Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Minh Toản »»
(眞興, Shingō, 935-1004): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Tổ của Dòng Tử Đảo (子島流), húy là Chơn Hưng (眞興), thông xưng là Tử Đảo Tăng Chánh (子島僧正), Tử Đảo Tiên Đức (子島先德); xuất thân vùng Hà Nội (河內, Kawachi, thuộc Osaka). Vào năm 949, ông vào tu ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), theo hầu Trọng Toán (仲算), chuyên tu học về Duy Thức, Nhân Minh. Sau đó, ông theo học Mật Giáo với Nhân Hạ (仁賀) ở vùng Cát Dã (吉野, Yoshino), và đến năm 983 thì thọ phép Quán Đảnh. Ông đến trú tại Nam Pháp Hoa Tự (南法華寺, tức Hồ Phản Tự [壺阪寺]), sau lại chuyển về Tử Đảo Tự (子島寺, Koshima-dera) và bắt đầu khai mở pháp diên tại đây; cho nên dòng pháp của ông được gọi là Dòng Tử Đảo. Đến năm 1003, ông làm Giảng Sư cho Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), rồi năm sau cũng làm Giảng Sư cho Ngự Trai Hội (御齋會), và được bổ nhiệm làm Quyền Thiếu Tăng Đô. Trước tác của ông có Duy Thức Nghĩa Tư Ký (唯識義私記) 12 quyển, Nhân Minh Toản Lược Ký (因明纂略記) 1 quyển, Pháp Hoa Kinh Huyền Tán Nhất Thừa Nghĩa Tư Ký (法華經玄讚一乘私記) 1 quyển, Liên Hoa Thai Tạng Giới Nghi Quỹ Giải Thích (蓮華胎藏界儀軌解釋) 3 quyển, v.v.
(道元, Dōgen, 1200-1253): vị tăng sống vào đầu thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), tổ sư khai sáng ra Tào Động Tông Nhật Bản, húy là Hy Huyền (希玄), xuất thân vùng Kyoto (京都), họ là Nguyên (源), con của vị Nội Đại Thần Cửu Ngã Thông Thân (內大臣久我通親), mẹ là con gái của Cửu Điều Cơ Phòng (九條基房). Năm lên 3 tuổi, ông mất cha, rồi đến 8 tuổi thì mất mẹ. Năm lên 13 tuổi, ông theo xuất gia với Lương Quán (良觀) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ở tại Bát Nhã Cốc Thiên Quang Phòng (般若谷千光房) thuộc Thủ Lăng Nghiêm Viện (首楞嚴院) vùng Hoành Xuyên (横川, Yokogawa), đến năm sau ông thọ giới với vị Tọa Chủ Công Viên (公圓). Sau đó, ông đến tham học với Trường Lại Công Dận (長吏公胤) ở Viên Thành Tự (圓城寺), và thể theo lời dạy của vị này, ông đến Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), theo hầu môn hạ của Vinh Tây (榮西, Eisai) là Minh Toàn (明全, Myōzen). Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), ông cùng với Minh Toàn sang nhà Tống cầu pháp, dừng chân ở Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự (天童山景德寺), rồi lại đi tham bái các chùa khác như Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (育王山廣利寺), nhưng cuối cùng rồi cũng quay về Thiên Đồng Sơn. Chính nơi đây ông gặp được Trưởng Ông Như Tịnh (長翁如淨) và được vị này ấn khả cho. Vào năm đầu (1227) niên hiệu An Trinh (安貞), ông trở về nước. Sau khi trở về, ông tạm thời lưu trú tại Kiến Nhân Tự một thời gian, rồi đến năm đầu (1229) niên hiệu Khoan Hỷ (寬喜), ông đến trú tại An Dưỡng Viện (安養院) ở vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa) ở kinh đô Kyoto. Vào năm đầu (1233) niên hiệu Thiên Phước (天福), thể theo lời thỉnh cầu của Đằng Nguyên Giáo Gia (藤原敎家) và vị ni Chánh Giác (正覺), ông khai sáng Quan Âm Đạo Lợi Viện Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (觀音道利院興聖寳林寺) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) và sống tại đây hơn 10 năm. Đến năm đầu (1243) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), đáp ứng lời thỉnh cầu của Ba Đa Dã Nghĩa Trọng (波多野義重), ông lên Chí Tỉ Trang (志比莊) ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), dừng chân ở tại thảo am Cát Phong Cổ Tự (吉峰古寺). Năm sau ông phát triển nơi đây thành Đại Phật Tự (大佛寺, Daibutsu-ji) và bắt đầu khai đường thuyết pháp giáo hóa, và hai năm sau nữa ông đổi tên chùa thành Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji). Hậu Tha Nga Pháp Hoàng (後嵯峨法皇) có ban tặng Tử Y cho ông, nhưng ông cố từ không nhận. Vào mùa hè năm thứ 4 niên hiệu Kiến Trường (建長), ông nhuốm bệnh, rồi đến tháng 7 năm sau ông giao hết mọi chuyện lại cho đệ tử Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘), và vào ngày 28 tháng 8 năm này (1253), ông thị tịch trên kinh đô, hưởng thọ 54 tuổi. Trước tác của ông có bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏) 95 quyển, Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi (普勸坐禪儀) 1 quyển, Học Đạo Dụng Tâm Tập (學道用心集) 1 quyển, Vĩnh Bình Thanh Quy (永平清規) 2 quyển, Vĩnh Bình Quảng Lục (永平廣錄) 10 quyển, Tản Tùng Đạo Vịnh (傘松道詠), v.v. Vào năm thứ 7 (1854) niên hiệu Gia Vĩnh (嘉永), ông được Hiếu Minh Thiên Hoàng (孝明天皇) ban cho thụy hiệu là Phật Tánh Truyền Đông Quốc Sư (佛性傳東國師), rồi đến năm thứ 11 niên hiệu Minh Trị (明治), ông lại được ban cho thụy hiệu là Thừa Dương Đại Sư (承陽大師). Trong Tào Động Tông Nhật Bản, ông được gọi là Cao Tổ.
(懶瓚, Ransan, ?-?): tên gọi khác của Minh Toản (明瓚, Myōsan), tức ý muốn nói Hòa Thượng Minh Toản lười biếng, nhân vật sống dưới thời nhà Đường, vị tăng của Bắc Tông Thiền. Ông đến tham học với Tung Sơn Phổ Tịch (嵩山普寂) và kế thừa dòng pháp của vị này. Sau ông đến ẩn cư ở Nam Nhạc (南岳), Tỉnh Hồ Nam (湖南省), và do phát xuất từ phong cách sống rất lười biếng một cách thoát tục, nên người đời gọi ông là Lãn Toản (懶瓚) hay Lãn Tàn (嬾殘). Vào khoảng năm đầu (742) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông đến ở tại Nam Nhạc Tự (南岳寺) suốt 20 năm ròng. Trong khoảng thời gian này ông có giao du với Lý Bí (李泌), vị Tướng Quốc nhà Nghiệp đang ẩn náu ở Nam Nhạc để lánh nạn Thôi Lý (崔李). Chính ông đã tiên đoán rằng 10 năm sau Lý Bí sẽ làm Tể Tướng. Sau khi qua đời, ông được ban cho thụy hiệu là Đại Minh Thiền Sư (大明禪師).
(良禪, Ryōzen, 1048-1139): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Kiểm Hiệu đời thứ 14 và 17 của Cao Dã Sơn, húy là Lương Thiền (良禪), thông xưng là Bắc Thất Thánh (北室聖), tự Giải Thoát Phòng (解脫房); xuất thân vùng Thần Khi (神崎, Kanzaki), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣]), họ là Phản Thượng (坂上). Năm lên 11 tuổi, ông theo hầu Nhiệm Tôn (任尊) ở Cao Dã Sơn, đến năm 14 tuổi thì theo Hành Minh (行明) ở Bắc Thất Viện (北室院) tu Tứ Độ Gia Hành (四度加行). Vào năm 1088, ông thọ nhận hai bộ Quán Đảnh từ Minh Toán (明算) và truyền thừa Ngũ Bộ Bí Ấn (五部秘印). Năm 1099, ông nhậm chức Kiểm Hiệu của Cao Dã Sơn, rồi đến năm 1137 lại được bổ nhiệm lần nữa; nhân đó ông đã tập trung xây dựng khá nhiều ngôi đường tháp nơi đây. Chính ông đã tận lực làm cho Cao Dã Sơn phát triển cao độ. Đệ tử phú pháp của ông có Hành Tuệ (行慧), Lâm Hiền (琳賢), Nhật Thiền (日禪), Giáo Giác (敎覺), Kiêm Hiền (兼賢), v.v.
(明寂, Myōjaku, ?-?): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, húy là Minh Tịch (明寂), thông xưng là Ẩn Kì Thượng Nhân (隱岐上人), tự là Giác Tuấn (覺俊) hay Giác Thuấn (覺舜); con của vị trưởng quan Kami vùng Ẩn Kì (隱岐, Oki) là Đại Giang An Thành (大江安成). Ông theo Minh Toán (明算) ở Trung Viện trên Cao Dã Sơn học về Mật Giáo, rồi theo hầu Lương Thiền (良禪) ở Cao Thất Viện (高室院). Sau đó, ông thọ pháp với Lương Nhã (良雅) và Thắng Nhân (勝因) của Dòng Tiểu Dã (小野流), rồi khai sáng Nhất Tâm Viện (一心院) cũng như Tối Thiền Viện (最禪院) trên Cao Dã Sơn. Trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Trị (寬治, 1087-1094), khi Bạch Hà Pháp Hoàng (白河法皇) lên tham bái Cao Dã Sơn, tương truyền ông được tặng cho bản truyền thừa của dòng họ Thiên Hoàng là Du Kỳ Bí Văn (瑜祇秘文). Vào năm 1114, ông truyền trao Cầu Văn Trì Pháp (求聞持法) cho Giác Noan (覺鑁).
(明算, Meizan, 1021-1106): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Kiểm Hiệu đời thứ 12 của Cao Dã Sơn, vị Tổ của Dòng Trung Viện (中院流), húy là Minh Toán (明算), thông xưng là Cao Dã Trung Viện A Xà Lê (高野中院阿闍梨), Trung Viện Ngự Phòng (中院御房); xuất thân vùng Thần Khi (神崎), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣]), họ Tá Đằng (佐藤). Năm 1031, ông được Định Dự (定譽) dẫn lên Cao Dã Sơn xuất gia, tu học ở Đông Thất, đến năm 1040 thì chuyển sang Trung Viện, và đến năm 1049 thì thọ phép Quán Đảnh với Lại Tầm (賴尋) ở Thích Vương Tự (釋王寺). Sau ông theo học pháp với Thành Tôn (成尊) ở Mạn Trà La Tự (曼荼羅寺, Mandara-ji), vùng Tiểu Dã (小野, Ono), rồi đến năm 1072 thì được truyền trao phép Quán Đảnh, và góp sức làm rạng rỡ Dòng Tiểu Dã (小野流). Năm sau, ông trở về núi và sáng lập Dòng Trung Viện. Năm 1075, ông khai sáng Long Tạng Viện (龍藏院) ở vùng Kỷ Y; đến năm 1090 thì được bổ nhiệm làm Kiểm Hiệu của Cao Dã Sơn; từ đó ông tận lực phục hưng Sơn Môn, xây dựng các ngôi đường tháp và độ chúng. Đệ tử phú pháp của ông có Lương Thiền (良禪), Giáo Chơn (敎眞), Minh Phạm (明範), Chơn Dự (眞譽), Minh Tịch (明寂), v.v.
(明全, Myōzen): tức Phật Thọ Phòng Minh Toàn (佛樹房明全, Butsujubō Myōzen, 1184-1225), là vị tăng của Lâm Tế Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu thời đại Liêm Thương, húy là Minh Toàn (明全), hiệu là Phật Thọ Phòng (佛樹房), người vùng Y Thế (伊勢, Ise, thuộc Mie-ken [三重懸]). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Trí Điển (智典) ở Lai Nghênh Tự (來迎寺) thuộc vùng Phong Cang (豐岡, Toyooka), Đản Mã (但馬, Tajima), rồi thọ Bồ Tát Giới với Giới Trần (戒陳) ở Huệ Chiếu Viện (惠照院). Năm 1766, ông làm trú trì đời thứ 22 của Lai Nghênh Tự, thường mỗi ngày xướng tụng 30.000 biến niệm Phật. Sau ông dời đến Trí Huệ Quang Viện (智惠光院) ở kinh đô Kyoto, chuyên giảng cứu về giáo học Tông phái và Nho thư, rồi đến năm 1788, ông tận lực phục hưng lại ngôi viện này sau lần bị cháy rụi. Ông đã từng làm trú trì Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in), rồi trú trì đời thứ 16 của Chuyên Niệm Tự (專念寺), thường bố thí thức ăn cho những người nghèo khó và khuyên họ niệm Phật hằng ngày. Trước tác của ông để lại có Nhật Khóa Niệm Phật Khuyến Đạo Ký (日課念佛勸道記) 1 quyển, Nhật Khóa Niệm Phật Đầu Túc Biên (日課念佛投宿編) 1 quyển, Tục Liên Môn Trú Trì Huấn (續蓮門住持訓) 1 quyển, Cảnh Chung Lục (警鐘錄), Giác Thụy Thảo (覺睡草), Nhật Khóa Tinh Tu Ký (日課精修記), v.v.
(成尊, Seizon, 1012-1074): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Tự Trưởng đời thứ 30 của Đông Tự, húy là Thành Tôn (成尊), hiệu Tiểu Dã Tăng Đô (小野僧都). Sau khi xuất gia với Nhân Hải (仁海) ở Mạn Trà La Tự (曼荼羅寺, Mandara-ji, tức Tùy Tâm Viện [隨心院]) vùng Tiểu Dã (小野, Ono), ông được thọ phép Quán Đảnh và làm trú trì chùa này. Đến năm 1065, ông hành phép cầu mưa và có linh nghiệm, sau đó ông lại cầu nguyện cho Hậu Tam Điều Thiên Hoàng (後三條天皇, Gosanjō Tennō, tại vị 1068-1072) tức vị, nên rất được sủng kính. Năm 1069, ông làm Quyền Luật Sư, đến năm 1072 thì truyền trao phép Quán Đảnh cho Minh Toán (明算) ở Cao Dã Sơn. Năm sau ông làm Quyền Thiếu Tăng Đô, và năm sau nữa thì làm Tự Trưởng của Đông Tự. Đệ tử của ông có Nghĩa Phạm (義範), Phạm Tuấn (範俊), v.v. Trước tác ông để lại có Chơn Ngôn Phú Pháp Toản Yếu Sao (眞言付法纂要抄) 1 quyển, Tiểu Dã Lục Thiếp Khẩu Quyết (小野六帖口決) 5 quyển, Quán Tâm Nguyệt Luân Ký (觀心月輪記) 1 quyển, Đồ Sư Quán Đảnh Quyết Nghĩa Sao (徒師灌頂決義抄) 4 quyển, v.v.
(天童山景德禪寺): hay Thiên Đồng Tự (天童寺), Thiên Đồng Thiền Tự (天童禪寺); hiệu là Đông Nam Phật Quốc (東南佛國); là ngôi tự viện Thiền Tông trứ danh, được xếp hạng thứ 2 trong 5 ngôi chùa nổi tiếng của Thiền Tông Trung Quốc; hiện tọa lạc tại sườn núi Thái Bạch Sơn (太白山), Ngân Huyện (鄞縣), Phố Ninh Ba (寧波市), Tỉnh Triết Giang Thánh địa này có liên quan mật thiết với Thiền Tông Nhật Bản, Tào Động Tông nước này xem nơi đây là Tổ Đình. Vào năm 1983, chùa được Quốc Vụ Viện công nhận là ngôi tự viện trọng yếu thuộc địa khu Hán tộc của Phật Giáo toàn quốc. Thiên Đồng Tự được sáng kiến dưới thời nhà Tấn, tương truyền do vị tăng vân du tên Nghĩa Hưng (義興) từng kết thảo am tu tập tại đây vào năm đầu (300) niên hiệu Vĩnh Khang (永康) nhà Tây Tấn. Vào năm đầu nhà Đường (唐, 618-907), chùa được dời về vị trí hiện tại. Đến năm thứ 2 (759) niên hiệu Càn Nguyên (乾元) nhà Đường, vua Túc Tông (肅宗, tại vị 756-762) ban cho tên chùa là Thiên Đồng Linh Lung Tự (天童玲瓏寺). Năm thứ 10 (869) niên hiệu Hàm Thông (咸通) nhà Đường, vua Ý Tông (懿宗, tại vị 859-873) sắc phong tên chùa là Thiên Thọ Tự (天壽寺). Đến năm thứ 4 (1007) niên hiệu Cảnh Đức (景德) nhà Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) ban cho chùa tên Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự (天童景德禪寺). Vào năm 1125, Thiền Sư Như Tịnh (如淨, 1163-1228), vị Tổ đời thứ 13 của Tào Động Tông Trung Quốc, đến trú trì chùa này. Lúc bấy giờ, có Đạo Nguyên (道元, Dōgen) của Nhật bản đến tham học và sau khi trở về nước thì sáng lập Tào Động Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 5 (1178) niên hiệu Thuần Hy (淳熙) nhà Tống, vua Hiếu Tông (孝宗, tại vị 1162-1189) ban cho 4 chữ Thái Bạch Danh Sơn (太白名山). Năm thứ 4 (1134) niên hiệu Thiệu Quang (紹光) nhà Tống, ngôi Đại Điện ở phía Đông Nam được mở rộng thêm. Trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Định (嘉定, 1208-1224) nhà Tống, chùa được liệt vào hàng thứ 3 trong Thiền Viện Ngũ Sơn Thập Sát. Sau đó, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tức vua Thái Tổ [太祖, tại vị 1368-1398]) nhà Minh sắc phong chùa là Thiên Hạ Danh Tự (天下名寺), xếp chùa vào hàng thứ 2 trong Thiên Hạ Thiền Tông Ngũ Sơn (天下禪宗五山). Về sau, vua Ung Chính (雍正, tức vua Thế Tông [世宗, tại vị 1722-1735]) nhà Thanh ban cho chùa tấm biển Từ Vân Mật Bố (慈雲密布). Về xuất xứ tên chùa, tương truyền khi Nghĩa Hưng đến đây lập thảo am tu hành thì có sao Thái Bạch (太白) xuất hiện, biến thành đồng tử, hằng ngày hái củi, gánh nước cúng dường; nên cảm niệm ơn đó, Nghĩa Hưng đặt tên cho ngọn núi này là Thiên Đồng Sơn. Ngoài Đạo Nguyên ra, Minh Toàn (明全, Myōzen), Vinh Tây (榮西, Eisai) cũng đã từng đến đây tham bái.
(中江藤樹, Nakae Tōju, 1608-1648): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Nguyên (原, Hajime); tự Duy Mạng (惟命); thông xưng là Dữ Hữu Vệ Môn (與右衛門); biệt hiệu là Mặc Hiên (嘿軒), Cận Giang Thánh Nhân (近江聖人); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi). Ban đầu, ông làm việc Phiên Đại Châu (大洲藩, Ōzu-han) ở Y Do (伊予, Iyo); lúc còn thanh niên, bị một Thiền tăng làm xúc phạm, ông lấy bộ Tứ Thư Đại Toàn (四書大全) và bắt đầu học tập về Chu Tử Học. Năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), ông xin thôi việc với lý do hiếu đạo nuôi dưỡng mẹ đang lâm bệnh, nhưng không được cho phép; nên ông rời khỏi Phiên và trở về cố hương. Sau đó, ông viết cuốn Trì Kính Đồ Thuyết (持敬圖說), Nguyên Nhân (原人); có quan niệm nghi ngờ rất sâu về Chu Tử Học và bắt đầu có khuynh hướng tôn giáo tín ngưỡng Thần Thái Ất (太乙神). Năm 1640 (Khoan Vĩnh 17), ông có dịp tiếp xúc với các tác phẩm Tánh Lý Hội Thông (性理會通), Vương Long Khê Ngữ Lục (王龍溪語錄) thuộc hệ Dương Minh Học, nên thật sự giã từ Chu Tử Học. Ông Vấn Đáp (翁問答), trước tác của ông vào thời kỳ này, thuyết về tư tưởng hiếu đạo với văn chương trong sáng, là một trong những tác phẩm tiểu biểu nhất. Đến cuối đời, ông chuyên tâm viết bộ Dương Minh Toàn Tập (陽明全集) và chuyển hướng về Dương Minh Học; nên ông được xem như là Tổ của Dương Minh Học Nhật Bản. đệ tử của ông có Hùng Trạch Phiên Sơn (熊澤藩山), Uyên Cương Sơn (淵岡山), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập