Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Mục Kiền Liên »»
(s: Aśoka, p: Asoka, Aikuō, 阿育王, tại vị khoảng 270-230 ttl): âm dịch là A Du Ca (阿輸迦), ý dịch là Vô Ưu (無憂) gọi tắt là Dục Vương (育王), vị vua đời thứ 3 của vương triều Khổng Tước (s: Maurya, 孔雀) vốn lấy thành phố Pāṭaliputra (tức Hoa Thị Thành [華氏城]) của nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀) làm thủ đô. Trong kinh điển Bắc Truyền bằng tiếng Phạn, Hán và Tây Tạng, đại thể ông xuất hiện khoảng hơn 100 năm sau khi đức Phật diệt độ; theo truyền thuyết của thánh điển Pāli thì cho rằng ông tức vị vào năm thứ 128 sau khi đức Phật diệt độ. Niên đại này được suy định từ niên đại của các vị vua Girisha mà có trong bản pháp sắc văn của nhà vua. Khi vua này tại vị, Ấn Độ là quốc gia vĩ đại thống nhất lần đầu tiên và chiếm đại bộ phận nước Ấn Độ dưới thời đại Anh Quốc. Vào thời trai trẻ, ông rất hung bạo đã giết anh em mình để lên làm vua rồi xâm lược các quốc gia lân cận; thế nhưng cuối cùng ông mới phản tỉnh hiểu được rằng bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng bi thảm cũng có nhiều người phải hy sinh, cho nên ông tự trách mình và vô cùng ân hận. Chính sự ân hận ấy đã dẫn dắt ông đến với Phật Giáo, biết rõ rằng chính Phật Giáo có lợi ích cho lí tưởng của nhân sinh và hoà bình của xã hội. Vì vậy ông đã qui y và nỗ lực tuyên xướng giáo lý Phật Giáo. Nhà vua đã đặt tên cho giáo lý này là “pháp”, cho biệt phái các vị Pháp Đại Thần cũng như tăng sĩ để đi truyền giảng pháp trong và ngoài nước. Chính đích thân ông cũng đi tuần du khắp nước, tiến hành thuyết pháp và tham bái các Phật tích. Tương truyền rằng ông đã cho xây dựng đầu tiên là A Dục Vương Viên Tự (阿育王園寺) tại thủ đô và kiến lập 84.000 ngôi tháp xá lợi khắp trong nước. Bên cạnh đó, ông còn chuyên tâm làm Phật sự, cho nên Phật Giáo đã nhất thời đi đến hưng thịnh tột đỉnh của nó. Chính nhờ vị vua này mà Phật Giáo cũng đã được lan truyền sang các quốc gia lân cận tại Ấn Độ. Phía Tây Bắc từ địa phương Gandhāra đến Girisha, rồi thông qua vùng trung ương Châu Á và đến tận Trung Quốc. Về phương Nam, Phật Giáo cũng được truyền sang Tích Lan (Sri Lanka), và nơi đây đã trở thành nguyên lưu của Phật Giáo Pāli (Nam Truyền Phật Giáo) của các nước phương Nam. Nhờ có A Dục Vương, Phật Giáo Ấn Độ đã phát triển rất mạnh với tư cách là Phật Giáo quốc tế, cho nên trong lịch sử Phật Giáo ông đã trở thành người có công lao cống hiến và ủng hộ đắc lực nhất. Với tư cách là trưởng lão của Phật Giáo, trong các truyện bằng tiếng Pāli, có nêu lên nhân vật Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (p: Moggaliputta-tissa, 目犍連子帝須), còn Phật Giáo Bắc Truyền có nhân vật Ưu Ba Cúc Đa (s, p: Upagupta, 優波毱多), cũng chính là vị vua này.
(s, p: Rāhula, 羅睺羅): âm dịch là La Hỗ La (羅怙羅), La Hộ La (羅護羅), La Hống La (羅吼羅), Hạt La Hỗ La (曷羅怙羅), La Vân (羅雲,羅云), La Hầu (羅睺), v.v.; ý dịch là Phú Chướng (覆障), Chướng Nguyệt (障月), Chấp Nhật (執日), là con ruột của Đức Phật trước khi chưa xuất gia, một trong 10 vị đại đệ tử của Phật. Khi ông anh ra gặp lúc La Hầu La A Tu La Vương (羅睺羅阿修羅王) che đậy ăn mặt trăng và nhân vì ông ở trong bào thai mẹ 6 năm trường nên có tên là Chướng Nguyệt, Phú Chướng như vậy. Về mẫu thân của La Hầu La, các kinh điển đề cập không thống nhất với nhau, có kinh cho là Cù Di (瞿夷), hoặc có kinh cho là Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅). Theo Vị Tằng Hữu Nhân Duyên Kinh (未曾有因緣經) quyển thượng, sau khi thành đạo, Đức Phật trở về thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), viếng thăm dòng họ Thích Ca. Lúc ấy, La Hầu La theo xuất gia, thọ giới, trở thành Sa Di, tôn Trưởng Lão Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) làm Hòa Thượng dẫn dắt, Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連) là A Xà Lê. Ông được xem như là vị Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌) đầu tiên của Phật Giáo. Khi đang tu tập với tư cách là Sa Di, cũng có xảy ra vài việc không đúng pháp, ông được Phật giáo huấn, chỉ bảo nên sau đó tuân thủ nghiêm mật, không sai phạm, tinh tấn tu tập và chứng quả A La Hán, được mọi người xưng tán là Mật Hạnh Đệ Nhất. Theo Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trú Ký (大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記, bản Hán ngữ là Pháp Trú Ký), ông được liệt vào hàng thứ 11 trong 16 vị La Hán, cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tất Lợi Dương Cù Châu (s: Priyaṅgu, 畢利颺瞿洲) để hộ trì chánh pháp và làm lợi ích cho chúng hữu tình.
(s: Mahendra, p: Mahinda, 摩哂陀): còn gọi là Ma Hê Nhân Đà La (摩酼因陀羅), Mã Hân Đạt (馬欣達), vị khai tổ của Phật Giáo Tích Lan, thường được gọi là tổ truyền Luật thứ 6, con của A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) thuộc vương triều Khổng Tước (s: Maurya, 孔雀), sanh tại Ujayana (鄔闍衍那, Ổ Xà Diễn Na, thuộc Ma Kiệt Đà [s, p: Magadha, 摩掲陀], tiểu bang Bihar ngày nay), miền tây bắc Ấn Độ; mẹ là Devī (戴蜚, Đới Phi), con gái của nhà phú thương Vedisa (卑地寫, Ty Địa Tả). Năm lên 20 tuổi, ông xuất gia, bái Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (p: Moggaliputta Tissa, 目犍連子帝須) làm thầy, thọ Sa Di giới với Ma Ha Đề Bà (摩訶提婆), Cụ Túc giới với Mạt Xiển Đề (末闡提) và chứng đắc quả A La Hán. Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, ông vâng mệnh cha đến Tích Lan truyền bá Phật Giáo. Tại đây, ông được vua Tích Lan đương thời là Devānaṃpiyatissa (天愛帝須, Thiên Ái Đế Tu) sùng kính và bảo hộ, xây dựng Đại Tự (p: Mahāvihāra, 大寺) ở thủ đô Anurādhapura để phổ biến Bình Đẳng Tâm Kinh (p: Samacitta-suttanta, 平等心經), và tạo hang đá để an cư kiết hạ, từ đó thành lập cơ sở cho Phật Giáo Tích Lan. Kế tiếp, tu viện Cetiyavihāra được thành lập ở Mihintale. Về sau, em gái Ma Sẩn Đà là Tỳ Kheo Ni Tăng Già Mật Đa (s: Saṃghamitrā, p: Saṅghamittā, 僧伽密多) mang nhánh cây Bồ Đề từ nơi đức Phật thành đạo sang trồng tại Tích Lan và truyền thọ giới pháp Tỳ Kheo Ni. Ông còn triệu tập Đại Hội Tỳ Kheo tại tháp Đỗ Ba La Mi (睹波羅糜), chính thức sáng lập tăng đoàn Phật Giáo đầu tiên của nước này do trưởng lão A Lợi Đa (p: Arittha, 阿利多) lãnh đạo, dùng ngôn ngữ địa phương để giảng giải Tam Tạng Thánh Điển Tiếng Pāli. Cả ông và em gái đều tận lực cống hiến cho Phật Giáo Tích Lan trong vòng hơn 30 năm, và cuối cùng qua đời ở độ tuổi 80, thọ hơn cả vua Devānaṃpiyatissa. Vua Uttiya, người kế thừa ngôi vị của anh mình, đã tổ chức tang lễ long trọng cho Ma Sẩn Đà và cho xây dựng một ngôi tháp tại Mihintale để an trí xá lợi của ông. Wapola Rahula, tu sĩ nổi tiếng của Tích Lan ở thế kỷ 20, có miêu tả Ma Sẩn Đà là “cha đẻ của nền văn học Tích Lan”, vì ông đã chuyển dịch và viết luận thư Tam Tạng bằng tiếng Tích Lan, chuyển ngôn ngữ kinh điển thành ngôn ngữ văn học. Ông còn được công nhận là người đưa văn hóa của đế quốc Khổng Tước vào quần đảo này.
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
(s: Śākya-muni, p: Sakya-muni, 釋迦牟尼): ý là bậc Thánh nhân xuất thân từ dòng họ Thích Ca; còn gọi là Thích Ca Văn Ni (釋迦文尼), Xa Ca Dạ Mâu Ni (奢迦夜牟尼), Thích Ca Mâu Nẵng (釋迦牟曩), Thích Ca Văn (釋迦文); gọi tắt là Thích Ca (釋迦), Mâu Ni (牟尼), Văn Ni (文尼); ý dịch là Năng Nhân (能仁), Năng Nhẫn (能忍), Năng Tịch (能寂), Tịch Mặc (寂默), Năng Mãn (能滿), Độ Ốc Tiêu (度沃焦), hay Thích Ca Tịch Tĩnh (釋迦寂靜), Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn (釋迦牟尼世尊), Thích Tôn (釋尊); là đấng giáo tổ của Phật Giáo. Nguyên do xưng hiệu của Ngài có thể tìm thấy trong Quán Chư Dị Đạo Phẩm (觀諸異道品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 20, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận (阿毘曇八犍度論, Taishō Vol. 26, No. 1543) quyển 30, v.v. Đức Thích Tôn vốn là Thái Tử của vua Tịnh Phạn (s: Śuddhodana, p: Suddhodana, 淨飯) thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛) thuộc miền Bắc Ấn Độ. Thành này hiện tại ở vùng phụ cận Tilori-Kot (提羅里克, Đề La Lí Khắc) thuộc phía Nam Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), phía Đông Bắc sông Rapti (拉布提, Lạp Bố Đề). Diện tích tiểu quốc này khoảng 320 m2, thuộc vào vương quốc Kiều Tát La (s: Kauśala, Kośalā, p: Kosala, 憍薩羅). Đương thời Bắc Ấn thực hành chế độ Cộng Hòa quý tộc, phân thành 10 bang thành nhỏ, trong đó chọn ra vị lãnh đạo có thế lực nhất, và lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn là vị lãnh tụ tối cao. Hoàng hậu Ma Da (s: Māyā, 摩耶), mẫu thân của đức Phật, là con gái của chủ Thành Thiên Tý (s: Devadaha, 天臂) thuộc bộ tộc Cư Lợi (居利) lân quốc. Trước khi hạ sinh Thái Tử, theo tập tục đương thời, phu nhân phải quay trở về Thành Thiên Tý để chờ ngày lâm bồn, dọc đường khi đang dừng chân nghỉ tại vườn Lâm Tỳ Ni (s, p: Lumbinī, 藍毘尼), ngay dưới gốc cây Vô Ưu (s: aśoka, 無憂), nàng hạ sinh Thái Tử. Theo Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng, Phẩm Giáng Thân (降身品), khi đản sanh, đức Thích Tôn đi bảy bước, đưa tay lên nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, Tam Giới giai khổ, ngô đương an chi (天上天下、唯我爲尊、三界皆苦、吾當安之, trên trời dưới đất, chỉ ta trên hết, Ba Cõi là khổ, ta sẽ làm yên).” Ngoài ra, các điển tịch như Vị Tằng Hữu Pháp Kinh (未曾有法經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 8, dị xuất bồ tát bản khởi kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Phẩm Dục Sanh Thời Tam Thập Nhị Thụy (欲生時三十二瑞品) của Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō Vol. 3, No. 186) quyển 2, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經, Taishō Vol. 3, No. 191) quyển 3, Phẩm Thọ Hạ Đản Sanh (樹下誕生品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 8, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 70, v.v., đều có ghi lại nhiều tướng lạ khác nhau khi đức Thích Tôn hạ sanh. Sau khi trở về cung, Thái Tử được đặt cho tên là Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多), hay Tát Bà Tất Đạt (s: Sarva-siddhārtha, p: Sabba-siddhattha, 薩婆悉達), Tát Bà Ngạch Tha Tất Đà (s: Sarvārtha-siddha, 薩婆額他悉陀), Tát Bà Hạt Thích Tha Tất Đà (薩婆曷刺他悉陀), Tất Đạt La Tha (悉達羅他), Tất Đạt (悉達); ý dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành (一切義成), Nhất Thiết Sự Thành (一切事成), Tài Cát (財吉), Cát Tài (吉財), Thành Lợi (成利), Nghiệm Sự (驗事), Nghiệm Nghĩa (驗義). Sau khi sanh con được 7 ngày, phu nhân qua đời, Thái Tử được dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, 摩訶波闍波提) nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn. Theo Phẩm Tập Học Kỷ Nghệ (習學技藝品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh quyển 11, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事, Taishō Vol. 24, No. 1450) quyển 3, v.v., cho biết rằng thưở thiếu thời Thái Tử từng theo học tập văn chương với Bà La Môn Tỳ Xa Mật Đa (s: Viśvamitra, 毘奢蜜多), học võ nghệ với Sàn Đề Đề Bà (s: Kṣāntideva, 羼提提婆), hết thảy đều thông hiểu. Khi trưởng thành, Thái Tử kết hôn với Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅), con gái của Thiện Giác Vương (s: Suprabuddha, 善覺王)—thành chủ của Thiên Tý Thành, hạ sanh La Hầu La (s, p: Rāhula, 羅睺羅). Theo Phẩm Du Quán (遊觀品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho biết rằng Thái Tử từng ra bốn cửa thành dạo chơi, thấy các hình tượng già, bệnh, chết, vị Sa Môn (s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門), v.v., thâm cảm được nỗi thống khổ cũng như vô thường của kiếp người, bèn dấy khởi ý chí xuất gia tu đạo. Năm lên 29 tuổi (có thuyết cho là 19), nữa đêm Người rời khỏi vương cung, tự cởi bỏ áo mão để trở thành Sa Môn. Ban đầu, Thái Tử cầu đạo với tiên nhân Bạt Già Bà (s: Bhārgava, 跋伽婆) của nước Tỳ Xá Ly (s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘舍離), rồi đến thọ giáo với các hiền giả A La La Ca Lam (s: Ārāḍa-kālāma, 阿羅邏迦藍), Uất Đà Ca La Ma Tử (s: Udraka-rāmaputra, 鬱陀迦羅摩子) ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城). Cuối cùng, Người đến Khổ Hạnh Lâm ở thôn Ưu Lâu Tần La (s: Uruvilvā, 優樓頻羅) thuộc phương Nam thành Già Da (s, p: Gayā, 伽耶) của vương quốc Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), bắt đầu cuộc sống khổ hạnh trong vòng 6 năm, và có 5 người thị giả do vua Tịnh Phạn phái đến cùng tu. Trong thời gian này, mỗi ngày Người chỉ ăn một hạt mè, một hột lúa mạch, đến nỗi thân hình khô gầy, tâm thể suy kiệt, nhưng cuối cùng vẫn không thành đạo; nên Người mới ngộ được rằng khổ hạnh không phải là nhân đạt đến đạo quả, bèn rời khỏi khu rừng này. Lúc bấy giờ, 5 người cùng tu ngộ nhận rằng Thái Tử thối thất đạo tâm, nên bỏ đi. Thái Tử đến tắm rửa bên dòng sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā, 尼連禪), thọ nhận bát sữa cúng dường của cô mục nữ. Sau khi phục hồi thể lực, Người đến dưới cây Tất Bát La (s: pippala, 畢鉢羅) ở thôn Già Da, lấy cỏ Cát Tường trãi thành tòa Kim Cang, ngồi Kiết Già xoay mặt về hướng Đông, thân ngay thẳng chánh niệm, tâm tĩnh lặng mặc chiếu, tư duy về đạo giải thoát. Sau 49 ngày, vào lúc trời hừng sáng ngày mồng 8 tháng 12, Người hoát nhiên đại ngộ, lúc đó là 35 tuổi (có thuyết cho là 32). Do nhân duyên này, cây Tất Bát La được gọi là Bồ Đề Thọ (s: bodhivṛkṣa, 菩提樹). Sự kiện đức Thích Tôn hàng phục ma quân, cho đến thành đạo được ghi lại trong các điển tịch như La Ma Kinh (羅摩經) của Trung A Hàm Kinh quyển 56, Lục Niên Cần Khổ Phẩm (六年勤苦品) và Hàng Ma Phẩm (降魔品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, phật bản hạnh tập kinh quyển 26~30, Ngũ Phần Luật (五分律, Taishō Vol. 22, No. 1421) quyển 15, v.v. Sau khi thành đạo, đức Phật đến vườn Lộc Dã (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿野, tức Lộc Uyển), Thành Ba La Nại (s: Vārāṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈), độ cho 5 vị thị giả đã từng cùng tu với Ngài trước đây. Các vị này sau trở thành những Tỳ Kheo nổi tiếng là A Nhã Kiều Trần Như (p: Ājñāta-Kauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), A Thấp Bà Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿濕婆恃), Bạt Đề (s: Bhadrika, p: Bhaddiya, 跋提), Ma Ha Nam (s, p: Mahānāma, 摩訶男), Bà Sa Ba (s: Bāṣpa, p: Vappa, 婆沙波, tức Thập Lực Ca Diếp [s: Daśabala-kāśyapa, p: Dasabala-kassapa, 十力迦葉]). Liên quan đến sự tích đức Phật lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, diễn thuyết Tứ Thánh Đế (s: catvāri-āryasatyāni, p: cattāri-ariyasaccāni, 四聖諦), Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道), v.v., Chuyển Pháp Luân Kinh (轉法輪經) của Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, Taishō Vol. 2, No. 99) quyển 15, Ngũ Phần Luật quyển 15, Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 39, v.v., có ký lục đầy đủ. Như trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) quyển 4 có đoạn rằng: “Thích Tôn sơ ư Lộc Uyển, tam chuyển Tứ Đế pháp luân, độ tham thị ngũ nhân, nhi Kiều Trần tiên ngộ, dĩ tối sơ đắc độ (釋尊初於鹿苑、三轉四諦法輪、度參侍五人、而憍陳先悟、以最初得度, đức Thích Tôn ban đầu tại Lộc Uyển, ba lần chuyển bánh xe pháp thuyết Tứ Đế, độ năm người hầu cận tham học, mà Kiều Trần Như ngộ trước, là người đắc độ đầu tiên).” Sau này, đức Phật tự xưng là Như Lai (s, p: tathāgata, 如來). Có rất nhiều ngữ nghĩa của từ này, nhưng nghĩa chung nhất của nó là “thừa như thật chi đạo, nhi thiện lai thử Ta Bà thế giới (乘如實之道、而善來此娑婆世界, mang đạo như thật mà khéo đến thế giới Ta Bà này).” Sau khi chuyển Pháp Luân lần đâu tiên, đức Thích Tôn đến nước Ma Kiệt Đà, hóa độ 3 anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (s: Uruvilvā-kāśyapa, 優樓頻羅迦葉), Na Đề Ca Diếp (s: Nadi-kāśyapa, 那提迦葉), Già Da Ca Diếp (s: Gayā-kāśyapa, 伽耶迦葉) của phái Bái Hỏa Giáo (拜火敎) và cả ngàn đệ tử của họ. Tiếp theo, Ngài hóa độ Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) và Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連) thuộc Phái Ngụy Biện của Lục Sư Ngoại Đạo; về sau chính hai vị này trở thành đệ tử thượng túc của đức Phật. Sau đó, tại Thành Vương Xá, vua Tần Bà Ta La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅) quy y theo đức Phật; nhà vua cho xây dựng Tinh Xá trong vườn trúc do Trưởng giả Ca Lan Đà (s: Kalanda, 迦蘭陀) dâng cúng, lấy tên là Ca Lan Đà Trúc Lâm Tinh Xá (迦蘭陀竹林精舍). Đến đây, giáo đoàn Phật Giáo phát triển với thế lực mạnh. Về sau, đức Phật có trở về cố hương Ca Tỳ La Vệ một lần, số người quy y theo rất đông, trong đó có người em cùng cha khác mẹ Nan Đà (s, p: Nanda, 難陀), con trai La Hầu La, người em họ Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多), người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v., mọi người đều xuống tóc xuất gia. Ngài thuyết pháp cho trưởng giả Tu Đạt Đa (s, p: Sudatta, 須達多) ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), nhân đó trưởng giả kiến lập ngôi Đại Tinh Xá trong khu rừng do Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) tặng, để dâng cúng đức Phật. Đây gọi là Kỳ Hoàn Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍) hay Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍). Vào lúc này, vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng phát tâm quy y với đức Phật. Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, đức Phật lại trở về cố hương lần nữa. Về sau, bà di mẫu Ma Ha Bà Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, p: Mahāpajāpatī, 摩訶波闍波提), công chúa Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅) cũng xuống tóc xuất gia, và đây được xem như là khởi đầu cho giáo đoàn Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); trong đó Ma Ha Bà Xà Ba Đề là Tỳ Kheo Ni đầu tiên. Từ đó về sau, đức Thích Tôn đi khắp Ấn Độ thuyết pháp giáo hóa, bất luận giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, thảy đều được hưởng ân huệ giáo pháp của Ngài. Giáo pháp ấy ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa cũng như tôn giáo Ấn Độ. Sau khi Ngài thành đạo, những nơi Ngài đã từng trãi qua Kết Hạ An Cư, đều được ghi rõ trong Tăng Già La Sát Sở Tập Kinh (僧伽羅剎所集經, Taishō Vol. 4, No. 194) quyển Hạ. Theo đó, đức Phật đã từng trú qua các nơi như nước Ba La Nại, núi Linh Thứu (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 靈鷲山), núi Ma Câu La (s: Makula, 摩拘羅), cõi Trời Ba Mươi Ba, cõi quỷ thần, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (祇樹給孤獨) ở Thành Xá Vệ, Chá Lê Sơn (柘梨山), v.v. Theo Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), đức Phật từng tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn, sau từng sống tại rừng Tỳ Sa (毘沙), đỉnh núi Nhã Lí (惹里), các tụ lạc Đại Dã (s: Aḷāvī, 大野), Mao Nỗ (尾努), v.v. Hơn nữa, học giả Anh quốc T.W. Rhys Davids (1843-1922) căn cứ vào tích truyện Phật Giáo của Tích Lan, Miến Điện, bản pháp cú kinh chú (p: Dhammapada atthakathā, 法句經註) tiếng Pāli, v.v., cho rằng sau khi kiến lập vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, đức Phật đã từng trú tại Đại Lâm (p: Mahā-vana, 大林) của Thành Tỳ Xá Ly (s: Vaiśāli, 毘舍離), núi Ma Câu La, Tăng Ca Xá (p: Saṅkissa, 僧迦舍), Ba Lợi Lôi Nhã Tạp (s: Parileyyaka, 巴利雷雅卡), Mạn Đặc Lạt (p: Mantala, 曼特剌), v.v. Ngoài ra, Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 3, Phân Biệt Công Đức Luận (分別功德論, Taishō Vol. 25, No. 1507) quyển 2, Cao Tăng Pháp Hiển Truyện (高僧法顯傳, Taishō Vol. 51, No. 2085), v.v., cũng có ký lục như vậy. Tổng hợp các tư liệu trên, chúng ta có thể suy ra rằng địa phương hoằng pháp của đức Phật phần lớn tập trung tại hai thành Xá Vệ và Vương Xá. Về những sinh hoạt cuối đời của Ngài, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 26, Phật Thuyết Nghĩa Túc Kinh (佛說義足經, Taishō Vol. 4, No. 198) quyển Hạ, Xuất Diệu Kinh (出曜經, Taishō Vol. 4, No. 212) quyển 16, Tỳ Ni Mẫu Kinh (毘尼母經, Taishō Vol. 24, No. 1463) quyển 4, Ngũ Phần Luật quyển 3, 21, 25, Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 46, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự quyển 13, 14, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 2, v.v., có ký lục rõ ràng. Lúc bấy giờ, Đề Bà Đạt Đa muốn bức bách đức Phật phải nhường lại giáo đoàn tăng chúng cho ông, nhưng ý đồ không thành, bèn phá tăng hoại Phật. Thêm vào đó, vua Lưu Ly (琉璃), con của vua Ba Tư Nặc, sau khi tức vị, tấn công Thành Ca Tỳ La Vệ, cố hương của đức Phật, diệt vong dòng họ Thích Ca. Vào năm cuối cùng khi đức Phật còn tại thế, Ngài rời nước Ma Kiệt Đà, đi về phía Bắc sông Hằng, kinh qua Tỳ Xá Ly, đến Thành Ba Bà (s: Pāvā, 波婆), thọ nhận bữa cơm cúng dường của người thợ vàng Thuần Đà (s, p: Cunda, 純陀), và nhân vì ăn loại nấm Tô Ca Lạp Ma Đạt Phạt (s: sūkaramaddava, 蘇迦拉摩達伐, tức nấm cây Chiên Đàn) mà mắc bệnh. Trước khi lâm chung, Ngài đến tắm lần cuối cùng tại dòng sông Câu Tôn (p: Kakuṭṭha, 拘孫河), rồi đến rừng Sa La Song Thọ (沙羅雙樹) ở Thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), đầu xoay về hướng Bắc, mặt hướng phía Tây, nằm thế cát tường. Vào nữa đêm, Ngài để lại lời giáo huấn cuối cùng cho chúng đệ tử, rồi sau đó thì an nhiên nhập diệt. Ban đầu, di cốt của đức Thích Tôn được an trí tại Thiên Quan Tự (s: Makuṭabandhana-cetiya, 天冠寺) của bộ tộc Mạt La (s, p: Malla, 末羅), sau đó hỏa táng. Khi tham gia lễ Trà Tỳ có sứ đoàn của 8 nước, gồm Câu Thi Na Yết La (拘尸那揭羅), Ba Bà (波婆), Giá La (遮羅), La Ma Già (羅摩伽), Tỳ Lưu Đề (毘留提), Ca Tỳ La (迦毘羅), Tỳ Xá Ly (毘舍離), Ma Kiệt Đà (摩揭陀), v.v., do vấn đề phân phối Xá Lợi (s: śarīra, p: sarīra, 舍利) mà nảy sinh đấu tranh lẫn nhau. Sau đó, nhờ sự điều đình của Bà La Môn Hương Tính (s: Doṇa, 香姓) mà được yên ổn, cho nên người này có được bình Xá Lợi. Từ đó, mỗi nước dựng tháp cúng dường, và đây là phát xuất của truyền thống thập tháp (10 ngôi tháp) ngày nay. Năm đức Phật nhập diệt, tại Hang Thất Diệp (s: Sapta-parṇa-guhā, 七葉窟) của Thành Vương Xá, cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên được tiến hành. Đương thời, Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là người triệu tập chủ yếu; A Nan (s, p: Ānanda, 阿難) và Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離) thì tụng đọc các Kinh Luật của Phật thuyết trên cơ sở từng được nghe qua, rồi được đại chúng thảo luận, hiệu đính để trở thành tiêu chuẩn cho Kinh Luật đời sau. Về sau, trãi qua biết bao biến thiên, giáo pháp của đức Thích Tôn được phân thành hai hệ thống chính, truyền bá khắp nơi: Nam Truyền chủ yếu là tiếng Pāli và Bắc Truyền chủ yếu là kinh điển Hán dịch. Liên quan đến năm tháng xác thật đức Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo, lần đầu chuyển Pháp Luân, tuổi thọ, nhập diệt, v.v., trong kinh điển có nhiều thuyết khác nhau. Về tuổi thọ, có 4 thuyết chính: (1) Tam Thế Đẳng Phẩm (三世等品) của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh (菩薩從兜術天降神母胎說廣普經, Taishō Vol. 12, No. 384, tức Bồ Tát Xử Thai Kinh [菩薩處胎經]) quyển 23 cho là thọ 84 tuổi. (2) Bát Nê Hoàn Kinh (般泥洹經, Taishō Vol. 1, No. 6) quyển Hạ cho là 79 tuổi. (3) Thọ Lượng Phẩm (壽量品) của Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) quyển 1, Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), Đại Bát Niết Bàn Kinh (p: Mahāparinibbāna-sutta, 大般涅槃經) bản tiếng Pāli, truyền thống của Miến Điện, v.v., cho là 80. (4) A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 126 cho là hơn 80. Về niên đại đản sanh của Ngài, học giả hiện đại cũng có nhiều suy định khác nhau. Học giả Nhật Bản Vũ Tỉnh Bá Thọ (宇井伯壽, Ui Hakuju, 1882-1963) cho rằng năm Phật đản sanh là 466 trước CN. Trung Thôn Nguyên (中村元, Nakamura Hajime, 1912-1999) cũng ý cứ vào thuyết này, sau lấy sử liệu mới phát hiện của Hy Lạp, sau khi khảo chứng thì cho là năm 463 trước CN. Về ngày tháng đản sanh của đức Phật, có 5 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 7, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa (薩婆多毘尼毘婆沙, Taishō Vol. 23, No. 1440) quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bồ Tát Giáng Than Phẩm (菩薩降身品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng cho là ngày mồng 7 hay 8 tháng 4. (3) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh (太子瑞應本起經, Taishō Vol. 3, No. 185) quyển Thượng, Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi Kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Sanh Phẩm (生品) của Phật Sở Hành Tán (佛所行讚, Taishō Vol. 4, No. 192) quyển 1, Phật Thuyết Thập Nhị Du Kinh (佛說十二遊經, Taishō Vol. 4, No. 195), Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh (佛說灌洗佛形像經, Taishō Vol. 16, No. 695), v.v., thì cho là ngày mồng 8 tháng 4. (4) Điều Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ Quốc (劫比羅伐窣堵國條) của Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 6 thì cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (5) Thượng Tọa Bộ (上座部) cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng xuất gia của đức Phật, có 5 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 2 cho là ngày mồng 7 tháng 2. (3) Xuất Gia Phẩm (出家品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho là ngày mồng 7 tháng 4. (4) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh quyển Thượng, Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh, v.v., cho là mồng 8 tháng 4. (5) Bản Sanh Kinh Phật Truyện (本生經佛傳) bản tiếng Pāli cho là ngày thứ 15 của tháng A Sa Trà (s: Āsāḷhā, 阿沙荼). Về ngày tháng thành đạo của Ngài, có 4 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bản Đại Sử (p: Mahāvaṃsa, 大史) tiếng Pāli cho là ngày trăng tròn tháng Vesākhā. (3) Đại Đường Tây Vức Ký quyển 8 cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Thượng Tọa Bộ cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, có 2 thuyết. (1) Bồ Tát Xử Thai Kinh quyển 7 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 182 cho là ngày mồng 8 của tháng Ca Lật Để Ca (s: Kārttika, 迦栗底迦, hay Ca Hi Na [迦絺那]). Về ngày tháng nhập diệt của Ngài, có 6 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 1, v.v., cho là ngày 15 tháng 2. (3) Bài tựa của Nhất Thiết Thiện Kiến Luật (p: Samantapāsādikā, 一切善見律) bản tiếng Pāli, Luật Tạng (p: Vinaya-piṭaka, 律藏) tiếng Pāli, chương thứ 3 của Đại Sử, Điều Câu Thi Na Yết La Quốc (拘尸那揭羅國條) của Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6, v.v., cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2 cho là ngày mồng 8 tháng 8. (5) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 191, Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6 viện dẫn truyện của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部), cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Ca Lật Để Ca. (6) Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 4. Bên cạnh đó, liên quan đến niên đại nhập diệt của đức Thích Tôn, cũng có nhiều thuyết bất đồng. Như học giả Vũ Tỉnh Bá Thọ của Nhật thì chủ trương là năm 386 trước CN. Tiến Sĩ Trung Thôn Nguyên cho là năm 383 trước CN. Pháp sư Ấn Thuận (印順, 1906-2005) của Trung Hoa thì chủ trương năm 390 trước CN. Tổng hợp tất cả những thông tin vừa nêu trên, ngày tháng đản sanh, xuất gia, thành đạo của đức Phật có thể phân thành 3 thuyết chính: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 8 tháng 4, (3) ngày 15 tháng 2. Ngày tháng nhập diệt cũng được chia thành 3 thuyết: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 15 tháng 2, (3) ngày 8 tháng 8. Ngoài ra, Nhị Giáo Luận (二敎論) của Đạo An (道安, 312[314]-385) nhà Bắc Chu, Câu Xá Luận Bảo Sớ (俱舍論寶疏) quyển 1, v.v., so sánh tháng của lịch Ấn Độ và lịch Trung Quốc, cho rằng tháng 2 của Ấn Độ tương đương với tháng 4 của Tàu. Thêm vào đó, vào ngày mồng 1 mỗi tháng của lịch Ấn Độ thì tương đương với ngày 16 âm lịch của Trung Quốc; ngày cuối tháng thì tương đương với ngày 15 của tháng kế tiếp theo lịch của Trung Quốc.
(千二百五十人): tức là 1.250 người. Đây là số lượng chúng đệ tử thường đi theo đức Phật. Trong số đó, có các đệ tử của ba vị Ca Diếp: 500 người của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (s: Uruvilvā-kāśyapa, p: Uruvela-kassapa, 優樓頻螺迦葉), 250 người của Ca Da Ca Diếp (s: Gayā-kāśyapa, 伽耶迦葉), 250 người của Na Đề Ca Diếp (s: Nadī-kāśyapa, p: Nadī-kassapa, 那提迦葉); cọng thêm 200 người đồ chúng đồng môn của Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) và Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連); và 50 người đệ tử của Da Xá (s: Yaśa, Yaśoda, 耶舍), tổng cọng là 1.250 người. Tất cả đều một dạ chí thành theo Phật hầu hạ, nghe pháp, tu tập, làm Phật sự, tận lực suốt đời, thường xuyên bên Ngài, cho đến khi Ngài nhập diệt mới phân tán.
(中元): tức Trung Nguyên Tiết (中元節), đối với Thượng Nguyên (中元) nhằm ngày rằm tháng giêng âm lịch, Hạ Nguyên (下元) vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, Trung Nguyên nhằm vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Trung Nguyên Tiết là tên gọi của Đạo Giáo, Vu Lan Bồn Tiết (盂蘭盆節) là tên gọi của Phật Giáo, còn gọi là Trung Nguyên Phổ Độ (中元普渡), Hiếu Tử Tiết (孝子節).Thuyết Tam Nguyên này phát xuất từ Đạo Giáo, sau này lễ Trung Nguyên được hỗn hợp với truyền thống Vu Lan Bồn của Phật Giáo để cúng dường và cầu siêu độ cho các vong linh đã quá cố. Vì vậy khi nói đến Trung Nguyên cũng có nghĩa là Vu Lan Bồn. Bên cạnh đó, theo truyền thống Phật Giáo, rằm tháng 7 cũng là ngày xá tội vong nhân, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣) của chư tăng ni, như trong Tuế Thời Quảng Ký (歲時廣記) quyển 29, phần Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) có đề cập rằng: “Tứ nguyệt thập ngũ nhật nãi Pháp Vương cấm túc chi thần, Thích tử hộ sanh chi nhật, tăng ni dĩ thử nhật tựu Thiền sát kết hạ lực, hựu vị chi Kết Chế; cái trưỡng dưỡng chi tiết tại ngoại hành, khủng thương thảo mộc trùng loại; cố cửu thập nhật An Cư, chí thất nguyệt thập ngũ nhật Giải Hạ, hựu vị chi Giải Chế (四月十五日乃法王禁足之辰、釋子護生之日、僧尼以此日就禪剎結夏力、又謂之結制、蓋長養之節在外行、恐傷草木蟲類、故九十日安居、至七月十五日解夏、又謂之解制, rằm tháng tư là ngày đấng Pháp Vương [đức Phật] cấm túc [giới hạn đi ra ngoài], là ngày người con Phật bảo vệ sinh mạng, tăng ni lấy ngày này đến các Thiền viện Kết Hạ An Cư, còn gọi là Kết Chế; lấy năng lực đó nuôi lớn, giới hạn việc đi ra ngoài, sợ làm tổn thương cây cỏ, côn trùng; cho nên sau 90 ngày An Cư, đến ngày rằm tháng 7 thì Giải Hạ [kết thúc kỳ Kết Hạ An Cư], còn gọi là Giải Chế).” Sau ngày Giải Hạ, từ ngày 16 tháng 7 âm lịch trở đi, cuộc sống mới bắt đầu; vì vậy ngày rằm tháng 7 cũng tượng trưng cho sự phục hoạt và sinh sống mới. Xưa kia, trong dân gian vẫn thường gọi lễ hội này là Quỷ Tiết (鬼節). Tương truyền có một hôm nọ, cửa địa ngục mở tung ra, các âm linh, quỷ sứ dưới âm ty được tự do thoát ra ngoài. Người nào có chủ thì về nhà mình, người không chủ thì đi lang thang, vất vưởng đây đó; cho nên, trong dân gian thường thiết lễ tụng kinh cầu nguyện vào dịp tháng 7 để cầu siêu độ các âm linh cô hồn, để họ không gây họa cho con người, và trở lại phò trợ cho tật bệnh tiêu trừ, gia trạch bình an. Về truyền thuyết của lễ hội này, bên cạnh thuyết đệ tử của đức Phật là Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連) cứu mẹ như được thuyết trong Vu Lan Bồn Kinh (s: Ulambanasūtra, 盂蘭盆經) của Phật Giáo, về phía dân gian cung như Đạo Giáo, có truyền thuyết khác đến tiền giấy. Theo thuyết của Thái Luân (蔡倫, khoảng 63-121) thời Đông Hán (東漢, 25-220) sau khi phát minh ra tiền giấy, cuộc sống hưng thịnh, khá giả, tiền của dư dật. Anh trai ông là Thái Mạc (蔡莫) cùng với chị Huệ Nương (慧娘) thấy vậy rất thèm muốn. Cả hai cùng đến gặp Thái Luân xin học cách chế tạo giấy. Tuy nhiên, tâm của Thái Mạc thì quá nôn nóng muốn làm giàu, nên công phu học tập tuy chưa thuần thục đã vội mở tiệm kinh doanh. Cuối cùng, kết quả cho thấy rằng giấy do ông làm ra có phẩm chất không tốt, bị mọi người chê trách; cả hai vợ chồng ngồi buồn rầu rĩ. Chợt Huệ Nương nảy ra một diệu kế, bàn nhỏ với chồng và thực hiện. Có một đêm nọ, người dân hàng xóm bỗng nhiên nghe tiếng khóc lóc thảm thiết vọng lại từ nhà của Thái Mạc. Mọi người chạy đến xem hư thực, mới biết là Huệ Nương đã chết tối hôm qua. Đến sáng hôm sau, trước mặt mọi người, Thái Mạc kêu gào bi thương bên quan tài vợ hiền, vừa khóc vừa đốt giấy. Bỗng nhiên, từ trong quan tài vọng ra tiếng nói rằng: “Mở cửa ra, mở cửa ra ! Ta sống lại đây !” Người tham dự kinh sợ, cuối cùng có người gan dạ mới dám bước đến mở nắp quan tài ra. Huệ Nương từ trong quan tài bước ra kể với mọi người rằng sau khi bà qua đời, sanh xuống cõi âm; khi ấy Diêm Vương xét tội trạng và ban cực hình, chịu cực khổ muôn vàn. Nhưng nhờ có Thái Mạc đốt giấy tiền, chúng tiểu quỷ thâu lấy đem dâng cho Diêm Vương; cho nên Diêm Vương mới tha cho trở về lại dương gian. Nghe vậy, Thái Mạc giả vờ hỏi: “Ta đâu có đốt tiền.” Huệ Nương lấy tay chỉ vào đống tro tàn bảo: “Dưới cõi âm đó chính là tiền.” Từ đó, người dân mới phát hiện ra công dụng và lợi ích của tiền giấy; họ đỗ xô đến tiệm của Thái Mạc mua giấy tiền về cúng. Ngày Huệ Nương sống lại cũng đúng vào rằm tháng bảy; cho nên cũng nhân ngày này, dân chúng mua giất tiền đốt dâng cúng tổ tiên cũng như những người đã qua đời. Theo Đạo Giáo, ngày Thượng Nguyên là ngày Thiên Quan (天官) ban phước; ngày Trung Nguyên là ngày Địa Quan (地官) xá tội; và ngày Hạ Nguyên là ngày Thủy Quan (水官) giải ách. Cho nên, vào ngày rằm tháng 7, dân gian thường chuẩn bị các mâm cỗ cúng rất phong phú để dâng cúng cho Địa Quan cũng như tổ tiên quá cố. Về tập tục cúng tế vào dịp Trung Nguyên này, có nhiều tài liệu ghi lại như tác phẩm Đường Lục Điển (唐六典, tức Đại Đường Lục Điển [唐六典]) ghi rằng: “Trung Thượng Thự thất nguyệt thập ngũ nhật tấn Vu Lan Bồn (中尚署七月十五日進盂蘭盆, vào ngày rằm tháng bảy, Trung Thượng Thự [cơ quan chuyên trách đồ ẩm thức hiến cúng] hiến cúng Vu Lan Bồn).” Như vậy, đương thời việc tiến cúng Vu Lan Bồn vào dịp Trung Nguyên là định lệ trong cung nội. Trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 do (孟元老, ?-?) nhà Tống soạn có đoạn: “Tiên sổ nhật, thị tỉnh mại minh ngoa hài, kim tê giả đái, ngọc thải y phục, … cập ấn mại Tôn Thắng Mục Liên Kinh (先數日、市井賣冥器靴鞋、金犀假帶、五綵衣服、… 及印賣尊勝目蓮經, trước [Trung Nguyên] vài ngày, phố xá có bán các thứ giày dép, tê giác vàng, dây đai giả, y phục lụa năm màu đồ âm binh, … và mua Tôn Thắng Mục Liên Kinh).” Hay như trong Đế Kinh Cảnh Vật Lược (帝京景物略) quyển 2 do Lưu Đồng (劉侗, khoảng 1593-1636) và Vu Dịch Chánh (于奕正, ?-?) nhà Minh soạn, có kể rằng: “Thập ngũ nhật, chư tự kiến Vu Lan Hội, dạ ư thủy thứ phóng đăng, nhật phóng hà đăng (十五日、諸寺建盂蘭會、夜於水次放燈、日放河燈, vào ngày rằm, các chùa mở hội Vu Lan, đêm về thả đèn trên nước, ban ngày thả đèn trên sông).” Hoặc như trong Huyền Đô Đại Hiến Kinh (玄都大獻經) của Đạo Giáo có dạy rằng: “Thất nguyệt thập ngũ nhật, Trung Nguyên chi tiết dã; … thị nhật Địa Quan hiệu duyệt, sưu thuyết chúng nhân, phân biệt thiện ác, chư thiên Thánh chúng, phổ nghệ cung trung, giản định kiếp số nhân quỷ bộ lục, ngạ quỷ tù đồ, nhất thời câu tập, dĩ kỳ nhật tác Huyền Đô đại trai, địch ư Ngọc Kinh, cập thái hoa quả, thế gian sở hữu kỳ dị chi vật, ngoạn lộng phục sức, tràng phan bảo cái, trang nghiêm cúng dường chi cụ, thanh thiện ẩm thực, bách vị phân phương, hiến chư chúng Thánh, cập dữ đạo sĩ, dữ kỳ nhật nguyệt giảng tụng thị kinh, thập phương Đại Thánh, cao lục linh thiên, tù đồ ngạ quỷ, đương thời giải thoát, nhất câu bão mãn, miễn ư chúng khổ, đắc tuyển nhân trung; nhược phi như thử, nan khả bạt thoát (七月十五日、中元之節也、…是日地官校閱、搜說眾人、分別善惡、諸天聖眾、譜詣宮中、簡定劫數人鬼簿錄、餓鬼囚徒、一時俱集、以其日作玄都大齋、敵於玉京、及採諸花果、世間所有奇異之物、玩弄服飾、幢幡寶蓋、莊嚴供養之具、清膳飲食、百味芬芳、獻諸眾聖、及與道士、與其日月講誦是經、十方大聖、高錄靈篇、囚徒餓鬼、當時解脫、一俱飽滿、免於眾苦、得選人中、若非如此、難可拔脫, ngày rằm tháng bảy là Tiết Trung Nguyên; ngày này Địa Quan xét duyệt, sưu tra mọi người, phân biệt thiện ác; các Thánh trên trời, tập trung trong cung điện, định rõ sổ bộ kiếp số của quỷ và con người, chúng quỷ đói giam tù, cùng lúc tập họp, lấy ngày này làm ngày cúng chay Huyền Đô, tranh nhau cúng ở Ngọc Kinh; cùng chọn các thứ hoa quả, những vật kỳ dị hiếm có trên đời, áo quần trang phục vua đùa, tràng phan lọng báu, các vật cúng dường trang nghiêm, mâm cỗ ăn uống trong sạch, trăm vị thơm ngon, hiến cúng các bậc Thánh, cùng những đạo sĩ, vào ngày tháng này giảng tụng kinh này; các Đại Thánh trong mười phương, ghi rõ sổ linh; chúng quỷ đói bị giam cầm, lúc bấy giờ được giải thoát, hết thảy đều no đủ, xa lìa các khổ, được sanh làm người; nếu không làm như vậy, khó được giải thoát)”, v.v. Lễ hội này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống tâm linh con người Á Châu, dầu bất cứ tôn giáo nào đi nữa; cho nên, văn chương, thi phú ca ngợi nhiều về nó. Như Linh Cô Sở (令孤楚, 766-837) có làm bài thơ Nhật Tặng Trương Tôn Sư (日贈張尊師) về Tiết Trung Nguyên rằng: “Ngẫu lai nhân thế trị Trung Nguyên, bất hiến Nguyên Đô vị nhật nhàn, tịch tịch phần hương tại tiên quán, tri sư diêu lễ Ngọc Kinh San (偶來人世值中元、不獻元都未日閒、寂寂焚香在仙觀、知師遙禮玉京山, tình cờ nhân thế gặp Trung Nguyên, chẳng cúng Nguyên Đô chưa an nhàn, lẳng lặng đốt hương nơi tiên quán, biết thầy xa lễ Ngọc Kinh San).” Thi sĩ Ân Nghiêu Phiên (殷堯藩, ?-?) nhà Đường có bài Trung Nguyên Quán Pháp Sự Bộ Hư (中元觀法事步虛) rằng: “Ngột đô khai bí lục, bạch thạch lễ tiên sanh, thượng giới thu quang tịnh, Trung Nguyên dạ khí thanh, tinh thần triều đế xứ, tư hạc bộ hư thanh, ngọc động hoa trường phát, châu cung nguyệt tối minh, tảo đàn thiên địa túc, đầu giản quỷ thần kinh, thảng tứ Đao Khuê Dược, hoàn lưu bất tử danh (兀都開秘籙、白石禮先生、上界秋光淨、中元夜氣清、星辰朝帝處、鷥鶴步虛聲、玉洞花長發、珠宮月最明、掃壇天地肅、投簡鬼神驚、儻賜刀圭藥、還留不死名, kinh đô bày bí điển, đá trắng lạy tiên sanh, cõi trên ánh thu lắng, Trung Nguyên đêm khí trong, sao trời chầu đế chúa, cò hạc bước thong dong, động ngọc hoa nở ngát, cung báu trăng sáng ngần, quét đàn trời đất dịu, gieo ống quỷ thần kinh, nếu ban Đao Khuê Thuốc [thuốc tán viên bột], lưu mãi bất tử danh).” Trong khi đó, Biên Cống (邊貢, 1476-1532) nhà Minh có làm bài Trung Nguyên Kiến Nguyệt (中元見月) như sau: “Tọa ái thanh quang hảo, cánh thâm bất hạ lâu, bất nhân phùng nhuận nguyệt, kim dạ thị trung thu (坐愛清光好、更深不下樓、不因逢閏月、今夜是中秋, ngồi ngắm ánh trăng sáng, hồi lâu chẳng xuống lầu, chẳng hay gặp tháng nhuận, đêm nay là giữa thu)”, v.v.
(盂蘭盆, Urabon): âm dịch của tiếng tục ngữ Ấn Độ ullambana, được xem như là viết sai của từ avalambana, ý là đảo huyền (倒懸, treo ngược), là nghi thức cúng bái được tiến hành nhằm để cứu độ cái khổ bị treo ngược. Bên cạnh đó, cũng có thuyết cho rằng từ Vu Lan Bồn vốn phát xuất từ nguyên ngữ ullambana (cứu độ), nhưng cả hai thuyết trên không có xác chứng rõ ràng. Gần đây có thuyết cho rằng nó phát xuất từ ngôn ngữ cũng như nghi lễ nông canh của trung ương Châu Á. Theo Vu Lan Bồn Kinh (s: Ulambanasūtra, 盂蘭盆經), mẹ của Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連), đệ tử của đức Phật, lúc sanh tiền tạo nhiều tội nghiệp, sau khi chết sanh vào đường Ngạ Quỷ, không ăn được, chịu rất nhiều nỗi khổ. Vì vậy, để giải thoát nỗi khổ này, đức Phật đã dạy Mục Kiền Liên thiết trai cúng dường chúng tăng trăm vị thức ăn vật uống nhân ngày Tự Tứ, rằm tháng 7, và thiết lễ cúng thí thực Ngạ Quỷ, cho nên nhờ công đức đó mà cái khổ trong đường Ngạ Quỷ của cha mẹ bảy đời cũng như cũng như cái khổ của cha mẹ đời sau cũng được tiêu trừ. Từ truyền thuyết này, lễ hội Vu Lan ra đời. Nó được truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản và phổ cập trong tầng lớp thứ dân đương thời. Lễ hội này kết hợp tư tưởng bố thí và Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣) của chư tăng trong Phật Giáo với tư tưởng hiếu đạo và Trung Nguyên của Trung Quốc, để hình thành nên Phật sự cúng dường tổ tiên không thể thiếu được. Hội Vu Lan Bồn còn được gọi là Bồn Hội (盆會), Hoan Hỷ Hội (歡喜會), Hồn Tế (魂祭), v.v. Vào ngày rằm tháng 7 âm lịch, người ta dựng một cái Nhà Vong Linh, rồi triệu thỉnh các vong linh của ông bà tổ tiên đã qua đời về tại đó và cung thỉnh chư tăng đến tụng kinh cầu nguyện. Trong khoảng thời gian này, trai chủ cúng dường trai phạn vật phẩm cho chúng tăng để tích lũy công đức và hồi hướng lên cho ông bà tổ tiên mình. Phát xuất từ tâm tư mỗi năm vào dịp lễ hội Vu Lan này muốn cho ông bà được ở lâu với mình hơn nữa, người ta kéo dài kỳ hạn ra thêm, dài nhất là từ ngày 13 cho đến 16 tháng 7, nhưng trọn tháng 7 được xem như là tháng Vu Lan Bồn. Ở vùng nông thôn, do vì có liên quan đến mùa vụ cho nên thời gian tổ chức lễ hội này trễ hơn đến ngày rằm tháng 8. Tháng 7 âm lịch gặp tiết mùa Thu, cho nên nguyên lai lễ Hội Vu Lan Bồn là Phật sự mùa Thu. Theo ký lục xưa nhất như Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) cho thấy rằng ở Trung Quốc lễ hội này được tiến hành đầu tiên vào năm 538 (năm thứ 4 niên hiệu Đại Đồng [大同]). Lúc bấy giờ, vua Lương Võ Đế thân chinh thiết lễ cúng dường trai tăng Vu Lan Bồn tại Đồng Thái Tự (同泰寺). Bên cạnh đó, trong Kinh Sở Tuế Thời Ký (荆楚歲時記) do Tông Lẫm (宗懍, khoảng 501-565) nhà Lương thời Nam Triều soạn, cũng có ghi rằng: “Thất nguyệt thập ngũ nhật, tăng ni đạo tục tất doanh bồn cúng chư Phật (七月十五日、僧尼道俗悉營盆供諸佛, vào ngày rằm tháng bảy, chư tăng ni và tín đồ tại gia đều chuẩn bị Vu Lan Bồn để dâng cúng chư Phật).” Tại Nhật Bản là năm 606 (năm thứ 14 niên hiệu Suy Cổ [推古]). Vào tháng 4 năm này, cũng như mỗi năm vào ngày mồng 8 tháng 4 và rằm tháng 7, Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628) có thiết trai cúng dường. Đến năm thứ 3 (657) đời Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō, tại vị 655-661), nhà vua cho dựng tượng Tu Di Sơn (須彌山) ở Phi Điểu Tự (飛鳥寺, Asuka-dera), thiết lập Vu Lan Bồn Hội cúng dường; rồi đến ngày rằm tháng 7 năm 659 thì cho tiến hành thuyết giảng Vu Lan Bồn Kinh tại các ngôi chùa trong kinh đô để hồi hướng công đức cho cha mẹ bảy đời. Vào tháng 7 năm thứ 5 (733) niên hiệu Thiên Bình (天平) đời vua Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), nhà vua cho thiết lập chức quan Đại Thiện (大膳) để lo việc cúng dường thức ăn trong lễ hội Vu Lan Bồn; từ đó, lễ hội này trở thành Phật sự thông lệ trong cung nội, được quy định tổ chức vào ngày 14 tháng 7 âm lịch hằng năm với tên gọi là Vu Lan Bồn Cúng (盂蘭盆供). Đến thời Nại Lương (奈良, Nara, 710-794), Bình An (平安, Heian, 794-1185), lễ hội được công khai tổ chức vào ngày rằm tháng 7. Và đến thời Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333) thì Thí Ngạ Quỷ Hội (施餓鬼會, Segakie, tức Lễ Cúng Thí Thực, Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn) được kết hợp tiến hành trong dịp Vu Lan Bồn. Từ đó trở về sau, lễ Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn thường được tiến hành song song với lễ hội trọng đại này.
(s: śarīra, p: sarīra, 舍利): âm dịch là Thật Lợi (實利), Thiết Lợi La (設利羅), Thất Lợi La (室利羅); ý dịch là tử thi (死屍), di cốt (遺骨), xác chết, thân, thể, thân cốt (身骨), di thân (遺身). Thông thường, từ này được dùng để chỉ cho di cốt của đức Phật, nên có tên là Phật cốt (佛骨), Phật Xá Lợi (佛舍利); về sau chỉ cho phần xương cốt lưu lại sau khi hỏa thiêu của chư vị cao tăng. Bảo tháp nơi được an trí Xá Lợi Phật được gọi là Xá Lợi Tháp (舍利塔), bình có an trí Xá Lợi thì gọi là Xá Lợi Bình (舍利瓶), hay pháp hội cúng dường Xá Lợi Phật thì có tên là Xá Lợi Hội (舍利會). Như trong Hợp Bộ Kim Quang Minh Kinh (合部金光明經, Taishō Vol. 16, No. 664) quyển 8 định nghĩa rằng: “Thử Xá Lợi giả, thị Giới Định Tuệ chi sở huân tu, thậm nan khả đắc, tối thượng phước điền (此舍利者、是戒定慧之所熏修、甚難可得、最上福田, Xá Lợi này được huân tu bởi Giới Định Tuệ, thật khó có được, là ruộng phước tối thượng).” Dục Phật Công Đức Kinh (浴佛功德經, Taishō Vol. 16, No. 698) chia Xá Lợi làm 2 loại: (1) Sanh Thân Xá Lợi (生身舍利), tức di cốt của đức Phật; (2) Pháp Thân Xá Lợi (法身舍利), hay Pháp Tụng Xá Lợi (法頌舍利), là giáo pháp, giới luật của Ngài để lại và lấy Xá Lợi để ví dụ. Trong khi đó, Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 40 lại phân Xá Lợi làm 3 loại: (1) Cốt Xá Lợi (骨舍利, Xá Lợi xương), có màu trắng; (2) Phát Xá Lợi (髮舍利, Xá Lợi răng), màu đen; (3) Nhục Xá Lợi (肉舍利, Xá Lợi thịt), màu đỏ. Xá Lợi nói chung chủ yếu là mảnh xương, có hình trạng lớn nhỏ bất đồng, cứng chắc, nhỏ vụn, thường như hạt đậu. Theo kinh điển cho biết rằng Xá Lợi đức Phật được chia làm 3 phần cho chư Thiên, Long Vương và con người. Trong đó, tương truyền Trời Đế Thích (s: Indra, p: Inda, 帝釋天) thì nhận Xá Lợi răng, đem về Trời cúng dường, nhưng bị quỷ chạy nhanh đoạt mất một miếng. Ngoài việc lễ bái Xá Lợi đức Phật, còn có truyền thống lễ bái Xá Lợi của các tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連), Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Bên cạnh đó, lễ bái các Thánh địa như nơi đức Phật đản sanh, gốc cây Bồ Đề nơi Ngài Thành Đạo, tòa báu Kim Cang, nơi Ngài từng đi kinh hành, v.v., đều có ý nghĩa tạo nhân duyên gọi là “gặp Phật nghe pháp” để sớm thành đạo quả. Về sự kiện sau khi đức Phật nhập Niết Bàn, 8 quốc gia phân phối Xá Lợi của Ngài như thế nào, các kinh điển ghi lại rất rõ. Theo Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Du Hành Kinh (遊行經) thứ 2, lúc bấy giờ dân chúng Mạt La (p: Malla, 末羅) của nước Ba Bà (p: Pāvā, 波婆) muốn có được Xá Lợi để dựng tháp cúng dường ngay tại xứ sở mình, bèn chuẩn bị 4 loại binh lính đến thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), sai sứ giả cầu xin phân chia Xá Lợi. Thế nhưng, quốc vương nước này lại bảo rằng đức Phật diệt độ tại nước ông, nên dân chúng trong nước có thể tự lo liệu cúng dường và từ chối không chia Xá Lợi. Đồng thời, dân chúng Bạt Ly (p: Buli, 跋離) của nước Già La Phả (p: Allakappa, 遮羅頗), dân chúng Câu Lợi (p: Koḷiya, 拘利) của nước La Ma Già (p: Rāmagāma, 羅摩伽), chúng Bà La Môn của nước Tỳ Lưu Đề (p: Veṭhadīpa, 毘留提), dân chúng dòng họ Thích Ca (p: Sakya, 釋迦) của nước Ca Tỳ La Vệ (p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), dân chúng Ly Xa (p: Licchavī, 離車) của nước Tỳ Xá Ly (p: Vesālī, 毘舍離), vua A Xà Thế (p: Ajātasattu, 阿闍世) của nước Ma Kiệt Đà (p: Magadha, 摩掲陀); mỗi đoàn đều chuẩn bị 4 loại binh lính, tiến qua sông Hằng. Trong khi đó, Bà La Môn Hương Tánh (香姓) cũng xin chia Xá Lợi, nhưng bị từ chối. Các nước nhất tề muốn dùng sức mạnh của binh khí, đao gậy để tranh giành; song Bà La Môn Hương Tánh ngăn cản, khuyên họ không nên làm như vậy; bèn phân chia Xá Lợi cho 8 quốc gia. Các nước nhận được Xá Lợi xong, trở về bôn quốc, dựng tháp cúng dường. Trong Ngụy Thư (魏書), phần Thích Lão Chí (釋老志), có đoạn: “Phật ký tạ thế, hương mộc phần thi, linh cốt phân toái, đại tiểu như lạp, kích chi bất hoại, phần diệt bất tiêu, hoặc hữu quang minh thần nghiệm, Hồ ngôn vị chi Xá Lợi, đệ tử thâu phụng, trí chi bảo bình, kiệt hương hoa, trí kính mộ, kiến cung vũ, vị chi tháp (佛旣謝世、香木焚屍、靈骨分碎、大小如粒、擊之不壞、焚亦不燋、或有光明神驗、胡言謂之舍利、弟子收奉、置之寶瓶、竭香花、致敬慕、建宮宇、謂爲塔, đức Phật đã qua đời, lấy gỗ thơm đốt thi hài, linh cốt chia nhỏ ra, lớn nhỏ như hạt gạo, đập vào không vỡ, đem đốt không cháy, hoặc có ánh sáng linh nghiệm, người Hồ [Tàu] gọi đó là Xá Lợi, đệ tử thu gom thờ phụng, đặt vào trong bình báu, dốc hết hương hoa [cúng dường], tận tâm kính mộ, kiến lập cung điện nhà cửa, gọi đó là tháp).” Hay trong tác phẩm Cổ Kim Tiểu Thuyết (古今小說, tức Dụ Thế Minh Ngôn [喻世明言]) quyển 30, phần Minh Ngộ Thiền Sư Cản Ngũ Giới (明悟禪師趕五戒), của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) nhà Thanh, lại có đoạn: “Tụng xong, Trà Tỳ chi thứ, kiến hỏa trung nhất đạo thanh yên, trực thấu vân đoan, yên trung hiển xuất Viên Trạch toàn thân bổn tướng, hiệp chưởng hướng không nhi khứ; thiểu yên, Xá Lợi như vũ, chúng tăng thâu cốt nhập tháp (頌畢、茶毗之次、見火中一道青煙、直透雲端、煙中顯出圓澤全身本相、合掌向空而去、少焉、舍利如雨、眾僧收骨入塔, sau khi đọc bài tụng xong, khi làm lễ Trà Tỳ [hỏa thiêu], thấy trong lửa có một làn khói xanh, xuyên thẳng lên tầng mây, trong làn khói ấy hiện rõ toàn thân hình tướng của Thiền Sư Viên Trạch, chấp tay hướng không trung mà đi; lát sau, Xá Lợi như mưa, chúng tăng thu gom cốt nhập tháp).” Hoặc trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 36, phần Tịnh Từ Trọng Dĩnh Thiền Sư Pháp Từ (淨慈仲穎禪師法嗣), Ôn Châu Giang Tâm Nhất Sơn Thiền Sư (溫州江心一山禪師), cũng có đoạn rằng: “Hoàng Khánh nguyên niên thập nhất nguyệt nhị thập lục nhật, cấu tật nguy toạn bất cận dược; duyệt thất nhật, mạng cụ dục cánh y, xuất cứ thất kỷ, thư quyết chúng ngữ tọa thệ; Xà Duy thâu ngũ sắc Xá Lợi như thục, bất khả kế, song mục tình bất tẫn (皇慶元年十一月二十六日、遘疾危坐不近藥、閱七日、命具浴更衣、出據室几、書訣眾語坐逝、闍維收五色舍利如菽、不可計、雙目睛不燼, vào ngày 26 tháng 12 năm đầu [1312] niên hiệu Hoàng Khánh [đời vua Nhân Tông nhà Nguyên], Thiền Sư nhuốm bệnh, vẫn ngồi ngay thẳng mà không uống thuốc; trãi qua 7 ngày, ngài bảo tắm rửa, thay áo quần, ra ngồi tựa vào ghế dựa của thất, viết thư giã từ vài lời rồi ngồi mà ra đi; khi làm lễ Xà Duy [hỏa thiêu], thâu Xá Lợi năm màu nhiều như hạt đậu, không đếm được, hai tròng mắt không cháy thành tro).”
(s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗): một trong 10 vị đệ tử lớn của đức Phật, còn gọi là Xá Lợi Phất Đa (舍利弗多), Xá Lợi Phất La (舍利弗羅), Xá Lợi Phất Đát La (舍利弗怛羅), Xá Lợi Phất Đa La (舍利弗多羅), Xà Lợi Phú Đa La (闍利富多羅), Xà Lợi Phất Đa La (闍利弗多羅); ý dịch là Thu Lộ Tử (鶖鷺子、秋露子), Cù Dục Tử (鴝鵒子、鸜鵒子), Thu Tử (鶖子); thường gọi là Xá Lợi Tử (舍利子), cựu dịch là Thân Tử (身子). Mẹ ông là con gái của một vị luận sư Bà La Môn ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城) thuộc nước Già Đà (伽陀). Khi vừa mới sanh ra, con mắt ông giống như mắt con chim Xá Lợi, nên ông được đặt tên là Xá Lợi Phất (con của chim Xá Lợi). Hay ông có tên khác là Ưu Ba Để Sa (s: Upatiṣya, p: Upatīṣya, 優波底沙), Ưu Ba Đế Tu (優波), v.v.; ý dịch là Đại Quang (大光), được lấy theo tên cha. Theo Bản Hạnh Tập Kinh (本行集經) quyển 48, Phẩm Xá Lợi Mục Liên Nhân Duyên (舍利目連因緣品), từ nhỏ tướng mạo của Xá Lợi Phất đã đoan nghiêm; đến khi lớn lên, rèn luyện các kỹ năng, thông hiểu các bộ kinh Phệ Đà. Năm lên 16 tuổi, ông đã có thể hàng phục các luận nghị của người khác, mọi người đều quy phục ông. Thời niên thiếu, ông từng kết giao với Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連) ở làng bên cạnh, thường đến tham dự những buổi tế lễ ngoài Thành Vương Xá, thấy mọi người vui chơi hỗn tạp, chợt cảm ngộ lẽ vô thường, bèn cắt bỏ râu tóc, theo xuất gia học đạo với một trong 6 vị thầy ngoại đạo là San Xà Da Tỳ La Chi Tử (s: Sañjayavairaṭṭiputra, 删闍耶毘羅胝子), chỉ trong 7 ngày đêm mà có thể thông suốt toàn bộ giáo nghĩa của vị này, hội chúng có 250 người đều tôn kính ông là bậc thượng thủ, song Xá Lợi Phất vẫn thâm cảm được rằng mình chưa được giải thoát. Lúc bấy giờ, đức Phật thành đạo không được bao lâu, hiện đang trú tại Tinh Xá Trúc Lâm (竹林精舍) ở Thành Vương Xá. Đệ tử Ngài là A Thuyết Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿說示, còn gọi là Tỳ Kheo Mã Thắng [馬勝比丘]) đắp y, cầm bình bát vào trong thành khất thực. Xá Lợi Phất thấy vị này oai nghi đoan chính, bước đi khoan thai, bèn đến hỏi xem thầy là ai và thực hành pháp môn gì ? A Thuyết Thị bèn lấy pháp nhân duyên do đức Phật thuyết giảng để chỉ cho Xá Lợi Phất, để hiểu được lý các pháp là vô ngã. Nghe xong, Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên, mỗi người thống lãnh 250 đệ tử, cùng đến Tinh Xá Trúc Lâm quy y với đức Phật. Theo Thập Nhị Du Kinh (十二遊經), sau khi quy y với đức Phật, ông thường tùy tùng theo Ngài, giúp giáo hóa mọi người, là bậc thượng thủ trong đại chúng. Ông là người thông minh xuất chúng, được tôn xưng là Trí Tuệ Đệ Nhất (Trí Tuệ Số Một). Lại căn cứ vào Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 11, 12, Hiền Ngu Kinh (賢愚經) quyển 10, Phẩm Tu Đạt Khởi Tinh Xá (須達起精舍品), v.v., Xá Lợi Phất tinh thông ngoại điển, từng dùng biện tài siêu tuyệt để hàng phục ngoại đạo Mắt Đỏ; hay sự việc trưởng giả Tu Đạt Đa (p: Sudatta, 須達) quy y theo đức Phật, phát tâm kiến tạo Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍), v.v., cũng nhờ sự khuyến hóa tài tình và đầy trí tuệ của Xá Lợi Phất. Hơn nữa, theo Tứ Phần Luật (四分律) quyển 46, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 37, v.v., vào cuối đời của đức Phật, Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多) tuyên xướng về 5 điều không đúng pháp, muốn phá hoại tăng đoàn, thống lãnh 500 Tỳ Kheo vào trong núi Già Da (伽耶); khi ấy Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên đến ngọn núi này, khiến cho 500 Tỳ Kheo kia nhận ra sai lầm của mình, quay trở về với Phật. Suốt cả đời Xá Lợi Phất luôn được mọi người tôn kính, lại được đức Phật tán dương. Ông nhập diệt trước đức Phật, sau 7 ngày thì làm lễ Trà Tỳ (茶毘); y bát và di cốt của ông được an táng tại Kỳ Viên. Trưởng giả Tu Đạt Đa dựng tháp cho ông. Theo Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa cho biết rằng Xá Lợi Phất được đức Phật thọ ký cho rằng vào thời tương lai sẽ làm Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai (華光如來).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập