Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Hãy lắng nghe trước khi nói. Hãy suy ngẫm trước khi viết. Hãy kiếm tiền trước khi tiêu pha. Hãy dành dụm trước khi nghỉ hưu. Hãy khảo sát trước khi đầu tư. Hãy chờ đợi trước khi phê phán. Hãy tha thứ trước khi cầu nguyện. Hãy cố gắng trước khi bỏ cuộc. Và hãy cho đi trước khi từ giã cuộc đời này. (Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you retire, save. Before you invest, investigate. Before you critisize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you die, give. )Sưu tầm
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nghĩa học »»
(大德): có 4 nghĩa chính:
(1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).”
(2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).”
(3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).”
(4) Đại Đức(s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、旣見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(大德): (1) Công đức lớn, đại ân. Như trong Hệ Từ (繫辭) của Dịch Kinh (易經) có câu: “Thiên địa chi đại đức viết sinh (天地之大德曰生, đức lớn của trời đất là sinh).” Hay trong Thi Kinh, phần Tiểu Nhã (小雅), Cốc Phong (谷風) có câu: “Vong ngã đại đức, tư ngã tiểu oán (忘我大德、思我小怨, quên đức lớn của ta, nhớ oán hận nhỏ quả ta).” (2) Phẩm đức cao thượng. Như trong chương Lập Chính (立政) của Quản Tử (管子) có câu: “Quân chi sở thận giả tứ, nhất viết đại đức bất chí nhân, bất khả dĩ thọ quốc bính (君之所愼者四、一曰大德不至仁、不可以授國柄, có bốn điều người quân tử phải thận trọng, một là phẩm đức cao thượng không bằng lòng nhân, không thể lấy vậy mà ban cho quyền lực quốc gia được).” Quan Đại Thần Duẫn Tri Chương (尹知章, 669-718) nhà Đường chú thích rằng: “Đức tuy đại nhi nhân bất chí, hoặc bao tàng họa tâm, cố bất khả thọ quốc bính (德雖大而仁不至、或包藏禍心、故不可授國柄, đức tuy lớn mà lòng nhân vẫn không thấu đáo, hoặc có thể ẩn tàng tâm gây hiểm họa, nên không thể ban cho quyền lực quốc gia được).” (3) Chỉ cho người có đức hạnh cao thượng. Như trong Lễ Ký (禮記), chương Trung Dung (中庸) có câu: “Cố đại đức tất đắc kỳ vị (故大德必得其位, cho nên người có đức hạnh cao thượng tất đạt được vị trí ấy).” Hay trong chương Ly Lâu (離婁) của Mạnh Tử (孟子) có đoạn: “Thiên hạ hữu đạo, tiểu đức dịch đại đức, tiểu hiền dịch đại hiền (天下有道、小德役大德、小賢役大賢, thiên hạ có đạo rằng người đức ít thì phục dịch người đức lớn, người hiền nhỏ thì phục vụ người hiền lớn).” (4) Đại Đức (s, p: bhadanta, 大德), âm dịch là Bà Đàn Đà (婆檀陀). Tại Ấn Độ, đây là tiếng kính xưng đối với Phật, Bồ Tát hay cao tăng; hoặc trong hàng ngũ chư vị Tỳ Kheo, bậc Trưởng Lão cũng được gọi là Đại Đức. Như trong Phật Thuyết Văn Thù Sư Lợi Tuần Hành Kinh (佛說文殊師利巡行經, Taishō Vol. 14, No. 470) quyển 57 có đoạn: “Nhĩ thời Văn Thù Sư Lợi đồng tử, ký kiến Trưởng Lão Xá Lợi Phất dĩ, nhi ngữ chi ngôn: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Nhữ nhập Thiền da ?' (爾時文殊師利童子、既見長老舍利弗已、而語之言、大德舍利弗、汝入禪耶, lúc bấy giờ đồng tử Văn Thù Sư Lợi, đã thấy Trưởng Lão Xá Lợi Phất rồi, mà nói lời rằng: 'Đại Đức Xá Lợi Phất ! Có phải người nhập vào Thiền định không ?').” Trong các bộ Luật, khi đối trước đại chúng hiện tiền, chỉ cho chúng Tỳ Kheo, người ta thường dùng từ “Đại Đức Tăng (大德僧)”; với chúng Tỳ Kheo Ni là “Đại Tỷ Tăng (大姊僧)”. Tỷ dụ như trong Luật Uyển Sự Quy (律苑事規, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1113) có đoạn: “Đại Đức nhất tâm niệm ngã [mỗ giáp] kim thỉnh Đại Đức vi lạc phát Hòa Thượng, nguyện Đại Đức vi ngã lạc phát Hòa Thượng, ngã y Đại Đức cố đắc thế phát xuất gia, từ mẫn cố [tam thỉnh] (大德一心念、我[某甲]今請大德爲落髮和尚、願大德爲我落髮和尚、我依大德故得剃髮出家、慈愍故[三請], Đại Đức một lòng nghĩ nhớ, con […] nay cung thỉnh Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc, ngưỡng mong Đại Đức làm Hòa Thượng xuống tóc của con, vì con nương Đại Đức nên được xuống tóc xuất gia, xin thương xót cho [ba lần thưa như vậy]).” Tại Trung Quốc cũng như Việt Nam, từ Đại Đức không dùng để tôn xưng chư Phật, Bồ Tát; mà chỉ dùng cho chư vị cao tăng mà thôi. Tuy nhiên, dưới thời Tùy Đường, những người tham gia dịch kinh đều được gọi là Đại Đức. Như trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6 cho biết rằng vào tháng 6 năm Trinh Quán (貞觀) thứ 19 (645), khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch kinh tại Hoằng Phước (弘福), có 12 vị Chứng Nghĩa Đại Đức (證義大德), 9 vị Chuyết Văn Đại Đức (綴文大德), 1 vị Tự Học Đại Đức (字學大德), 1 vị Chứng Phạn Ngữ Phạn Văn Đại Đức (證梵語梵文大德), v.v. Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 16 cũng có nêu lên một số danh xưng khác như Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德), Bách Tòa Đại Đức (百座大德), Tam Học Đại Đức (三學大德), Giảng Luận Đại Đức (講論大德), Nghĩa học Đại Đức (義學大德), Phiên Kinh Đại Đức (翻經大德), Dịch Ngữ Đại Đức (譯語大德), v.v. Ngoài ra, người thống lãnh Tăng Ni cũng gọi là Đại Đức. Như trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 11, Đường Kinh Sư Diên Hưng Tự Thích Cát Tạng Truyện (唐京師延興寺釋吉藏傳) có đề cập sự việc vào năm đầu (618) niên hiệu Võ Đức (武德) nhà Đường, vì số lượng tăng chúng quá đông, chức Thập Đại Đức (十大德) được thiết trí để quản lý tăng chúng. Ngoài những ý nghĩa nêu trên, hiện nay tại Việt Nam, danh xưng Đại Đức được dùng cho những vị mới thọ giới cũng như có Hạ lạp thấp, sau Thượng Tọa và Hòa Thượng.
(荻生徂徠, Ogyū Sorai, 1666-1728): Nho gia và là Tổ của Học Phái Cổ Văn Từ, sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Song Tùng (雙松); tự Mậu Khanh (茂卿); thông xưng là Vật Hữu Vệ Môn (惣右衛門); hiệu Tồ Lai (徂徠); xuất thân vùng Giang Hộ. Vì thân phụ ông, Phương Am (方庵)—thị y cho Quán Lâm Hầu (館林候, sau này là Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), đắc tội nên ông theo cha lên sống ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa). Vào năm 1690 (Nguyên Lộc [元祿] 3), ông trở về lại Giang Hộ. Ông viết cuốn Dịch Văn Thuyền Đế (譯文筌蹄), nghiên cứu rất rõ ràng về cách đọc âm Kun của chữ Hán, nên thanh danh bắt đầu nổi dậy. Năm 1696 (Nguyên Lộc 9), ông phục vụ cho Liễu Trạch Cát Bảo (柳澤吉保), rồi cảm xúc trước thi văn của Lý Phàn Long Vương Thế Trinh (李攀龍王世貞) nhà Minh, ông chủ xướng ra Cổ Văn Từ Học (古文辭學). Khi Cương Cát qua đời và Cát Bảo lui về ẩn cư, ông rời khỏi Phiên và khai sáng trường dạy tư Gia Thục Huyên Viên (家塾萱園) tại Mao Trường Đinh (茅塲町, Kayaba-chō), Nhật Bản Kiều (日本橋, Nihonbashi); rồi hình thành nên một dòng phái là Huyên Viên Học Phái (萱園學派). Năm 1714 (Chánh Đức [正德] 4), ông cho san hành cuốn Huyên Viên Tùy Bút (萱園隨筆), phê phán Cổ Nghĩa học Phái (古義學派) của Y Đằng Nhân Trai (伊藤仁齋) vốn lấy bộ Luận Ngữ (論語) làm trung tâm, và chủ trương Cổ Học kiểu mới, làm cơ sở lý giải chính xác Lục Kinh (六經) theo phương pháp của Cổ Văn Từ Học để làm sáng tỏ con đường của chư vị Thánh hiền xưa. Ông lấy hệ thống văn hóa đồ sộ của Trung Quốc cổ đại làm chỉ tiêu cho con đường của chư vị tiền vương, mà phê phán những ngôn thuyết của hàng Nho gia hậu thế. Biện Đạo (辨道), Biện Danh (辨名) là hai tác phẩm của ông, đã làm sáng tỏ khái niệm cơ bản về Đạo, Đức, Nhân, v.v., từ lập trường của ông. Hơn nữa, ông còn trước tác cuốn Luận Ngữ Trưng (論語徵) với lối chú thích độc đáo, rồi cống hiến bản Chính Đàm (政談) thể theo sự tư vấn của Tướng Quân Cát Tông. Chính ông đã tạo uy thế mạnh mẽ cho Huyên Viên Học Phái ở Giang Hộ, đối xứng với Cổ Nghĩa học Phái ở kinh đô Kyoto. Đệ tử của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Thái Tể Xuân Đài (太宰春台), Phục Bộ Nam Quách (服部南郭), Sơn Tỉnh Côn Luân (山井崑崙), An Đằng Đông Dã (安藤東野), v.v. Tư thế phục cổ của ông đã tạo ảnh hưởng lớn cho nền Quốc Học đương thời, và đương nhiên dẫn đến những phản bác về chủ thuyết của Tồ Lai. Bên cạnh các trước tác nêu trên, còn có một số tác phẩm khác của ông như Nam Lưu Biệt Chí (南留別志), v.v.
(破地獄偈): Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo (若人欲了知、三世一切佛、應觀法界性、一切惟[唯]心造, nếu người muốn thông suốt, ba đời tất cả Phật, nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Bài kệ này chủ yếu được tìm thấy trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279, tức Bát Thập Hoa Nghiêm [八十華嚴]) quyển 19, phẩm Dạ Ma Cung Trung Kệ Tán (夜摩宮中偈讚品) thứ 20, do Bồ Tát Giác Lâm (覺林) tụng. Ngoài ra, vì áo nghĩa của kệ này rất thâm sâu, vi diệu, nên xuất hiện trong khá nhiều thư tịch khác như Hoa Nghiêm Đạo Tràng Khởi Chỉ Đại Lược (華嚴道塲起止大略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1474), Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1594) quyển 11, Thành Duy Thức Luận Diễn Bí (成唯識論演祕, Taishō Vol. 43, No. 1833) quyển 1, Thiên Trúc Biệt Tập (天竺別集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 57, No. 951) quyển Trung, Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 3, Tử Bá Tôn Giả Biệt Tập (紫柏尊者別集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1453) quyển 4, Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 2, Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 4, Tịnh Độ Thánh Hiền Tư Lương Toàn Tập (淨土資糧全集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1162) quyển 3, Trạm Nhiên Viên Trừng Thiền Sư Ngữ Lục (湛然圓澄禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1444) quyển 3, v.v. Bài này có công năng phá cửa Địa Ngục để cho các vong hồn được siêu thoát về thế giới an lành; cho nên được thâu lục trong Mông Sơn Thí Thực Văn (蒙山施食文) thuộc Công Phu Chiều của Thiền Môn Nhật Tụng (禪門日誦, như bản hiện hành tại Huế, ghi ngày Rằm tháng 10 năm 1898 [Thành Thái thứ 10]). Tuy nhiên, nội dung bài kệ có khác so với bản trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 9, No. 278, tức Lục Thập Hoa Nghiêm [六十華嚴]), quyển 10, Phẩm Dạ Ma Thiên Cung Bồ Tát Thuyết Kệ (夜摩天宮菩薩說偈品), do Bồ Tát Như Lai Lâm (如來林) thuyết: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng đương như thị quán, tâm tạo chư Như Lai (若人欲了知、三世一切佛、應當如是觀、心造諸如來, nếu người muốn thông suốt, ba đời tất cả Phật, phải nên như vậy quán, tâm tạo các Như Lai).” Về uy lực không thể nghĩ bàn của bài Phá Địa Ngục Kệ này, trong Địa Tạng Bồ Tát Tượng Linh Nghiệm Ký (地藏菩薩像靈驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1638), phần Kinh Sư Nhân Tăng Tuấn Địa Tạng Cảm Ứng Ký (京師人僧俊地藏感應記) thứ 5, có ghi lại câu chuyện của Thích Tăng Tuấn (釋僧俊). Sư người vùng Kinh Sư (京師), họ Vương (王), sống dưới thời nhà Tống. Sau khi xuất gia, sư không giữ giới luật, cũng chưa từng tu nhân thiện. Cuối cùng, vì đau bệnh nhẹ mà qua đời. Chết được ba ngày thì xảy ra một điều kỳ lạ: sư bỗng nhiên sống lại. Sư khóc lóc thảm thiết, dập đầu xuống đất sám hối. Sư kể lại rằng ngay khi vừa mới tắt thở, có hai vị quan Minh Phủ, đuổi sư chạy đến trước một cổng thành lớn. Chợt có một vị tăng bảo rằng: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát đây ! Nhà ngươi khi tại Kinh Thành, đã từng vẽ hình tượng ta, nhưng chẳng bày lễ cúng, rồi lại đem bỏ sau chùa. Ta muốn báo đáp công đức vẽ tranh tượng đó. Nhân ông là tu sĩ Hoa Nghiêm, nên ta sẽ chỉ cho ông một bài kệ.” Bèn đọc bài kệ rằng: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng đương như thị quán, tâm tạo chư Như Lai (若人欲了、知三世一切佛、應當如是觀、心造諸如來, nếu người muốn thông suốt, ba đời tất cả Phật, phải nên như vậy quán, tâm tạo các Như Lai).” Bồ Tát Địa Tạng đọc cho sư nghe bài kệ này xong, bảo rằng: “Nếu ông tụng được bài kệ này thì có thể đóng cửa Địa Ngục, mở ra con đường đến cõi Tịnh Độ và có thể thông được vận mạng.” Sau khi tụng được bài kệ này, Tăng Tuấn đi vào trong thành, diện kiến vua Diêm Ma. Vua hỏi: “Ngươi lúc còn sống làm việc công đức gì ?” Sư đáp: “Tôi ngu muội, phóng túng, không chịu tu thiện, lại chẳng giữ giới, mà chỉ thọ trì một hàng bốn câu kệ này.” Vua lại hỏi: “Nay ngươi tụng được không ?” Đáp: “Ghi nhớ lời tụng, tụng đủ kệ trên, tiếng vang đến nơi, người đang chịu khổ, đều được giải thoát.” Đến đây, nhà vua chợt bảo: “Thôi dừng lại ! Khỏi cần nói nữa.” Bèn cho thả sư trở về lại nhân gian. Nhờ nhân duyên được sống lại như vậy, sư bảo Sa Môn Nghĩa học (義學), Pháp Sư về Hoa Nghiêm, kiểm tra lại bài kệ trên, mới biết rằng bài này vốn có trong Kinh Hoa Nghiêm. Sư kể lại câu chuyện cho chúng tăng nghe, ai cũng đều phát tâm, tin tưởng và thọ trì kinh này.
(聖寳, Shōbō, 832-909): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời đại Bình An, Tự Trưởng đời thứ 8 của Đông Tự (東寺, Tō-ji), vị tổ khai sáng Dòng Tiểu Dã (小野流), húy là Thánh Bảo (聖寳), tên tục là Hằng Ấm Vương (恒蔭王), thụy hiệu là Lý Nguyên Đại Sư (理源大師), xuất thân vùng Kyoto, con của Binh Bộ Đại Thừa Cát Thanh Vương (兵部大丞葛聲王). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Chơn Nhã (眞雅, Shinga), rồi học Tam Luận, Pháp Tướng và Hoa Nghiêm với Nguyên Hiểu (源曉, Gankyō), Viên Tông (圓宗, Enshū) và Bình Nhân (平仁, Heinin). Năm 869, ông làm việc cho Duy Ma Hội Thụ Nghĩa và luận phá các Nghĩa học khác, sau đó đến năm 871 thì thọ nhận pháp Vô Lượng Thọ từ Chơn Nhã và chuyên tu về Mật Giáo. Đến năm 874, ông kiến lập nên Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), rồi đến năm 880 thì thọ nhận 2 bộ đại pháp từ Chơn Nhiên (眞然, Shinzen) ở Cao Dã Sơn và vào năm 884 thì thọ pháp Quán Đảnh ở Nguyên Nhân (源仁, Gennin) tại Đông Tự. Sau đó, vào năm 890, ông làm Tọa Chủ của Trinh Quán Tự (貞觀寺, Jōgan-ji), rồi năm 905 thì làm Viện Chủ Đông Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), và năm sau thì làm Tự Trưởng cũng như Tăng Chánh của Đông Tự. Các trước tác của ông để lại có Đại Nhật Kinh Sớ Sao (大日經疏鈔), Thai Tạng Giới Hành Pháp Thứ Đệ (胎藏界行法次第), Như Ý Luân Tu Cúng Quỹ (如意輪修軌), Ngũ Đại Hư Không Tạng Thức Pháp (五大虛空藏式法), Tu Nghiệm Tối Thắng Huệ Ấn Tam Muội Da Cực Ấn Quán Đảnh Pháp (修驗最勝惠印三昧耶極印灌頂法).
(傳法會, Dempōe): pháp hội được thiết lập trên cơ sở yếu chỉ Tam Nghiệp Độ Nhân (三業度人) của Không Hải Đại Sư, với tư cách là chế độ làm cho hưng long giáo học, khiến cho chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian. Có 3 Truyền Pháp Hội nổi tiếng trong Phật Giáo Nhật Bản. (1) Đông Tự Truyền Pháp Hội (東寺傳法會): trên cơ sở Không Hải Đại Sư lấy lý tưởng giáo dục, ban cho người dân bình thường cơ hội học tập bình đẳng, Tông Nghệ Chủng Trí Viện (綜藝種智院) được thiết lập vào năm 828 (niên hiệu Thiên Trường [天長] thứ 5). Vì gặp khó khăn về kinh tế, cơ sở này bị bán đi vào năm 845 (niên hiệu Thừa Hòa [承和] thứ 12), rồi mua lại khu vực sơn trang ở vùng Đơn Ba (丹波, Tamba) để làm chi phí cho Truyền Pháp Hội. Từ năm 847 trở đi, Đông Tự Truyền Pháp Hội được khởi đầu và mở ra hội diễn giảng các kinh sớ y cứ của Chơn Ngôn Tông vào mùa Xuân và Thu hằng năm. Thế nhưng sau đó, vào năm 1312 (niên hiệu Ứng Trường [應長] thứ 2), Hội này bị suy tàn; song nhờ sự khuyên nhủ của Ngã Bảo (我寶), Đạo Ngã (道我) lại phục hưng lần nữa. Hậu Vũ Đa Pháp Hoàng (後宇多法皇) cúng dường tiền phí tổn cho Hội để hồi hướng cầu nguyện cho lịch đại tiên đế quá cố. Năm sau, trong hội diễn giảng, chân dung của Hoằng Pháp Đại Sư do tự tay Pháp Hoàng vẽ được đưa vào Truyền Pháp Hội làm đề tài bàn luận xem thử có nên chọn làm tượng thờ chính hay không. Từ đó trở về sau, mỗi mùa có 30 ngày, Hội tiến hành đàm luận Nghĩa học liên tục. (2) Cao Dã Sơn Truyền Pháp Hội (高野山傳法會): từ khi chế độ mỗi năm được phép xuất gia, được tiến hành trên Cao Dã Sơn (高野山, Kōyasan) vào năm 835 (niên hiệu Thừa Hòa thứ 2), bắt chước theo trường hợp ở Đông Tự (東寺, Tō-ji), Chơn Nhiên (眞然, Shinzen) cũng khai sáng ra Truyền Pháp Hội ở đây, vào mùa Xuân từ ngày mồng 1 đến 21 tháng 3, mùa Thu từ ngày mồng 5 đến 18 tháng 10 với tên gọi là Luyện Học Hội (練學會). Kể từ đó trở đi, trong vòng 60 năm, sau vụ việc của Tam Thập Thiếp Sách Tử (三十帖册子), Hội bị hoang phế, và trãi qua hơn 200 năm dài đăng đẳng, Giác Noan (覺鑁) mới phục hưng lại vào năm 1132 (niên hiệu Thiên Thừa [天承] nguyên niên). Thể theo hạnh nguyện của Điểu Vũ Pháp Hoàng (鳥羽法皇), lễ cúng dường lạc thành Đại Truyền Pháp Viện (大傳法院), Mật Nghiêm Viện (密嚴院) được tiến hành và Đại Hội Truyền Pháp bắt đầu hoạt động. Cứ mỗi mùa trong vòng 50 ngày, mùa Xuân là Tu Học Hội (修學會), mùa Thu là Luyện Hành Hội (錬行會), Hội tiến hành luận nghị về giáo nghĩa của tông phái. Về sau, do sự phân tranh xảy ra giữa hai phía Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji) và Truyền Pháp Viện (傳法院, Dempō-in), hoạt động của tổ chức này bị ngưng trệ vào năm 1175 (niên hiệu An Nguyên [安元] nguyên niên). Khi ấy, Tây Hành (西行) kiến lập Liên Hoa Thừa Viện (蓮華乘院) để làm nơi luận đàm học nghĩa, rồi đến năm sau thì dời về vùng Tăng Thượng (增上), và tiến hành Đại Hội Truyền Pháp. Về sau, Hội vẫn tiếp tục hoạt động mạnh mẽ và trở thành cơ sở để làm cho giáo học tông pháp hưng thịnh. (3) Truyền Pháp Hội của Phái Tân Nghĩa (新義派): từ khi Lại Du (賴瑜) làm chức Học Đầu (學頭) của Đại Truyền Pháp Viện vào năm 1266 (niên hiệu Văn Vĩnh [文永] thứ 3), ông tiến hành Truyền Pháp Hội tại Trượng Lục Đường (丈六堂) trên Cao Dã Sơn; nhưng sau vì nảy sinh cuộc cạnh tranh giữa các tự viện trên núi, Hội phải dời về Căn Lai Sơn (根來山) vào năm1288 (niên hiệu Chánh Ứng [正應] nguyên niên) và mỗi năm đều tu học nghiêm túc. Sau vụ binh lửa xảy ra trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Chánh (天正), Trí Sơn (智山) và Phong Sơn (豐山) phân chia làm hai; tại Phong Sơn thì lập Hội ở Trường Cốc Tự (長谷寺), tại Trí Sơn có Hội ở Trí Tích Viện (智積院). (4) Ngoài ra, tại Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji) ở vùng Ngự Thất (御室) cũng có Truyền Pháp Hội, nhưng sử liệu về Hội này rất hiếm hoi.
(伊藤仁齋, Itō Jinsai, 1627-1705): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; Tổ của Học Phái Cổ Nghĩa; tên là Duy Trinh (維楨); tự Nguyên Tá (源佐); hiệu Nhân Trai (仁齋); xuất thân kinh đô Kyoto. Suốt đời ông không hề làm quan, mà chỉ làm nhà Nho bình thường. Ông khai sáng Cổ Nghĩa Đường (古義堂) ở Quật Xuyên (堀川, Horikawa), kinh đô Kyoto và giáo dưỡng khá nhiều môn đệ. Ông phê phán Chu Tử Học, đề xướng cổ Nghĩa học vốn lấy trực tiếp ý nghĩa xưa nay của các kinh thư như Luận Ngữ (論語), v.v. Ông đã lấy lời dạy của Khổng Tử làm giáo lý nhân luân hằng ngày, rồi thuyết ra tư tưởng luân lý vốn xem trọng mối quan hệ con người hằng ngày; và rất coi trọng Luận Ngữ, Mạnh Tử. Các trước tác của ông như Luận Ngữ Cổ Nghĩa (論語古義), Mạnh Tử Cổ Nghĩa (孟子古義), Trung Dung Phát Huy (中庸發揮), Ngữ Mạnh Tự Nghĩa (語孟字義), Đồng Tử Vấn (童子問), v.v., sau này được nhóm đệ tử Đông Nhai (東涯) san hành. Đông Nhai kế thừa Cổ Nghĩa Đường; đệ tử của ông có Trung Giang Dân Sơn (中江岷山), Tinh Hà Thiên Dân (幷河天民), Bắc Thôn Đốc Sở (北村篤所), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập