Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Mã Não »»
(寶樹): cây báu. Từ này thường thấy xuất hiện trong kinh điển Phật Giáo. Người ta dùng bày loại trân báu để tạo thành hình dáng cây; tỷ dụ như vàng vòng (黃金) làm gốc cây, Bạch Ngân (白銀) làm thân cây, Lưu Ly (琉璃) làm cành cây, Thủy Tinh (水晶) làm ngọn cây, Hổ Phách (琥珀) làm lá cây, Mỹ Ngọc (美玉) làm hoa và Mã Não (瑪瑙) làm trái cây. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō No. 360) có đoạn rằng: “Thiết ngã đắc Phật, quốc trung Bồ Tát, tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung, giai tất chiếu kiến, do như minh kính, đỗ kỳ diện tượng (設我得佛、國中菩薩、隨意欲見十方無量嚴淨佛土、應時如願、於寶樹中、皆悉照見、猶如明鏡、睹其面像, nếu như ta thành Phật, các Bồ Tát trong nước, tùy ý muốn thấy mười phương vô lượng Phật độ nghiêm tịnh, tùy thời được như nguyện; trong hàng cây báu, tất đều chiếu thấy, giống như gương sáng, thấy rõ hình mặt).” Hay như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō No. 365) cũng có đoạn: “Phật cáo A Nan cập Vi Đề Hy: 'Địa tưởng thành dĩ, thứ quán bảo thọ; quán bảo thọ giả, nhất nhất quán chi, tác thất trùng hàng thọ tưởng, nhất nhất thọ cao bát thiên do tuần, kỳ chư bảo thọ, thất bảo hoa diệp, vô bất cụ tục (佛告阿難及韋提希:地想成已、次觀寶樹、觀寶樹者、一一觀之、作七重行樹想、一一樹高八千由旬、其諸寶樹、七寶華葉、無不具足, Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy rằng: 'Quán tưởng về đất xong rồi, kế đến quán cây báu; quán cây báu thì quán từng cây một, tưởng tượng bảy hàng lớp cây, mỗi một cây cao tám ngàn do tuần; các cây báu ấy, hoa và lá bằng bảy thứ báu, không cây nào không đầy đủ').” Ngoài ra, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).” Câu “thường du bảo thọ chi giai (常遊寳樹之堦)” có nghĩa là thường rong chơi nơi thềm ngọc có hàng cây báu, tức chỉ cho thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật Di Đà.
(五辰八敎): hay Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎), tức là chủ trương của Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) về giáo phán của Thiên Thai Tông, lấy nội dung của các kinh điển Phật Giáo, rồi phân loại, giải thích; theo thứ tự thời gian thuyết pháp của đức thích tôn mà phân thành 5 thời là Hoa Nghiêm (華嚴), Lộc Uyển (鹿苑), Phương Đẳng (方等), Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Niết Bàn (涅槃); rồi căn cứ vào hình thức, phương tiện hóa độ chúng sanh mà phân thành Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎) là Đốn (頓), Tiệm (漸), Bí Mật (秘密), Bất Định (不定); và nương theo nội dung giáo lý để hóa đạo thích ứng với căn cơ chúng sanh mà phân thành Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎) là Tạng (藏), Thông (通), Biệt (別), Viên (圓). Đây được gọi là Ngũ Thời Bát Giáo. Về Ngũ Thời:
(1) Thời Hoa Nghiêm, chỉ thời kỳ đầu tiên trong vòng 37 ngày sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經), như lúc mặt trời chiếu trên núi cao. Nội dung thuyết pháp đương thời là Viên Giáo, Biệt Giáo. Đối tượng thuyết pháp là chúng Đại Bồ Tát của Biệt Giáo cũng như các phần tử ưu tú trong Viên Giáo. Nếu nói theo ý nghĩa đức Phật thuyết pháp, nhờ trí tuệ nội chứng, Ngài nghĩ ra cách thí nghiệm xem thử giáo pháp có thích hợp với căn cơ chúng sanh hay không; nên thời này được gọi là Nghĩ Nghi Thời (擬宜時, thời tìm ra phương pháp thích nghi); tương đương với vị sữa được lấy từ trong con bò ra. Hoa Nghiêm Kinh có 2 phần: trước và sau. Phần trước là thuyết pháp trong 37 ngày, không bao hàm Thanh Văn (聲聞); phần sau như Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品), có các Đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Trình độ thuyết pháp của thời này rất cao, hàng Thanh Văn như câm như điếc, chưa thể lãnh hội trọn vẹn giáo thuyết.
(2) Thời Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), chỉ khoảng thời gian 12 năm sau khi đức Phật tuyên thuyết Hoa Nghiêm Kinh; là thời kỳ tại 16 nước lớn, Ngài thuyết 4 bộ A Hàm (阿含) của Phật Giáo Nguyên Thủy, gồm Trường A Hàm Kinh (長阿含經, hay Trường Bộ [p: Dīghanikāya, 長部]), Trung A Hàm Kinh (中阿含經, hay Trung Bộ [p: Majjhimanikāya, 中部]), Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, hay Tương Ưng Bộ [p: Saṁyuttanikāya, 相應部]), Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經, hay Tăng Chi Bộ [p: Aṅguttaranikāya, 增支部]); giống như thời kỳ mặt trời chiếu soi hang đá. Nhân vì lần đầu tiên Ngài thuyết pháp tại Lộc Dã Uyển (鹿野苑), nên có tên gọi như vậy. Bên cạnh đó, do vì kinh điển được thuyết vào thời kỳ này là A Hàm nên được gọi là Thời A Hàm. Trình độ giáo pháp thời kỳ này rất thấp, chỉ là giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy, được ví như vị cạo sữa.
(3) Thời Phương Tiện, chỉ khoảng thời gian sau thời Lộc Uyển, thuyết các kinh điển Đại Thừa như Duy Ma (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩), Thắng Man (s: Śrīmālā-siṁha-nāda-sūtra, 勝鬘), v.v., như lúc mặt trời chiếu xuống bình địa. Giáo pháp thời này cũng có Tạng, Thông, Biệt Viên; được ví cho vị của ván sữa sống. Phương tiện là thông xưng của kinh điển đại thừa và thời kỳ này bắt đầu tuyên thuyết kinh điển ấy, nên có tên gọi là Thời Phương Tiện.
(4) Thời Bát Nhã, chỉ trong vòng 22 năm sau Thời Phương Tiện, là thời kỳ thuyết các kinh điển thuộc hệ Bát Nhã, cho nên theo tên kinh mà có tên gọi như vậy. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu từng khu vực. Giáo pháp thời này thuộc về Tam Giáo Thông, Biệt và Viên; phá trừ những thiên chấp về Đại Thừa, Tiểu Thừa; thuyết rõ các pháp đều là Không, dung hợp cả đại lẫn tiểu thành một vị; được ví như vị của ván sữa chín. Thời kỳ này đức Phật vì nhóm Tu Bồ Đề (s, p: Subhūti, 須菩提) thuyết Bát Nhã, khiến cho họ ngưỡng mộ Đại Thừa.
(5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn, chỉ thời kỳ năng lực của người thọ giáo tiến đến cảnh giới tối cao, chứng nhập tri kiến của Phật, khoảng trong vòng 8 năm cuối trước khi đức Phật nhập Niết Bàn; trong thời gian ấy Ngài thuyết Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) và Đại Bát Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 大般涅槃經) trước khi nhập diệt một ngày một đêm. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu đúng ngọ. Giáo pháp thời kỳ này thuần túy Viên Giáo viên mãn, được ví như vị của Đề Hồ.
Về Bát Giáo, như có đề cập bên trên, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎, tức 4 hình thức và nghi tắc được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh) và Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎, tức 4 nội dung giáo pháp được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh). Hóa Nghi Tứ Giáo có:
(1) Đốn Giáo (頓敎), ban đầu đức Phật lấy phương pháp tự nội chứng trực tiếp giáo hóa chúng sanh; tương đương với giáo thuyết của Hoa Nghiêm Kinh.
(2) Tiệm Giáo (漸敎), là giáo pháp có nội dung giáo hóa từ cạn tiến dần đến sâu; tương đương với ba thời thuyết giáo của A Hàm, Phương Đẳng và Bát Nhã.
(3) Bí Mật Giáo (秘密敎), đức Phật tùy theo căn cơ, trình độ, năng lực bất đồng của mỗi chúng sanh mà thuyết giáo, khiến cho kia đây không biết nhau.
(4) Bất Định Giáo (不定敎), tức giáo pháp không nhất định, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà thể ngộ chân lý khác nhau. Trong đó, Bí Mật Giáo và Bất Định Giáo có điểm cọng thông là “Đồng Thính Dị Văn (同聽異聞, cùng nghe mà hiểu khác)”; có nghĩa là cùng ngồi trong một pháp hội nghe pháp mà mỗi người nghe hiểu mỗi khác, không ai giống ai.
Hóa Pháp Tứ Giáo có:
(1) Tam Tạng Giáo (三藏敎), gọi tắt là Tạng Giáo (藏敎), tức Tiểu Thừa Giáo (小乘敎).
(2) Thông Giáo (通敎), Thông có 3 nghĩa là thông đồng, thông nhập và cọng thông; tức giáo nghĩa Đại Thừa cọng thông cả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát.
(3) Biệt Giáo (別敎), nghĩa là không cọng Hai Thừa mà chỉ vì Bồ Tát thuyết pháp, hoặc do sai biệt mà quán sát các pháp.
(4) Viên Giáo (圓敎), nghĩa là giáo lý viên dung, không thiên chấp, là lý chân thật, hay lý giác ngộ của đức Phật.
Như trong Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō No. 1931) có giải thích rằng: “Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, dĩ Ngũ Thời Bát Giáo, phán thích Đông lưu nhất đại Thánh Giáo, khánh vô bất tận (天台智者大師、以五時八敎、判釋東流一代聖敎、罄無不盡, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư lấy Ngũ Thời Bát Giáo để giải thích Thánh Giáo một đời được truyền sang phương Đông, đến rốt cùng tận).” Hay như trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, CBETA No. 1524) quyển 25, phần Nam Châu Phổ Hiệp Pháp Sư Truyện (南洲溥洽法師傳) cũng có câu: “Hồng Võ Tân Hợi, xuất thế trú Cô Sơn Mã Não Giảng Tự, hựu trú Tô Châu Bắc Thiền, học đồ vân tập, sư vi khai diễn Ngũ Thời Bát Giáo, Như Lai nhất đại thí hóa chi nghi, vô trí ngu cao hạ, nhân nhân mãn sở dục nhi thối (洪武辛亥、出世住孤山瑪瑙講寺、又住蘇州北禪、學徒雲集、師爲開演五時八敎、如來一代施化之儀、無智愚高下、人人滿所欲而退, vào năm Tân Hợi [1371], niên hiệu Hồng Võ, Phổ Hiệp Pháp Sư đến trú tại Mã Não Giảng Tự ở Cô Sơn, rồi chuyển đến trú tại Bắc Thiền ở Tô Châu, học đồ tập trung rất đông, sư vì họ mà diễn giảng Ngũ Thời Bát Giáo, là nghi tắc giáo hóa một đời của Như Lai; không phân biệt trí ngu, cao thấp, mọi người đều thỏa mãn sự ham muốn của mình và lui ra).”
(日觀子溫, Nikkan Shion, ?-1293): vị tăng họa sĩ dưới thời nhà Tống và đầu nhà Nguyên, xuất thân Hoa Đình (華亭, Tùng Giang, Tỉnh Giang Tô), tự Trọng Ngôn (仲言), hiệu Nhật Quán (日觀), Tri Phi Tử (知非子, hay Tri Quy Tử [知歸子]), còn gọi là Ôn Nhật Quán (溫日觀). Ông xuất gia lúc còn nhỏ, trú tại Mã Não Tự (瑪瑙寺) vùng Cát Lãnh (吉嶺, phía Bắc Tây Hồ, Hàng Châu), đặc biệt có năng khiếu viết chữ thảo, chuyên vẽ tranh bồ đào (nho), cho nên người đời gọi ông là Ôn Bồ Đào (溫葡萄). Tính ông thích uống rượu, mặc áo cụt, bước chân cao chân thấp say trong chợ, người ta chẳng biết là phàm hay thánh. Tương truyền Dương Tổng Thống (楊總統) mời ông uống rượu ngon, nhưng ông chẳng đụng đến một giọt nào mà chửi họ Dương là “tên giặc đào đất.”
(s, p: saṅgha, 僧): tiếng gọi tắt của Tăng Già (僧伽); ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển); hay kết hợp cả Phạn ngữ và Hán ngữ lại mà có tên gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn có cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu (Tam Bảo [三寶], gồm Phật, Pháp và Tăng), là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo hành trì đạo của Ngài để nhập vào hàng Thánh và chứng quả. Tăng còn là hàng ngũ Thánh đệ tử cắt tóc, xuất gia, theo Phật học đạo, thọ giới Cụ Túc, có đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến, trú vào Tứ Hướng, Tứ Quả. Từ này còn được dùng để chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn độ cho nhóm 5 Tỳ Kheo A Nhã Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), v.v., và đây được xem như là Tăng Đoàn đầu tiên của Phật Giáo. Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện:
(1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng.
(2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅).
Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào.
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
(七珍): hay Thất Bảo (七寶), tức là 7 loại trân bảo quý giá của thế gian. Các kinh điển giải thích về 7 loại trân bảo này có khác nhau, như A Di Đà Kinh (阿彌陀經), Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 10, v.v., giải thích Thất Bảo là:
(1) Vàng;
(2) Bạc;
(3) Lưu Ly (瑠璃、琉璃), thuộc loại ngọc xanh;
(4) Pha Lê (頗梨), ý dịch là Thủy Tinh, chỉ loại Thủy Tinh màu đỏ, trắng, v.v.;
(5) Xa Cừ (車渠), trong các kinh điển thường gộp chung loại này với Mã Não (碼瑙), chỉ cho loại San Hô trắng;
(6) Xích Châu (赤珠, hạt châu đỏ), hay Xích Chơn Châu (赤眞珠);
(7) Mã Não, loại ngọc có màu xanh đậm.
Bên cạnh đó, Pháp Hoa Kinh (法華經) quyển 4 cho Thất Bảo là: Vàng, Bạc, Lưu Ly, Xa Cừ, Mã Não, Chơn Châu và Mân Côi (玫瑰). Như trong Di Đà Phật Minh (彌陀佛銘) của Lương Trầm Ước (梁沉約, ?-?) thời Nam Triều có câu: “Nguyện du bỉ quốc, thần kiều mộ tưởng, Thất Trân phi tiện, tam đạt tư ngưỡng (願遊彼國、晨翹暮想、七珍非羨、三達斯仰, nguyện rong chơi nước ấy, ngày trông đêm nhớ, bảy báu chẳng ham, ba lần đạt đến sự khát ngưỡng).” Hay trong Ngọc Thanh Hành (玉清行) của Liễu Bí (柳泌, ?-820) nhà Đường lại có câu: “Thất Trân phi mãn tòa, Cửu Dịch chước như tuyền (七珍飛滿座、九液酌如泉, Bảy Báu bay đầy tòa, Chín Dịch rót như suối).” Trong Tịnh Độ Tùy Học (淨土隨學) quyển hạ của Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Minh có câu: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, Thất Bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một danh hiệu Phật tụng nho nhỏ, hoa sen bảy báu lớn dần khai).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập