Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Minh Biến »»
(寶海): có hai nghĩa. (1) Biển trân bảo, biển báu, tỷ dụ công đức vô lượng vô biên, hình dung đức Phật Di Đà thệ nguyện cứu độ chúng sanh, không từ bỏ, không phân biệt, không chán ghét, tất cả đều được dẫn dắt, nhiếp thọ, giống như biển lớn không từ chối dòng nước nhỏ vậy. Như trong Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Ba Đề Xá Nguyện Sanh Kệ (無量壽經優波提舍願生偈, Taishō Vol. 26, No. 1524) có câu: “Năng linh tốc mãn túc, công đức như bảo hải (能令速滿足、功德大寶海, khiến cho mau đầy đủ, công đức như biển báu).” Hay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 48, Phẩm Như Lai Thập Thân Tướng Hải (如來十身相海品) thứ 34, cũng có đoạn: “Ma Ni bảo hải dĩ vi trang nghiêm, phóng đại quang Minh Biến nhất thiết sát, ư trung phổ hiện chư Bồ Tát chúng (摩尼寶海以爲莊嚴、放大光明遍一切剎、於中普現諸菩薩眾, biển báu Ma Ni lấy làm trang nghiêm, phong ánh sáng lớn biến khắp tất cả nước, trong đó hiện khắp các chúng Bồ Tát).” (2) Từ gọi tắt của Phạm Chí Bảo Hải, được đề cập trong Bi Hoa Kinh (悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 2. Trong thời quá khứ, đức Phật từng là Phạm Chí Bảo Hải, vốn là đại thần của Chuyển Luân Thánh Vương Vô Tránh Niệm (無諍念), đã ở trước chư thiên và đại chúng, nơi đức Phật Bảo Tạng (寶藏), thành tựu tâm đại bi, lập 500 thệ nguyện để cứu độ chúng sanh. Trong bản văn Nhiếp Sơn Thê Hà Tự Bi (攝山栖霞寺碑) có câu: “Tích Bảo Hải Phạm Chí, thùy đổ hoa đài (昔寶海梵志、睡睹花臺, xưa Phạm Chí Bảo Hải, ngủ thấy đài hoa).”
(表): là một loại Tấu Chương thời xưa được quần thần dùng để trình cấp lên đế vương; như Xuất Sư Biểu (出師表) của Gia Cát Lượng (諸葛亮) nhà Thục Hán thời Tam Quốc (三國, 221-420), Trần Tình Biểu (陳情表) của Lý Mật (李密, 224-287), v.v. Trong bài tựa Văn Thể Minh Biện của Từ Sư Tằng có giải thích rằng: “Cổ giả hí ngôn ư quân, giai xưng thượng thư, Hán định lễ nghĩa, nãi hữu tứ phẩm, kỳ tam viết Biểu; nhiên đản dụng dĩ trần thỉnh nhi dĩ, hậu thế nhân chi, kỳ dụng tẩm quảng (古者獻言於君、皆稱上書、漢定禮儀、乃有四品、其三曰表、然但用以陳請而已、後世因之、其用寖廣, người xưa nói đùa với nhà vua, đều gọi là dâng thư lên, nhà Hán định ra lễ nghĩa, có bốn loại, loại thứ ba là Biểu; tuy nhiên chỉ dùng để bày tỏ thỉnh cầu mà thôi; đời sau nhân đó, dùng Biểu càng lúc càng rộng rãi).”
(蝶夢): giấc mơ biến thành con bướm, còn gọi là hồ điệp mộng (蝴蝶夢), hồ điệp chi mộng (蝴蝶之夢). Sự tích này được thuật lại trong Tề Vật Luận (齊物論) của Trang Tử (莊子). Một hôm nọ, Trang Chu nằm mộng thấy mình biến thành con bướm, bản thân ông rất vui mừng, hân hoan tự đắc, quên đi chẳng biết mình là Trang Chu. Đến khi tỉnh dậy, mới biết mình là Trang Chu; chẳng biết giấc mộng của Trang Chu chính la con bướm, giấc mộng của con bướm lại là Trang Chu. Câu chuyện này nói lên tâm cảnh Vạn Vật Nhất Thể (萬物一體, vạn vật cùng một thể), không có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Trong U Mộng Ảnh (幽夢影) của Trương Triều (張潮, 1650-?) nhà Thanh có một câu nổi tiếng là: “Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã (莊周夢爲蝴蝶、莊周之幸也、蝴蝶夢爲莊周、蝴蝶之不幸也, Trang Chu mơ làm con bướm, Trang Chu thật may mắn vậy; con bướm mơ làm Trang Chu, con bướm quả bất hạnh vậy).” Câu chuyện này còn nêu rõ triết lý nhân sinh vô thường, như mộng huyễn, thời gian trôi qua như chớp mắt, giàu sang, phú quý chẳng thể cầu mong được. Trong bài Cổ Phong Ngũ Thập Cửu Thủ (古風五十九首) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) có đoạn: “Trang Chu mộng hồ điệp, hồ điệp vi Trang Chu, nhất thể cánh biến dị, vạn sự lương du du, nãi tri bồng lai thủy, phục tác thanh thiển lưu (莊周夢蝴蝶、蝴蝶爲莊周、一體更變易、萬事良悠悠、乃知蓬萊水、復作清淺流, Trang Chu mơ bươm bướm, bươm bướm là Trang Chu, một thể lại thành khác, vạn sự tốt dài lâu, mới biết bèo trôi dạt, lại làm dòng nước trôi).” Hơn nữa, trong bài Mãn Giang Hồng (滿江紅) của Cát Đàm (葛郯, ?-?) nhà Tống, được thâu lục trong Toàn Tống Từ (全宋詞), có câu: “Bất quản phù sanh như điệp mộng (不管浮生如蝶夢, chẳng kể phù sinh như mộng bướm).” Câu “điệp mộng mang mang, Tây Trúc hà bằng chi siêu độ (蝶夢茫茫、西竺何憑之超度)” có nghĩa giấc mơ bướm mờ mịt, mênh mang, không biết nương vào đâu để được siêu độ về cõi Tây Trúc, quốc độ của chư Phật.
(義天): có mấy nghĩa chính. (1) Gọi đủ là Đệ Nhất Nghĩa Thiên (第一義天), Đệ Nhất Nghĩa Tịnh Thiên (第一義淨天), tức chỉ cho chư Phật, Bồ Tát chứng quả Đại Niết Bàn; hoặc chư vị Bồ Tát đang ở quả vị Thập Trú (十住, gồm Phát Tâm Trú [發心住], Trị Địa Trú [治地住], Tu Hành Trú [修行住], Sanh Quý Trú [生貴住], Cụ Túc Trú [具足住], Chánh Tâm Trú [正心住], Bất Thối Trú [不退住], Đồng Chơn Trú [童眞住], Chánh Pháp Vương Trú [法王子住] và Quán Đảnh Trú [灌頂住]); là một trong 4 cõi trời. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 22, phẩm Cao Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát Phẩm (光明遍照高貴德王菩薩品) có giải thích rõ rằng: “Hữu tứ thiên, nhất giả Thế Gian Thiên, nhị giả Sanh Thiên, tam giả Tịnh Thiên, tứ giả Nghĩa Thiên. Thế Gian Thiên giả như chư quốc vương; Sanh Thiên giả tùng Tứ Thiên Vương nãi chí Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Thiên; Tịnh Thiên giả tùng Tu Đà Hoàn chí Bích Chi Phật; Nghĩa Thiên giả Thập Trú Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng. Dĩ hà nghĩa cố Thập Trú Bồ Tát danh vi Nghĩa Thiên ? Dĩ năng thiện giải chư pháp nghĩa cố. Vân hà vi nghĩa ? Kiến nhất thiết pháp thị không nghĩa cố (有四種天、一者世間天、二者生天、三者淨天、四者義天、世間天者如諸國王、生天者從四天王乃至非有想非無想天、淨天者從須陀洹至辟支佛、義天者十住菩薩摩訶薩等、以何義故十住菩薩名爲義天、以能善解諸法義故、云何爲義、見一切法是空義故, có bốn loại cõi trời, một là Thế Gian Thiên, hai là Sanh Thiên, ba là Tịnh Thiên, bốn là Nghĩa Thiên. Thế Gian Thiên là các quốc vương; Sanh Thiên là từ Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng; Tịnh Thiên là từ Tu Đà Hoàn cho đến Bích Chi Phật; Nghĩa Thiên là các Bồ Tát Ma Ha Tát của quả vị Thập Trú. Vì lấy nghĩa gì mà Bồ Tát của quả vị Thập Trú được gọi là Nghĩa Thiên ? Vì có thể khéo hiểu nghĩa của các pháp. Nghĩa đó là gì ? Thấy hết thảy các pháp là nghĩa không).” (2) Chỉ cho Từ Ân Đại Sư (慈恩大師), tức Khuy Cơ (窺基, 632-682), sơ Tổ của Pháp Tướng Tông Trung Quốc, có thể hiểu được nghĩa nhiệm mầu, nên được gọi là Nghĩa Thiên. (3) Chỉ cho Nghĩa Thiên (1055-1101), hiệu là Đại Giác Thiền Sư (大覺禪師), là con trai thứ 4 của vua Văn Tông (文宗, tại vị 1046-1083) nước Cao Lệ (高麗, Triều Tiên), được phong làm Hựu Thế Tăng Thống (祐世僧統), quản lý tăng giới Triều Tiên.
(愚庵智及, Guan Chikyū, 1311-1378): vị tăng của Phái Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Dĩ Trung (以中), hiệu Ngu Am (愚庵), thông xưng là Tây Lộc (西麓), xuất thân Huyện Ngô (呉縣), Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô), họ Cố (顧). Ông đến xuất gia tại Hải Vân Viện (海雲院), học nội ngoại điển, rồi thọ Cụ Túc giới và chuyên học về giáo lý Hoa Nghiêm. Sau đó, ông đến Kiến Nghiệp (建業, Tỉnh Giang Tô), theo thọ giáo với Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢) ở Đại Long Tường Tập Khánh Tự (大龍翔集慶寺). Có lần ông trở về Hải Vân Viện, nhưng rồi lại ngao du đó đây, đến tham yết Tịch Chiếu Hành Đoan (寂照行端) ở Kính Sơn (徑山) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 2 (1342) niên hiệu Chí Chánh (至正), ông bắt đầu khai đường thuyết giáo ở Long Giáo Thiền Tự (隆敎禪寺) vùng Khánh Nguyên Lộ (慶元路, Tỉnh Triết Giang) và sống qua một số chùa khác như Phổ Từ Thiền Tự (普慈禪寺), Tịnh Từ Báo Ân Thiền Tự (淨慈報恩禪寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (興聖萬壽禪寺) ở Kính Sơn. Đến năm thứ 6 (1373) niên hiệu Hồng Võ (洪武), ông là người dẫn đầu trong số 10 vị Sa Môn cao đức tập trung tại Đại Thiên Giới Tự (大天界寺) trên kinh đô. Vào ngày mồng 4 tháng 9 năm thứ 11 cùng niên hiệu trên, ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi đời, 51 hạ lạp và được ban cho hiệu là Minh Biện Chánh Tông Quảng Huệ Thiền Sư (明辨正宗廣慧禪師). Ông có bộ Ngu Am Trí Cập Thiền Sư Ngữ Lục (愚庵智及禪師語錄) 10 quyển.
(五燈全書, Gotōzensho): 120 quyển, do Tể Lôn Siêu Vĩnh (霽崙超永) nhà Minh biên soạn, Luân Am Siêu Bát (輪菴超撥) hiệu đính, san hành vào năm thứ 36 (1697) niên hiệu Khang Hy (康熙). Bộ này được hình thành dựa trên cơ sở của Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元), tham khảo các sách truyền đăng từ xưa nay, rút ra những tinh yếu, cắt bỏ đi những phần rắc rối; bên cạnh người biên soạn đã bỏ ra hơn 10 năm trường đi sưu tra khắp các địa phương để hoàn thành bộ Truyền Đăng Lục vĩ đại như thế này. Nội dung của tác phẩm này gồm 7 vị Phật thời quá khứ, chư vị tổ sư của Tây Thiên, Đông Độ, và kèm theo liệt vị tổ sư cũng như cư sĩ xuất hiện sau khi bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên ra đời, tổng cọng hơn 7.000 người. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều vấn đề như một số bộ phận chưa chỉnh lý, hay điểm công nhận sự hiện hữu của Thiên Vương Đạo Ngộ (天皇道悟), v.v.
(佛法金湯篇, Buppōkintōhen): 16 quyển, do Đại Tông Tâm Thái (岱宗心泰) nhà Minh biên, trùng khắc vào năm thứ 24 (1596) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Đây là thư tịch lịch sử hộ trì Phật pháp do Đại Tông Tâm Thái―vị tăng ở Đông Sơn Thiền Tự (東山禪寺) vùng Việt Châu (越州, Tỉnh Sơn Đông)―thâu tập 398 mẫu truyện của những người đã từng quy y và hộ trì Phật pháp như các đấng quân chủ, Tể Quan, danh Nho, v.v., trải qua các đời từ vua Chiêu Vương (昭王) nhà Chu cho đến Thuận Tông (順宗) nhà Nguyên. Đầu sách có lời tựa của Tông Lặc (宗泐), Thanh Tuấn (清濬), Thủ Nhân (守仁), Tô Bá Hành (蘇伯衡), v.v., và lời tựa trùng san của Du Nhữ Vi (俞汝爲).
(佛祖綱目, Bussokōmoku): 41 quyển, do Chu Thời Ân (朱時恩) nhà Minh biên soạn, san hành vào năm thứ 7 (1634) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎) nhà Minh. Đây là bộ sách biên tập thứ tự lịch đại niên hiệu hành nghiệp và cương mục của chư Phật tổ từ khi đức Thế Tôn thị hiện đản sanh cho đến khi Vạn Phong Thời Úy (萬峰時蔚) nhà Minh qua đời, mất hết 21 năm trường từ năm thứ 38 (1610) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Đầu quyển có lời tựa của Đổng Kỳ Xương (董其昌), lời tựa của tác giả, phàm lệ, tổng mục lục, v.v.; quyển cuối có lời bạt của tác giả.
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(曹溪[谿]): tên địa danh và cũng là thánh địa của Thiền Tông Trung Quốc, tọa lạc tại Huyện Khúc Giang (曲江縣), Thiều Châu (韶州, thuộc Tỉnh Quảng Đông [廣東省]). Trong Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑), phần Vân Môn Lục (雲門錄), Tào Khê (曹溪) có giải thích rằng: “Đường Nghi Phụng trung, cư nhân Tào Thục lương thí địa, Lục Tổ Đại Sư cư chi địa, hữu Song Phong đại khê, nhân Tào Hầu chi tánh, vị Tào Khê (唐儀鳳中、居人曹淑良施地、六祖大師居之地、有雙峰大溪、因曹候之姓、謂曹溪, trong khoảng niên hiệu Nghi Phụng [676-678] nhà Đường, có người tên Tào Thục dâng cúng đất, là vùng đất Lục Tổ Đại Sư cư trú, có khe nước lớn Song Phong, nhân vì quan họ Tào, nên gọi là Tào Khê [khe họ Tào]).” Vào năm đầu (502) niên hiệu Thiên Giám (天監) nhà Lương, có vị tăng người Bà La Môn ở Thiên Trúc tên Tam Tạng Trí Dược (三藏智藥) đến ngay tại cửa khẩu Tào Khê, uống ngụm nước dòng suối này, biết đây là thánh địa đầu nguồn, bèn khuyên dân chúng trong vùng kiến lập một ngôi chùa, giống với Bảo Lâm Sơn (寶林山) ở phương Tây, lấy tên là Bảo Lâm Tự (寶林寺); rồi vị quan Châu Mục vùng Thiều Châu là Kính Trung (敬中) dâng sớ lên triều đình; và vào năm thứ 3 (504) cùng niên hiệu trên thì chùa được ban sắc ngạch. Sau đó, Trí Dược đăng đàn thuyết pháp tại đây và tiên đoán rằng người tu tập đắc đạo sẽ đông như cây cối trong rừng. Sau 173 năm, vào năm thứ 2 (677) niên hiệu Thiên Giám, sau khi đắc pháp với Hoằng Nhẫn (弘忍), Lục Tổ Huệ Năng (六祖慧能) xuống tóc, thọ Cụ Túc giới với Pháp Sư Ấn Tông (印宗); rồi trở về Bảo Lâm Tự, được Trần Á Tiên (陳亞仙) dâng cúng thêm đất, nên xây dựng thành một ngôi già lam với 13 khu vực rộng lớn. Đó chính là Hoa Quả Viện (花果院), hay Nam Hoa Tự (南華寺). Ngoài ra, Tào Khê còn là tên gọi khác của Lục Tổ Huệ Năng; cho nên Đại Sư được tôn xưng là Tào Khê Cổ Phật (曹溪古佛), Tào Khê Cao Tổ (曹溪高祖). Trong Thiền Tông thường có thuật ngữ Tào Khê Nhất Trích (曹溪一滴, một giọi nước Tào Khê). Đây là tên tác phẩm do Nhất Triệt Châu Lý (一徹周理) nhà Minh biên, 9 quyển, bản san hành đầu tiên vào năm thứ 9 (1636) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞). Trong quyển 1 Tào Khê Nhất Trích có lời tựa của Vô Học Cư Sĩ Đào Hồng (無學居士陶珙) ở phần mạo đầu, lời dẫn của Qua Duẫn Lễ (戈允禮), có thâu lục cơ ngữ của 24 Thiền giả và cơ ngữ ứng hóa của 19 bậc Thánh. Căn cứ vào bài kệ “Bồ Đề bổn vô thọ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai (菩提本無樹、明鏡亦非、本來無一物、何處惹塵埃, Bồ Đề vốn không gốc, kính sáng cũng chẳng đài, xưa nay chẳng một vật, chỗ nào nhuốm trần ai)” của Lục Tổ Huệ Năng, xuất hiện thuật ngữ “Tào Khê kính lí tuyệt trần ai (曹溪鏡裏絕塵埃, trong gương Tào Khê sạch bụi trần).” Như trong Bích Nham Lục (碧巖錄) 5 có câu: “Ngưu Đầu một Mã Đầu hồi, Tào Khê kính lí tuyệt trần ai (牛頭沒、馬頭回、曹溪鏡裏絕塵埃, Ngưu Đầu mất, Mã Đầu còn, trong gương Tào Khê sạch bụi trần).” Trong Thiền môn thường có bài tán Tào Khê như sau: “Tào Khê thủy, nhất phái hướng Đông lưu, Quan Âm bình nội trừ tai cữu, Đề Hồ quán đảnh địch trần cấu, dương chi sái xứ nhuận tiêu khô, yếu hầu trung Cam Lồ, tự hữu quỳnh tương thấu. Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (曹溪水、一派向東流、觀音瓶內除災咎、醍醐灌頂滌塵垢、楊枝洒處潤消枯、咽喉中甘露、自有瓊漿透。南無香雲蓋菩薩, Tào Khê nước, một dòng hướng Đông trôi, trong bình Quan Âm trừ tai tội, Đề Hồ rưới đầu sạch trần cấu, nhành dương rưới khắp sống cây khô, trong cổ nhuần Cam Lồ, tự tuôn trào thấm. Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập