Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nghĩa Đế »»
(s: bhūta-tathatā, tathatā, 眞如): chơn nghĩa là chơn thật, không hư vọng; như là như thường, bất biến. Chơn như là bản thể chân thật trùm khắp vũ trụ vạn vật, là chân lý vĩnh cửu bất biến, căn nguyên của hết thảy vạn hữu. Từ này còn được gọi là Như Như (如如), Như Thật (如實), Pháp Giới (法界), Pháp Tánh (法性), Thật Tế (實際), Thật Tướng (實相), Như Lai Tạng (如來藏), Pháp Thân (法身), Phật Tánh (佛性), Tự Tánh Thanh Tịnh Thân (自性清淨身), Nhất Tâm (一心), Bất Tư Nghì Giới (不思議界). Trong các Phật điển Hán dịch thời kỳ đầu, Chơn Như được dịch là Bản Vô (本無). Nếu nghiên cứu kỹ, các tông phái dùng từ này với nghĩa khác nhau. Theo A Hàm Kinh (阿含經), lý pháp của Duyên Khởi là chân lý vĩnh viễn bất biến, nên gọi đó là Chơn Như. Lại nữa, căn cứ vào thuyết Cửu Vô Vi (九無爲, 9 loại Vô Vi) do Hóa Địa Bộ (s: Mahīśāsaka, 化地部) trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論), có Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如), v.v. Theo chủ trương của Phật Giáo Đại Thừa, bản tánh của tất cả tồn tại như người và pháp đều vô ngã, vượt qua các tướng sai biệt vốn có; nên gọi là Chơn Như. Tỷ dụ sự tự tại của Pháp Thân Như Lai là Chơn Như. Theo Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 7, Chơn Như là thật tánh của tất cả vạn tượng; tướng của nó tuy có nhiều loại khác nhau, nhưng thể của nó cùng một vị, cùng với các pháp không một cũng không khác, vượt ra ngoài những phạm trù của ngôn ngữ, tư duy. Từ quan điểm xa lìa những sai khác, hư ngụy, Chơn Như, nó được gọi là Giả Danh Chơn Như (假名眞如). Hay nếu là nơi nương tựa của tất cả các điều thiện, nó có tên là Pháp Giới. Nếu là chỗ sở ngộ của trí vô phân biệt, nó có tên là Thắng Nghĩa (勝義). Về các tên gọi khác nhau của Chơn Như, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經) quyển 360, có nêu 12 từ như Chơn Như, Pháp Tánh, Bất Hư Vọng Tánh (不虛妄性), Bình Đẳng Tánh (平等性), Ly Sanh Tánh (離生性), Pháp Định (法定), Pháp Trú (法住), Thật Tế, Hư Không Giới (虛空界) và Bất Tư Nghì Giới. Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (阿毘達磨雜集論) quyển 2 có liệt ra 6 từ như Chơn Như, Không Tánh (空性), Vô Tướng (無相), Thật Tế, Thắng Nghĩa, Pháp Giới. Pháp Hoa Huyền Nghĩa (法華玄義) quyển 8 cũng nêu lên 14 từ khác nhau như Thật Tướng, Diệu Hữu (妙有), Chơn Thiện Diệu Sắc (眞善妙色), Thật Tế, Tất Cánh Không (畢竟空), Như Như, Niết Bàn (涅槃), Hư Không (虛空), Phật Tánh, Như Lai Tạng (如來藏), Trung Thật Lý Tâm (中實理心), Phi Hữu Phi Vô Trung Đạo (非有非無中道), Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦), Vi Diệu Tịch Diệt (微妙寂滅). Theo Thành Duy Thức Luận (成唯識論) quyển 10, Pháp Tướng Tông lập ra 10 loại Chơn Như khác nhau, tùy theo cấp độ giác ngộ sâu cạn của vị Bồ Tát, gồm: Biến Hành Chơn Như (變行眞如), Tối Thắng Chơn Như (最勝眞如), Thắng Lưu Chơn Như (勝流眞如), Vô Nhiếp Thọ Chơn Như (無攝受眞如), Loại Vô Biệt Chơn Như (類無別眞如), Vô Nhiễm Tịnh Chơn Như (無染淨眞如), Pháp Vô Biệt Chơn Như (法無別眞如), Bất Tăng Giảm Chơn Như (不增減眞如), Trí Tự Tại Sở Y Chơn Như (智自在所依眞如) và Nghiệp Tự Tại Đẳng Sở Y Chơn Như (業自在等所依眞如). Còn Địa Luân Tông thì chủ trương tự thể của A Lại Da Thức (s: ālaya-vijñāna, 阿賴耶識) thứ 8 là Tự Tánh Thanh Tịnh Tâm (自性清淨心) và đó là Chơn Như. Thức này do bị Vô Minh huân tập, nên xuất hiện các hiện tượng ô nhiễm, thanh tịnh, v.v. Hoa Nghiêm Tông lại chủ trương “bản thể là hiện tượng”, có nghĩa rằng Chơn Như vốn là vạn pháp và vạn pháp cũng là Chơn Như. Cho nên, tông này nêu ra 2 loại Chơn Như: Nhất Thừa Chơn Như (一乘眞如, gồm Biệt Giáo Chơn Như [別敎眞如] và Đồng Giáo Chơn Như [同敎眞如]) và Tam Thừa Chơn Như (三乘眞如, gồm Đốn Giáo Chơn Như [頓敎眞如] và Tiệm Giáo Chơn Như [漸敎眞如]). Trong khi đó, Thiên Thai Tông thì dựa trên thuyết Tánh Cụ (性具, tánh có đầy đủ các pháp) mà cho rằng bản thân Chơn Như xưa nay vốn đầy đủ các pháp ô nhiễm, thanh tịnh, thiện ác, v.v. Từ đó, tự tánh thanh tịnh của chư Phật được gọi là Vô Cấu Chơn Như (無垢眞如), hay Xuất Triền Chơn Như (出纒眞如); còn thể tánh của chúng sanh bị phiền não làm cho cấu nhiễm, nên gọi là Hữu Cấu Chơn Như (有垢眞如), hoặc Tại Triền Chơn Như (在纒眞如); cả có tên là Lưỡng Cấu Chơn Như (兩垢眞如). Tổ Giác Tiên (覺先, 1880-1936), người khai sáng An Nam Phật Học Hội (安南佛學會) ở miền Trung và cũng là vị tổ khai sơn Chùa Trúc Lâm tại Huế, có làm bài thơ rằng: “Phù sanh ký thác chơn như mộng, đáo xứ năng an tiện thị gia (浮生寄托眞如夢、到處能安便是家, phù sanh tạm gởi chơn như mộng, đến chốn khéo an ấy là nhà).”
(多虧): nghĩa đen là nhiều khiếm khuyết, thiếu sót; nhưng cụm từ đa khuy thường được dùng với nghĩa là nhờ vào, may mắn thay. Như trong Dự Nhượng Thôn Thán (豫讓吞炭) của Dương Tử (楊梓, ?-1327) nhà Nguyên có đoạn: “Kim nhật thác thiên địa tỉ hựu, đa khuy Hàn Ngụy nhị quân hiệp mưu, tương Trí thị nhất cổ nhi diệt, phương sấn ngã bình sinh chi nguyện dã (今日托天地庇佑、多虧韓魏二君協謀、將智氏一鼓而滅、方趁我平生之願也, Hôm nay phó thác cho trời đất che chở, may thay hai đấng Hàn, Ngụy cùng lập mưu, đánh dòng họ Trí một trận tiêu diệt, mới thỏa nguyện ước bình sinh của ta).”
(彝倫): có hai nghĩa. (1) Lý thường, đạo thường. Như trong tác phẩm tự Tri Lục (日知錄), phần Di Luân (彝倫), của Cố Viêm Võ (顧炎武, 1613-1682) nhà Thanh, có định nghĩa rằng: “Di luân giả, thiên địa chi thường đạo (彝倫者、天地人之常道, di luân là đạo thường của trời đất).” (2) Chỉ luân thường đạo lý. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 1 có câu: “Minh đạo đức dĩ tự di luân, hành nhân ngĩa nhi chánh phong tục (明道德以敘彝倫、行仁義而正風俗, sáng đạo đức để tỏ luân thường, hành nhân nghĩa để sửa phong tục).”
(藥石, yakuseki): nghĩa là thuốc chữa bệnh và cây kim bằng đá, tức y dược và đồ dùng trị bệnh. Trong La Hán Dược Thực Điều (羅漢藥食條) của Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑) có đoạn rằng: “Thực đương tác thạch, thủ liệu bệnh nghĩa, cố viết dược thạch (食當作石、取療病義、故曰藥石, thức ăn nên xem như đá, với nghĩa để trị bệnh, cho nên gọi là viên đá thuốc)”. Từ này còn gọi là dược thực (藥食, thức ăn thuốc), tức bữa ăn chiều trong Thiền môn. Đức Phật quy định rằng các Tỳ Kheo không được ăn quá ngọ, cho nên các tự viện Thiền Tông gọi bữa ăn chiều là dược thạch (藥石, viên đá thuốc) và đó cũng là ẩn ngữ của buổi ăn tối. Hơn nữa, căn cứ vào tích xưa có vị tăng mỗi ngày chỉ ăn 2 bữa mà thôi, nhưng đến mùa đông lạnh giá, đến buổi chiều tối vị này thường lấy khối đá hâm nóng bỏ trên bụng mình để chống lạnh và trị cơn đói, như là linh đơn có thể trị các bệnh về đường ruột, cho nên đời sau người ta thường gọi bữa ăn thứ 3 trong 1 ngày là dược thạch. Trong phần Đạt Ma Kỵ (達摩忌) của Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) 2 có đoạn rằng: “Tất minh Tăng Đường chung tam hạ, chúng tán hoặc thỉnh tựu tọa dược thạch (畢鳴僧堂鐘三下、眾散或請就坐藥石, sau khi đánh ba tiếng chuông ở Tăng Đường xong, đại chúng phân tán hay mời ngồi dùng cơm chiều).”
(s: Mahīśāsaka, p: Mahiṃsāsaka, 化地部): âm dịch là Di Sa Tắc Bộ (彌沙塞部), còn gọi là Chánh Địa Bộ (正地部), Giáo Địa Bộ (敎地部), Đại Bất Khả Khí Bộ (大不可棄部), tên gọi của một trong 20 bộ phái của Tiểu Thừa. Tương truyền sau khi đức Phật diệt độ khoảng 300 năm, bộ phái này phân ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部) của hệ Thượng Tọa Bộ (上座部). Về tên gọi của bộ phái này, trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論) có ghi rằng: “Người chủ của bộ phái này là quốc vương, nhà vua thống nhiếp đất nước, giáo hóa hàng thứ dân trên đất, cho nên có tên là Hóa Địa. Nhà vua bỏ ngôi vua xuất gia, rộng tuyên Phật pháp, từ đó lấy tên là Hóa Địa Bộ. Pháp sư Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nói rằng: 'Chánh Địa Bộ vốn là thầy nhà vua, muốn chỉnh đốn đất nước, bèn bỏ ngôi vua để hoằng pháp, cho nên có tên là Chánh Địa'”. Về giáo nghĩa của Hóa Địa Bộ, Dị Bộ Tông Luân Luận chia làm hai phần là Bổn Tông Đồng Nghĩa (本宗同義) và Mạt Tông Dị Nghĩa (末宗異義); trong đó, Bổn Tông Đồng Nghĩa rất giống Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部), cho rằng không có quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại cũng như pháp vô vi. Từ đó, phái này lập ra 9 loại vô vi gồm Trạch Diệt (擇滅), Phi Trạch Diệt (非擇滅), Hư Không (虛空), Bất Động (不動), Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), và Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如). Họ chủ trương thấy đạo nhất thời, hiện quán lý của Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦) và cho rằng 5 thức có năng lực tạp nhiễm. Đối với chủ trương về 4 quả Sa Môn, họ cho rằng Quả Dự Lưu (s: srotāpatti-phala, p: sotāpatti-phala, 預流果) còn trở lui nữa, chỉ có Quả A La Hán (s: arhant-phala, p: arahant-phala, 阿羅漢果) thì bất thối. Trong khi đó, Mạt Tông Dị Nghĩa thì gần với học thuyết của Tát Bà Đa Bộ (s: Sarvāstivāda, 薩婆多部), chủ trương thật có quá khứ, tương lai. Từ Ân (慈恩) và Hiền Thủ (賢首) lấy chủ trương của Bổn Tông Đồng Nghĩa để lập nên Pháp Vô Khứ Lai Tông (法無去來宗), và lấy Mạt Tông Dị Nghĩa để hình thành Pháp Hữu Ngã Vô Tông (法有我無宗). Luật của Hóa Địa Bộ hành trì là Sa Di Tắc Bộ Hòa Hê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律), 30 quyển.
(懶衲): vị tu sĩ lười biếng (nghĩa đen). Từ nạp (衲) ở đây có nghĩa là áo được ghép lại từ nhiều mảnh vải vụn. Như trong bài Tặng Tăng Tự Viễn Thiền Sư (贈僧自遠禪師) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có câu: “Tự xuất gia lai trường tự tại, duyên thân nhất nạp nhất thằng hưu (自出家來長自在、緣身一衲一繩休, tự xuất gia nay luôn tự tại, suốt đời một dây một áo thôi).” Từ đó, áo của người tu sĩ được gọi là nạp y (衲衣). Như trong Thiền Tông Tạp Độc Hải (禪宗雜毒海, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1278) quyển 4 có câu: “Nhất lãnh nạp y Đông hựu Hạ, nhiệt lai thoát khước lãnh lai xuyên (一領衲衣冬又夏、熱來脫卻冷來穿, một mảnh nạp y Đông lại Hạ, nóng thì cởi bỏ lạnh mặc vào).” Cho nên, nạp cũng là tiếng tự xưng của vị tu sĩ, có nghĩa là người thường mặc áo có ghép nhiều mảnh vải vụn. Một số từ thường dùng như lão nạp (老衲), nạp tăng (衲僧), nạp tử (衲子), bá nạp (百納), v.v. Như trong bài thơ Đề Hoành Sơn Tự (題橫山寺) của Đái Thúc Luân (戴叔倫, 732-789) nhà Đường có câu: “Lão nạp cúng trà oản, tà dương tống khách thuyền (老衲供茶碗、斜陽送客舟, lão nạp dâng trà chén, chiều tà tiễn khách thuyền).” Hay trong Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1553) quyển 23 có đoạn: “Cử túc hạ túc giai thị đạo tràng, động tĩnh khứ lai vô phi Phật sự, nhược ư nạp tăng môn hạ, nhất ngôn tương khế, thiên địa huyền thù (舉足下足皆是道塲、動靜去來無非佛事、若於衲僧門下、一言相契、天地懸殊, nâng chân hạ chân đều là đạo tràng, động tĩnh đến đi thảy là Phật sự, nếu trong môn hạ nạp tăng, một lời khế hợp, trời đất sai khác).” Trong bài thơ Thu Nhật Ức Lan Thượng Nhân (秋日憶暕上人) của Lý Đoan (李端, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Vũ tiền phùng bá nạp, diệp hạ bế trùng quan (雨前縫百衲、葉下閉重關, trước mưa khâu bá nạp, dưới lá đóng cửa Thiền).” Hay trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), chương Cái Tăng (丐僧) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh có diễn tả rằng: “Tế Nam nhất tăng, bất tri hà hứa nhân, xích túc y bá nạp (濟南一僧、不知何許人、赤足衣百衲, có một vị tăng ở Tế Nam, chẳng biết người vùng nào, đi chân không và mang áo bá nạp).” Trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 5 có câu: “Vi chủ giả thảng tồn nhân nghĩa, cảm thập phương nạp tử chi vân trăn, nhược nãi tư thọ nhân tình, chiêu thiên lí ố danh chi viễn bá (爲主者倘存仁義、感十方衲子之雲臻、若乃私受人情、招千里惡名之遠播, làm người chủ nếu còn nhân nghĩa, cảm mười phương tăng chúng thảy quay về, nếu thọ nhân tình riêng tư, mang ngàn dặm tiếng xấu đi truyền bá).” Như vậy, lãn nạp ở đây là từ tự xưng rất khiêm tốn; như Thiền Sư Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) của Nhật Bản có bút hiệu là Cuồng Vân Lãn Nạp (狂雲懶衲). Trong Lâm Gian Lục Hậu Tập (林間錄後集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1625) có câu: “Y phó tiểu nhi, đạo truyền lãn nạp, nãi nhĩ tương vi, cầu nhân vị pháp (衣付小兒、道傳懶衲、乃爾相違、求人爲法, y trao trẻ nhỏ, đạo truyền thầy lười, như vậy sai khác, tìm người vì đạo).” Hay trong Lô Sơn Thiên Nhiên Thiền Sư Ngữ Lục (廬山天然禪師語錄) quyển 15 có câu: “Vị liễu nhân duyên kim thượng tại, vô năng lãn nạp phó nhàn miên (未了因緣今尚在、無能懶衲付間眠, chưa rõ nhân duyên nay lại có, lão tăng phó mặc ngủ an nhàn).”
(一人作虚) [tạp]: tên gọi một công án trong Thiền Tông, nghĩa là một người làm (cho là, nói) sai. Có công án rằng: “Nhất nhân thổ hư ngôn, tắc vạn nhân tương truyền vi thật dã (一人吐虚言、則萬人相傳爲實也, một người nói lời sai tất vạn người truyền nhau là thật)”. Hư Cốc Tập (虚谷集) có đoạn rằng: “Hữu tăng vấn Hưng Hóa Tồn Tương, Đa Tử tháp tiền, cọng đàm hà sự ? Hóa vân: 'Nhất nhân tác hư vạn nhân truyền thật' (有僧問興化存奬、多子塔前、共談何事, có vị tăng hỏi Hưng Hóa Tồn Tương (興化存奬, 830-888) rằng: 'Trước tháp Đa Tử, cùng luận việc gì ? Hưng Hóa đáp: 'Một người cho là sai, vạn người truyền là thật)”. Như vậy chân lý là cái mà mọi người tự ngộ tự đắc, mỗi bước cũng như ngôn ngữ, chữ nghĩa đều mất đi cái chân thật của chân lý. Câu này cùng nghĩa với câu nói của Thiền sư Diên Chiểu (延沼, 896-973) rằng: “Nhất khuyển phệ hư, thiên nhu nhai thật (一犬吠虚、千猱啀實, một con chó sủa lên sai, ngàn con vượn hùa nhau cho là thật)”.
(二諦): chỉ cho Chơn Đế và Tục Đế. Đế (諦) là lý chân thật bất hư. Chơn Đế (s: paramārtha-satya, p: paramattha-sacca, 眞諦), còn gọi là Thắng Nghĩa Đế (勝義諦), là chân lý của xuất thế gian. Tục Đế (s: saṃvṛti-satya, p: sammuti-sacca, 俗諦), còn gọi là Thế Tục Đế (世俗諦), Thế Đế (世諦); tức là chân lý thế gian. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 4 cho rằng việc thế tục che trùm chân lý thế gian, nên Tục Đế được dịch là Phú Tục Đế (覆俗諦). Ý nghĩa của Nhị Đế được thuyết trong các kinh điển không thống nhất với nhau. Tùy theo kinh điển mà tên gọi của Nhị Đế cũng khác nhau. Như Niết Bàn Kinh (涅槃經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Đại Trí Độ Luận (大智度論), Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章), v.v., thì gọi là Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦). Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh Luận (金剛般若波羅蜜經破取著不壞假名論), Thành Thật Luận (成實論) thì gọi là Chơn Đế và Tục Đế. Trong khi đó, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經), Du Già Luận (瑜伽論), Duy Thức Luận (唯識論) thì gọi là Tục Đế và Thắng Nghĩa Đế. Trong đó, từ Chơn Đế và Tục Đế là thịnh hành nhất. Pháp của Nhị Đế cũng được diễn đạt khác nhau tùy theo các tông phái. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義, Taishō Vol. 33, No. 1716) quyển 2 cho rằng: “Phù Nhị Đế giả, danh xuất chúng kinh, nhi kỳ lý nan hiểu, thế gian phân vân, do lai thạc tranh (夫二諦者、名出眾經、而其理難曉、世間紛紜、由來碩諍, phàm Nhị Đế, tên có khắp trong các kinh, nhưng lý của nó khó hiểu, thế gian phân vân, tranh luận sôi nỗi xuất xứ của nó).” Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 24 của phái Nam Sơn lại liệt Nhị Đế thuộc vào dị thuyết của xưa nay. Trong khi đó, qua Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) 1, Pháp Sư Tịnh Ảnh Huệ Viễn (淨影慧遠, 523-592) thì giải thích rằng: “Đệ tứ tông trung, phân vi Nhị Đế, thể vi Chơn Đế, dụng vi Tục Đế (第四宗中、分爲二諦、體爲眞諦、用爲世諦, trong tông thứ tư, chia thành Hai Đế, thể là Chơn Đế, dụng là Tục Đế).” Đại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa (大乘四論玄義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 46, No. 784) quyển 5 định nghĩa Nhị Đế là: “Cái thị Pháp Tánh chi chỉ quy, nhất chơn Bất Nhị chi cực lý dã (蓋是法性之旨歸、一眞不二之極理也, vốn là yếu chỉ quy nguyên của Pháp Tánh, là lý tột cùng của nguồn chơn Không Hai).” Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 82 cho rằng: “Đắc nhập Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhã hải, danh Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế quán (得入中道、雙照二諦、心心寂滅、自然流入薩婆若海、名中道第一義諦觀, vào được Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên trôi nhập vào biển hết thảy chủng trí, ấy gọi là quán Nghĩa Đế Thứ Nhất của Trung Đạo).” Hay trong Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 1 lại ghi rằng: “Chí ư Nhất Thừa Nhị Đế chi nguyên, Tam Minh Lục Thông chi chỉ, Tây Vức bị tường, Đông Độ mĩ ký (至於一乘二諦之原、三明六通之旨、西域僃詳、東土靡記, cho đến nguồn gốc của Một Thừa, Hai Đế; ý chỉ của Ba Trí, Sáu Thần Thông, Tây Vức [Ấn Độ] thì giải thích đầy đủ, còn Đông Độ [Trung Hoa] thì không ghi gì cả).” Trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) hay Lễ Xá Lợi Tháp Nghi Thức (禮舍利塔儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1491) có đoạn: “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, hồi hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp cập Tăng Già, Nhị Đế dung thông Tam Muội Ấn, như thị vô lượng công đức hải, ngã kim giai tất tận hồi hướng (願將以此勝功德、迴向無上眞法界、性相佛法及僧伽、二諦融通三昧印、如是無量功德海、我今皆悉盡迴向, nguyện lấy công đức thù thắng này, hối hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp và Tăng Già, Hai Đế dung thông Tam Muội Ấn, như vậy vô lượng công đức biển, con nay đều xin hồi hướng thảy).”
(三諦, Santai hay Sandai): gồm Không (空), Giả (假), và Trung (中) được Thiên Thai Đại Sư Trí Khải (智顗, c: Zhì-yĭ, j: Chigi, 538-597) triển khai thuyết Chơn Tục Nhị Đế (眞俗二諦) từ tư tưởng Tam Quán (三觀). Có nghĩa rằng nếu đứng trên bình diện phủ định thì hết thảy các tồn tại đều không có thật thể nên được xem là không và gọi là Không Đế (空諦). Tuy thật thể không có, nhưng trên bình diện khẳng định thì hết thảy các pháp đều tồn tại nhờ nhân duyên, nên được xem như là giả và gọi là Giả Đế (假諦). Và nếu đứng về mặt bản thể siêu việt cả không và giả thì cả Không Đế cũng như Giả Đế đều mang tính hiện tượng cả, nên được gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế (中道第一義諦). So với Tam Đế của Biệt Giáo, Tam Đế của Viên Giáo được gọi là Tam Đế Viên Dung (三諦圓融) của cái gọi là Tức Không Tức Giả Tức Trung mà dung nhiếp cả Tam Đế vào trong một đế. Như trong Thỉ Chung Tâm Yếu Chú (始終心要注) do Kinh Khê Đại Sư Trạm Nhiên (荊溪大師湛然, 711-782) thuật, có đoạn: “Tam Đế thị nhất pháp, Phật thuyết chủng chủng danh, Long Mãnh ngộ chi nhi tạo luận, Trí Giả đắc chi dĩ khai thác, Kinh Khê truyền chi vi tâm yếu (三諦是一法、佛說種種名、龍猛悟之而造論、智者得之以開拓、荊溪傳之爲心要, Tam Đế là một pháp, Phật thuyết đủ các tên, Long Thọ ngộ nó mà tạo ra luận, Trí Khải đạt được nó mà khai thác, Kinh Khê truyền nó làm tâm yếu).”
(s: Sthaviravāda, p: Theravāda, j: Jōzabu, 上座部): nghĩa đen là “Con Đường Của Các Bậc Trưởng Lão”, là bộ phái Phật Giáo sống còn xưa nhất; trong nhiều thế kỷ qua nó là tôn giáo chiếm ưu thế của Sri Lanka (Tích Lan, khoảng 70% dân số) cũng như hầu hết lục địa Đông Nam Á (Cam Bốt, Lào, Miến Điện, Thái Lan). Bộ phái này cũng được thực hành với mức độ ít hơn ở Tây Nam Á như Trung Quốc, Việt Nam, Bangladesh, Phi Luật Tân, Mã Lai Á và Indonesia. Trong khi đó, gần đây nó cũng chiếm được đa số ở Singapore và Úc Châu. Ngày nay, tín đồ Phật Giáo Thượng Tọa Bộ trên khắp thế giới lên đến hơn 100 triệu và trong những thập niên gần đây, Thượng Tọa Bộ bắt đầu cắm gốc rễ ở phương Tây. Thượng Tọa Bộ chủ yếu phát xuất từ trường phái Vibhajjavāda (分別說部, Phân Biệt Thuyết Bộ) vốn xuất hiện giữa nhóm Trưởng Lão (s: sthavira, p: thera, 長老) tại Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (250 sau công nguyên) trong suốt thời gian trị vì của A Dục Vương. Sau Đại Hội Kết Tập này, tín đồ của Phân Biệt Thuyết Bộ dần dần tách thành 4 nhóm: Mahīśāsaka (化地部, Hóa Địa Bộ), Kāśyapīya (飲光部, Ẩm Quang Bộ), Dharmaguptaka (法藏部, Pháp Tạng Bộ) và Tāmraparnīya (銅鍱部, Đồng Diệp Bộ). Thượng Tọa Bộ xuất thân từ Đồng Diệp Bộ, có nghĩa là “dòng truyền thừa Tích Lan”. Những ký sự về nguồn gốc của Thượng Tọa Bộ cho biết rằng bộ phái này nhận giáo lý vốn được đồng ý trong Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 và giáo lý này của trường phái Phân Biệt Thuyết Bộ. Bản thân tín đồ Phân Biệt Thuyết Bộ xem họ là sự tương tục của các Trưởng Lão chính thống và sau đó đại hội tiếp tục đề cập đến họ là “Chư Trưởng Lão (The Elders)”, mặc dầu giáo điển của họ có lẽ tương tự với các vị Trưởng Lão xưa, nhưng có thể không đồng nhất. Vào thế kỷ thứ 7, hai nhà chiêm bái Trung Hoa là Huyền Trang (玄奘, 602-664) và Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) có đề cập đến trường phái Phật Giáo ở Tích Lan là “Sthaviravāda”. Khi tiếng Pāli được dùng rộng rãi và chiếm ưu thế, khoảng thế kỷ 11, tên Pāli “Theravāda” của bộ phái này được sử dụng thay thế cho tên Sanskrit. Theo truyền thống Tích Lan, Phật Giáo được Ma Sẩn Đà (p: Mahinda, 摩哂陀)—con của A Dục Vương thuộc vương triều Khổng Tước (s: Maurya, 孔雀)—truyền vào Tích Lan đầu tiên như là một phần của hoạt động truyền giáo dưới kỷ nguyên A Dục Vương. Ma Sấn Đà thiết lập tu viện Mahavihara ở Anuradhapura. Sau này tu viện này phân chia thành 3 nhóm phụ dưới tên gọi của các trung tâm tu tập như Mahavihara, Abhayagirivihara và Jetavanavihara. Vào năm 1164, dưới sự hướng dẫn của 2 vị tu sĩ thuộc nhóm tu tập trong rừng của Mahavihara, vua Tích Lan đã hợp nhất tất cả tỳ kheo khắp Tích Lan lại thành phái Mahavihara. Vài năm sau khi Ma Sấn Đà đặt chân lên xứ sở này, Tăng Già Mật Đa (p: Saṅghamittā, 僧伽蜜多)—con gái của A Dục Vương và cũng là em gái của Ma Sấn Đà—đến Tích Lan. Cô hình thành giáo đoàn Ni đầu tiên tại đây, nhưng giáo đoàn này tuyệt diệt vào khoảng giữa thế kỷ thứ 10. Vào năm 429, thể theo yêu cầu của vua nhà Hán Trung Quốc, vị ni từ Anuradhapura được phái đến Trung Quốc để thiết lập giáo đoàn Ni. Sau đo, giáo đoàn này lan rộng sang Triều Tiên. Vào năm 1996, 11 vị Ni Tích Lan có chọn lọc kết hợp với một số Ni Hán Quốc, được một nhóm tăng sĩ Theravāda truyền thọ Tỳ Kheo Ni giới tại Ấn Độ. Việc này nảy sinh sự bất đồng giữa những người có quyền uy về Luật Tạng Thượng Tọa Bộ về vấn đề thọ giới này có đúng pháp hay không. Dưới thời A Dục Vương trị vì, một đoàn truyền giáo được phái đến Kim Địa Quốc (s: Suvarṇa-bhūmi, p: Suvaṇṇa-bhūmi, 金地國), tương truyền nơi đó đã có sự hiện diện truyền giáo của Soṇa và Uttara. Tuy nhiên, kiến giải của các học giả thì hoàn toàn khác nhau về vị trí vùng đất này. Người ta tin rằng Kim Địa Quốc có thể thuộc một nơi nào đó trong khu vực bao gồm Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và bán đảo Mã Lai. Dân tộc thiếu số Mon là một trong những nhóm người sớm nhất trú ngụ ở Miến Điện và đã từng là tín đồ của Theravāda từ thế kỷ thứ 3. Những phát hiện về khảo cổ cho biết rằng dân tộc này có quan hệ mật thiết với Nam Ấn và Tích Lan. Người Miến Điện chọn tôn giáo và văn bản viết của dân tộc Mon khi họ chinh phục Thaton, vương quốc người Mon, vào năm 1057. Theo truyền thống địa phương, đây là địa vức của Kim Địa Quốc được giáo đoàn của triều đình A Dục Vương viếng thăm. Dân tộc Mon cũng là một trong những sắc tộc định cư tại Thái Lan. Người Thái lấy tôn giáo Mon để chinh phục Haripunjaya, vương quốc người Mon, vào năm 1292. Một số giáo phái chính ở các nước Phật Giáo Thượng Tọa Bộ ngày nay như Tích Lan có Siam Nikaya, Amarapura Nikaya, Ramañña Nikaya; Miến Điện có Thudhamma Nikaya, Shwekyin Nikaya, Dvara Nikaya; Thái Lan có Maha Nikaya, Thammayut Nikaya; Bangladesh có Sangharaj Nikaya, Mahasthabir Nikaya, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập