開餓鬼知見、鬼法界遍一切處, từ tri kiến của Phật, cho đến tri kiến Địa Ngục, đều biến khắp tất cả nơi chốn, ngươi khai mở tri kiến Ngạ Quỷ, pháp giới quỷ biến khắp tất cả mọi nơi).” Trong Thiền môn có bài tán liên quan đến Ngạ Quỷ rằng: “Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ thị họa tiên, A Nan bạch Kim Tiên, diễn thuyết chơn thuyên, thanh lương trừ hỏa diệm (面然大士、觀音化現、救度餓鬼示禍先、阿難白金仙、演說眞詮、清涼除火燄, Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ hiện tai ương, A Nan thưa Kim Tiên, diễn thuyết chân lý, mát tươi trừ lửa nóng).”
(酆都): chỉ cho nơi trú ngụ ở quỷ thần. Như trong Tây Dương Tạp Trở (酉陽雜俎), phần Ngọc Cách (玉格), của Đoàn Thành Thức (段成式, 803?-863) nhà Đường, giải thích rằng: “Hữu La Phong Sơn, tại Bắc phương Quý địa, chu hồi tam vạn lí, cao nhị thiên lục bách lí, động thiên lục cung, chu nhất vạn lí, cao nhị thiên lục bách lí, thị vi Lục Thiên quỷ thần chi cung … tử nhân giai chí kỳ trung (有羅酆山、在北方癸地、周迴三萬里、高二千六百里、洞天六宮、周一萬里、高二千六百里、是爲六天鬼神之宮…人死皆至其中, có La Phong Sơn, tại phương Bắc đất Bắc, chu vi ba vạn dặm, cao hai ngàn sáu trăm dặm, động trời sáu cung, chu vi một vạn dặm, cao hai ngàn sáu trăm dặm, chính là sáu cung quỷ thần, … người chết đều đến các cung này).” Nguyên lai, từ Phong Đô được dùng để chỉ cho La Phong Sơn, nơi ngự trị của quỷ thần; nhưng về sau được dùng để ám chỉ Huyện Phong Đô (豐都縣) ở Tỉnh Tứ Xuyên (四川省). Trong tác phẩm Trà Hương Thất Tùng Sao (茶香室叢鈔), phần Phong Đô Âm Quân (酆都陰君), của Du Việt (兪樾, 1821-1907) nhà Thanh, còn cho biết rằng: “Phong Đô Huyện Bình Đô Sơn vi Đạo thư thấp thập nhị phước địa chi nhất, nghi vi thần tiên quật trạch, nhi thế nãi truyền vi quỷ bá sở cư, thù bất khả giải (酆都縣平都山爲道書七十二福地之一、宜爲神仙窟宅、而世乃傳爲鬼伯所居、殊不可解, Bình Đô Sơn ở Huyện Phong Đô là một trong 72 vùng đất phước của Đạo Giáo, có lẽ là nhà cửa hang động của thần tiên, mà thế gian tương truyền là nơi quỷ thần cư trú, thật lạ không hiểu được).” Trong Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú (地藏本願經科註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 384) quyển 4 có liệt kê tên một số quan viên dưới Địa Ngục như: “Đông Nhạc Phủ Hữu Thái Bảo, Truy Nhiếp Sinh Hồn Ngạc Nguyên Soái, Truy Nhiếp Tử Hồn Mạnh Nguyên Soái, Phong Đô Cửu Khúc Truy Hồn Trảm Quỷ Vi Nguyên Soái (東嶽府有太保、追攝生魂鄂元帥、追攝死魂孟元帥、酆都九曲追魂斬鬼韋元帥).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) có đoạn rằng: “Phong Đô giới nội Minh Phủ Thập Điện Từ Vương, Tam Đồ Lục Thú Bát Nạn Tứ Sanh chư hữu tình chúng, thống Tam Giới nhược u nhược hiển, biến thập phương nãi thánh nãi phàm (酆都界內冥府十殿慈王、三塗六趣八難四生諸有情眾、統三界若幽若顯、遍十方乃聖乃凡, trong cõi Phong Đô Minh Phủ Thập Điện Từ Vương, Ba Đường Sáu Nẻo Tám Nạn Bốn Loài các chúng hữu tình, thống lãnh Ba Cõi hoặc ẩn hoặc hiện, biến khắp mười phương ấy thánh ấy phàm).”
(蟾光): tức chỉ cho ánh sáng mặt trăng, vì trong văn hóa cổ đại của Trung Quốc thường lấy con thiềm thừ (蟾蜍, con cóc) để thay thế cho mặt trăng. Cho nên cổ nhân thường dùng từ “ngân thiềm quang mãn (銀蟾光滿, trăng bạc sáng tròn).” Đạo Giáo Trung Quốc dùng chữ thiềm quang để chỉ cho huệ quang (慧光, ánh sáng trí tuệ); còn Khí Công thì chỉ cho ánh sáng vàng ròng. Trong bài thơ Khê Thượng Nguyệt (溪上月) của thi tăng Kiểu Nhiên (皎然, ?-?) nhà Đường có câu: “Thiềm quang tán phố tự, tố ảnh động luân liên (蟾光散浦溆、素影動淪漣, ánh trăng tan bến nước, bóng trắng động sóng chìm).” Hay như trong bài từ Tình Cửu Trường (情久長) của Lữ Vị Lão (呂渭老, ?-?) nhà Tống có đoạn: “Tuế hoa mộ, thiềm quang xạ tuyết, bích ngõa phiêu sương, trần bất động, hàn vô tế (歲華暮、蟾光射雪、碧瓦飄霜、塵不動、寒無際, dịp cuối năm, ánh trăng bắn tuyết, ngói biếc bay sương, bụi chẳng động, lạnh vô cùng).” Trong bài Túy Bồng Lai Cửu Nguyệt Thập Bát Nhật Tây Quắc Lưu Thị Tiếu (醉蓬萊九月十八日西虢劉氏醮) của Khưu Xứ Cơ (丘處機, 1148-1227) nhà Nguyên có câu: “Nhạn ảnh trầm sa, thiềm quang chiếu dạ, huân huân đồng túy (雁影沉沙、蟾光照夜、醺醺同醉, bóng nhạn chìm cát, ánh trăng chiếu đêm, vui vẻ say mèn).” Bản Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chí Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 7 cũng có đoạn: “Thanh sơn lục thủy, dữ ngã hà thù, kim sanh Lệ thủy, thiềm quang mãn thái hư (青山綠水、與我何殊、金生麗水、蟾光滿太虛, núi xanh nước biếc, cùng ta khác gì, vàng sanh sông Lệ, ánh trăng khắp hư không).” Hoặc như trong Chứng Đạo Ca Tụng (證道歌頌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1291) lại có câu: “Lục Độ vạn hạnh thể trung viên, chân thể vô lao biện đồng biệt, vạn thủy thiềm quang nhậm khứ lưu, kiểu kiểu thiên tâm duy nhất nguyệt (六度萬行體中圓、眞體無勞辨同別、萬水蟾光任去留、皎皎天心唯一月, Sáu Độ muôn hạnh thể tròn đầy, thật thể chẳng cần phân khác giống, muôn dòng trăng sáng mặc cuốn trôi, vằng vặc giữa trời trăng một đóa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập