Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Năng Hóa »»
(功存, Kōzon, 1720-1796): vị Tăng của Chơn Tông, sống trong khoảng thời đại Giang Hộ, từng đảm nhiệm chức Năng Hóa (能化, Nōke) trong vòng 28 năm (1769-1796) ở Học Lâm của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji). Ông xuất gia ở Bình Thừa Tự (平乘寺, Heijō-ji) vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), nơi ông xuất thân. Vào năm 1762 (Bảo Lịch [寶曆] 12), ông viết cuốn Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) và sau này Trí Động (智洞), người nhậm chức Năng Hóa đời thứ 8, cũng tiếp tục kế thừa tư tưởng này và phát huy mạnh hơn nữa.
(大瀛, Daiei, 1760-1804): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Đại Doanh (大瀛), Quách Lượng (廓亮); tên lúc nhỏ là Ki Chi Tấn (幾之進), Thị Đại (示大); tự là Tử Dung (子容); thụy hiệu Chơn Thật Viện (眞實院), hiệu là Nhưng Viên (芿園), Thiên Thành (天城), Kim Cang Am (金剛庵), Thoại Hoa (瑞華), Tịch Nhẫn (寂忍), Bảo Chơn (葆眞), Lãng Nhiên (朗然), Viên Hải (圓海), Bảo Lương (寶梁); xuất thân Trung Đồng Hạ (中筒賀, Nagatsutsuga), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima [廣島]); con trai thứ 3 của Lâm Dưỡng Triết (林養哲). Ông theo hầu Tuệ Vân (慧雲) ở Báo Chuyên Phường (報專坊), vùng An Nghệ, tu học giáo thuyết Chơn Tông và kiêm học cả ngoại điển. Sau ông từ bỏ việc thế tục, chuyển đến trú tại Thắng Viên Tự (勝圓寺) ở trong vùng, mở trường Tư Thục ở vùng Quảng Đảo (廣島, Hiroshima) và tận lực giáo dục chúng môn đệ. Vào năm 1797, ông đề xuất thư chất vấn lên trường Học Lâm về việc Năng Hóa Trí Động (能化智洞) chủ trương thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命), rồi viết cuốn Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍), Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) để làm sáng tỏ Tông nghĩa chánh thống. Năm 1804, vâng mệnh chính quyền Mạc Phủ, ông cùng với nhóm Đạo Ẩn (道隱) xuống Giang Hộ, tiến hành đối luận với Trí Động. Trước tác của ông có Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) 2 quyển, Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍) 3 quyển, Luận Hành Thiên (論衡篇) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Nguyên Yếu (徃生論註原要) 6 quyển, v.v.
(五道將軍): tên gọi vị thần của Đạo Giáo, trợ thủ quan trọng của Đông Nhạc Đại Đế (東岳大帝), chủ tể cõi Địa Ngục. Truyền thuyết ông chưởng quản việc sanh tử của con người, có chức phận tương đương với vị Phán Quan của Diêm Vương (閻王). Trong tác phẩm Hàn Cầm Hổ Thoại Bổn (韓擒虎話本) nhà Đường có câu: “Ngũ Đạo Tướng Quân, thân phi hoàng kim truy giáp, đảnh đới phụng sí, cao thanh xướng dạ (五道將軍、身披黃金錙甲、頂戴鳳翅、高聲唱諾, Ngũ Đạo Tướng Quân, thân mang áo giáp nặng hoàng kim, đầu đội cánh phụng, lớn tiếng xướng dạ).” Lại có thuyết cho rằng Ngũ Đạo Tướng Quân (五盜將軍, chữ đạo [盜, trộm, cắp] ở đây khác với đạo [道, con đường] ở trên) là thần trộm cắp, nên nếu nằm mộng thấy vị thần này thì không tốt.
(月感, Gekkan, 1600-1674): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; húy là Minh Liễu (明了), Nguyệt Cảm (月感); tự là Viên Hải (圓海); xuất thân vùng Phản Tỉnh (坂井, Sakai), Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]). Ông được Liễu Tôn (了尊) ở Diên Thọ Tự (延壽寺) nuôi dưỡng, cho tu học và cuối cùng kế thế trú trì chùa này. Sau ông đến đọc các kinh sách ở Tàng Kinh Các của Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), rồi du học ở Trường Khi (長崎, Nagasaki). Năm 1652, ông phê phán học thuyết tà nghĩa Tự Tánh Duy Tâm (自性唯心) của Năng Hóa Tây Ngâm (能化西吟) ở Học Liêu của Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji). Vấn đề này làm phát triển sự đối lập giữa Tây Bổn Nguyện Tự và Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji), rồi theo lệnh của chính quyền Mạc Phủ thì Học Liêu bị phá bỏ và bản thân ông bị lưu đày đến địa phương Xuất Vân (出雲, Izumo). Về sau, ông chuyển sang Phái Đại Cốc (大谷派). Trước tác của ông có An Tâm Quyết Định Sao Nhu Ký (安心決定鈔糅記) 17 quyển, Tứ Thập Bát Nguyện Lược Sao (四十八願略鈔) 2 quyển, v.v.
(三業惑亂, Sangōwakuran): cuộc pháp luận (luận tranh về giáo pháp) xảy ra trong nội bộ Phái Bổn Nguyện Tự (本願寺派, Honganji-ha, phía Tây Bổn Nguyện Tự) thuộc Tịnh Độ Chơn Tông dưới thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1867). Người đứng ra xét xử để dẹp yên vụ náo động này là Hiếp Phản An Đổng (脇坂安董, Wakizaka Yasutada), quan Tự Xã Phụng Hành (寺社奉行, Jishabugyō) và là Phiên chủ đời thứ 8 của Phiên Long Dã (龍野藩, Tatsuno-han). Trong phần An Đổng của cuốn Hiếp Phản Gia Phổ (脇坂家譜) có ghi rằng: “Ngày 11 tháng 7 năm Văn Hóa thứ 3 (1806), xét xử vụ náo động về Tông ý của Tây Bổn Nguyện Tự.” Tại Thiện Long Tự (善龍寺, Zenryū-ji, thuộc Tatsuno-shi [龍野市], Hyōgo-ken [兵庫縣]) vẫn còn thư tịch Chơn Tông Tân Nghĩa Cổ Nghĩa Tài Đoạn Thật Ký (眞宗新義古義裁斷實記), được xuất bản ở Long Dã. Sự kiện Tam Nghiệp Hoặc Loạn này là cuộc luận tranh về vấn đề gọi là Dị An Tâm (異安心, ianshin, an tâm theo nghĩa khác). Dị An Tâm ở đây có nghĩa là an tâm của Chơn Tông, khác với an tâm của cảnh giới cứu độ; cho nên đây là cuộc luận tranh để nêu rõ đâu là an tâm đúng nghĩa. An tâm và giáo tướng (giáo lý) có mối quan hệ mật thiết hỗ tương lẫn nhau, không thể phân ly; cho nên nếu giáo thuyết mà sai lạc thì có khả năng nảy sinh mê tín, tà tín. Sự kiện này phát sinh vào năm 1791 (Khoan Chính [寛政] 3) và chấm dứt vào năm 1806 (Văn Hóa [文化] 3). Thật ra, vụ này cần phải mất 10 năm mới giải quyết xong. Nguyên nhân xảy ra cuộc náo động này là sau lễ Húy Kỵ lần thứ 300 của Liên Như Thượng Nhân (蓮如上人) vào năm 1798 (Khoan Chính 10). Năm trước đó, 1797, Trí Động (智洞), người nhậm chức Năng Hóa (能化, Nōke) đời thứ 7 của Học Lâm, thay thế Văn Như Thượng Nhân (文如上人) giảng thuyết về Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經); trong đó, ông tuyên xướng thuyết gọi là Tam Nghiệp Quy Mạng (三業歸命), Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命). Nếu truy nguyên đầu nguồn của thuyết này, nó vốn phát xuất từ Tri Không (知空), vị Năng Hóa đời thứ 3, cho đến Tuấn Đế (峻諦), cho đến vị Năng Hóa đời thứ 7 là Công Tồn (功存). Vị này viết cuốn Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) để đưa ra chủ thuyết mới là Tam Nghiệp Quy Mạng; và đến thời của Trí Động thì thuyết này đã trở thành tiêu chuẩn an tâm của Chơn Tông thuộc phái Bổn Nguyện Tự. Như có đề cập ở trên, vào ngày 11 tháng 7 năm 1806, An Đổng đứng ra xét xử vụ dao động này, phán quyết rằng thuyết Tam Nghiệp Quy Mạng là không đúng chánh nghĩa, tuyên phạt rất khoan dung phía Tông môn Phái Bổn Nguyện Tự phải bế môn trong vòng 100 ngày. Cũng nhân xảy ra vụ này, chức Năng Hóa bị phế bỏ hẳn luôn.
(西吟, Saigin, 1605-1663): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; húy là Tây Ngâm (西吟); thụy hiệu Thành Quy Viện (成規院); hiệu là Chiếu Mặc (照默); xuất thân vùng Tiểu Thương (小倉, Ogura), Phong Tiền (豐前, Buzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]); con của Tây Tú (西秀) ở Vĩnh Chiếu Tự (永照), Phong Tiền. Vào năm 1647, ông làm chức Năng Hóa đời thứ 2 của Học Liêu ở Tây Bổn Nguyện Tự (西本願寺, Nishihongan-ji). Đến năm 1653, ông luận tranh với Nguyệt Cảm (月感) ở Diên Thọ Tự (延壽寺), Phì Hậu (肥後, Higo), tạo nên sự đối lập giữa Tây Bổn Nguyện Tự và Hưng Chánh Tự (興正寺); và theo mệnh lệnh của chính quyền Mạc Phủ thì Học Liêu bị phá bỏ. Nguyệt Cảm và Chuẩn Tú (准秀) của Hưng Chánh Tự bị lưu đày đi xa. Trước tác của ông có Chánh Tín Kệ Yếu Giải (正信偈要解) 4 quyển, Vô Lượng Thọ Kinh Khoa Huyền Khái (無量壽經科玄概) 1 quyển, v.v.
(智洞, Chidō, 1736-1805): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng giữa và cuối thời Giang Hộ; húy là Trí Động (智洞), thụy hiệu là Ứng Hiện Viện (應現院); hiệu Đào Hoa Phường (桃花坊); xuất thân vùng Kyoto; con của Tịnh Khiêm (淨謙) ở Thắng Mãn Tự (勝滿寺), Kyoto. Trong vụ pháp luận Minh Hòa (明和), ông đã từng luận tranh với Trí Xiêm (智暹) của Chơn Tịnh Tự (眞淨寺), vùng Bá Ma (播磨, Harima) và trở nên nổi tiếng. Sau ông đến trú tại Tịnh Giáo Tự (淨敎寺) ở kinh đô Kyoto, và vào năm 1797 thì tựu nhiệm chức Năng Hóa (能化, Nōke) đời thứ 8 ở Học Lâm của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji). Chính ông đã kế thừa tư tưởng Nguyện Sanh Quy Mạng Biện (願生歸命辨) của Công Tồn (功存), chủ trương thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命); bị nhóm của Đại Doanh (大瀛) phản luận, và dẫn đến cuộc luận tranh gọi là Tam Nghiệp Hoặc Loạn (三業惑亂). Ông là người có công lớn trong việc sao chép những điển tịch của các ngôi tự viện lớn, cũng như tạo mục lục lưu trữ thư tịch của Học Lâm. Trước tác của ông có Long Cốc Học Huỳnh Hiện Tồn Thư Tịch Mục Lục (龍谷學黌現存書籍目錄) 5 quyển, Cao Tăng Hòa Tán Giảng Lâm (高僧和讚講林) 6 quyển, Ban Chu Tán Giảng Lâm (般舟讚講林) 10 quyển, Chánh Tín Kệ Giảng Lâm Trợ Lãm (正信偈講林助覽) 4 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập