Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hoàng Hà »»

(東海): có mấy nghĩa. (1) Tên biển, tùy theo thời đại mà tên gọi khác nhau. Đại để, dưới thời Tiền Tần (từ năm 221 ttl. trở về trước), phần lớn chỉ Hoàng Hải (黃海) hiện tại. Từ thời Tần (秦, 221-207 ttl.), Hán (漢, 202 ttl-220) trở về sau, phần lớn chỉ cho Hoàng Hải, Đông Hải hiện tại. Từ thời nhà Minh (明, 1368-1644) trở về sau, chỉ tương đương với Đông Hải hiện tại. Hải vực của Đông Hải ngày nay, từ phía Bắc đi về bờ Bắc cửa khẩu Trường Giang (長江), phía Nam lấy Đảo Nam Áo (南澳島) của Tỉnh Quảng Đông (廣東省) đến Tỉnh Đài Loan (台灣省) làm ranh giới, phía Đông đến quần đảo Lưu Cầu (琉球) của Nhật Bản. (2) Chỉ chung cho biển lớn ở phương Đông. Như trong bài Thất Phát (七發) của Mai Thừa (枚乘, ?-140) nhà Hán có đoạn: “Bỉnh ý hồ Nam sơn, thông vọng hồ Đông hải, hồng động hề thương thiên, cực lự hồ nhai sĩ (秉意乎南山、通望乎東海、虹洞兮蒼天、極慮乎崖涘, vững ý ôi núi Nam, nhìn thoáng ôi biển Đông, cầu vồng chừ trời xanh, tận ý ôi bờ vực).” Hay trong tác phẩm Tây Thục Mộng (西蜀夢) của Quan Hán Khanh (關漢卿, khoảng 1220-1300) nhà Nguyên có câu: “Lai thời tiết ngọc thiềm xuất Đông hải, khứ thời tiết tàn nguyệt hạ Tây lâu (來時節玉蟾出東海、去時節殘月下西樓, thời tiết đến cóc ngọc hiện Đông biển, thời tiết đi trăng tàn xuống Tây lầu).” (3) Chỉ địa khu Tân Hải (濱海) của Trung Quốc. (4) Tên gọi chung của 4 Huyện lớn của Nhật là Aichi-ken (愛知縣, Huyện Ái Tri), Gifu-ken (岐阜縣, Huyện Kì Phụ), Mie-ken (三重縣, Huyện Tam Trọng) và Shizuoka-ken (靜岡縣, Huyện Tĩnh Cương).
(河伯): tên gọi của vị Thủy Thần ở Hoàng Hà (黃河) trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Về lịch sử, tên ban đầu của Hà Bá là Băng Di (冰夷), Bằng Di (馮夷), Hà Thần (河神), Vô Di (無夷). Tên gọi Hà Bá phát xuất từ thời Chiến Quốc (戰國, 403 hay 453-221 ttl.), truyền thuyết không thống nhất với nhau. Vì Hoàng Hà thường lũ lụt, gây tai họa khôn xiết, cho nên người ta cho rằng tính tình của Hà Bá cũng hung bạo. Thần thoại kể rằng Hậu Nghệ (后羿) đã từng dùng tên bắn vào mắt trái Hà Bá. Do vì ông có uy lực không thể lường, nên từ xưa đã có tập tục xấu “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, lấy đó để cầu được bình an, không hoạn nạn. Về truyền thuyết “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, dưới thời đại Chiến Quốc, Tây Môn Báo được phái đến Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Huyện Lâm Chương [臨漳縣], Tỉnh Hà Bắc [河北省]) làm quan huyện. Khi đến nơi thì không bóng người qua lại, cả ngày hoang vắng, bèn hỏi xem thử nguyên do vì sao. Có một lão già tóc bạc phơ bảo rằng đó là do vì chuyện Hà Bá cưới vợ gây nên náo loạn như vậy. Hà Bá là thần của sông Chương, hằng năm đều phải cưới một cô nương xinh đẹp. Nếu như không đem cống nạp, tất sông Chương sẽ phát sinh lũ lớn, làm cho ruộng đất, nhà cửa đều ngập trong biển nước. Nghe vậy, Tây Môn Báo biết rằng đây là câu chuyện bịa đặt của tên tham quan nào đó để xách nhiễu lòng dân. Đợi đến ngày Hà Bá Cưới Vợ năm sau, ông đến ngay tại hiện trường quan sát. Ông phát hiện con quan lớn nhỏ cùng với mấy bà đồng bóng đội lốt thần quỷ cũng có mặt. Về sau, Tây Môn Báo (西門豹) nhà Ngụy không tin vào truyền thuyết đó, cấm tuyệt không cho thờ cúng, kêu gọi dân chúng làm cầu, ngăn đê, cuối cùng dứt được sự lo âu về thủy tai. Về truyền thuyết, Hà Bá có thân người đuôi cá, tóc trên đầu màu trắng bạc, tròng mắt có màu sắc rực rỡ như ngọc Lưu Ly. Tuy nhiên, ông là người nam, có vẻ đẹp dị thường, trên thân có mùi hương thơm ngát, mới nhìn thoáng qua khoảng không quá 20 tuổi. Trong Bão Phác Tử (抱朴子), Thiên Thích Quỷ (釋鬼篇), có giải thích rằng Băng Di đi qua sông, bị chết đuối, được Thiên Đế giao cho làm Hà Bá để quản lý sông hồ. Hay như trong Sưu Thần Ký (搜神記) quyển 4 có đoạn giải thích sự việc trên rằng: “Tống thời Hoằng Nông Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, dĩ bát nguyệt thượng Canh nhật độ hà, nịch tử; Thiên Đế thự vi Hà Bá (宋時弘農馮夷、華陰潼鄉隄首人也、以八月上庚日渡河、溺死、天帝署爲河伯, vào niên hiệu Hoằng Nông nhà Tống, có Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, nhân qua sông vào ngày Canh đầu tháng 8, bị chết đuối; Thiên Đế phong cho làm Hà Bá).” Trong tác phẩm Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 75 của Phật Giáo cũng có cùng nội dung tương tự như vậy. Cũng có thuyết cho rằng Hà Bá dùng 8 thứ đá (xưa kia các Đạo gia dùng 8 loại nguyên liệu bằng đá để luyện đơn, gồm Chu Sa [硃砂], Hùng Hoàng [雄黃], Thử Hoàng [雌黃], Không Thanh [空青], Vân Mẫu [雲母], Lưu Huỳnh [硫黃], Nhung Diêm [戎鹽], và Tiêu Thạch [硝石]) và thành thần, như trong Sơn Hải Kinh Hải Kinh Tân Thích (山海經海經新釋) quyển 7 có giải thích: “Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, phục bát thạch, đắc Thủy Tiên, thị vi Hà Bá (馮夷華陰潼鄉隄首人也、服八石、得水仙、是爲河伯, Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, dùng tám loại đá, thành Thủy Tiên, đó là Hà Bá).” Vị thần này còn có tên gọi khác là Hà Bá Sứ Giả (河伯使者), như trong Thần Dị Kinh (神异經), phần Tây Hoang Kinh (西荒經) có câu: “Tây hải thủy thượng hữu nhân, thừa bạch mã chu liệp, bạch y huyền quan, tùng thập nhị đồng tử, sử mã Tây hải thủy thượng, như phi như phong, danh viết Hà Bá Sứ Giả (西海水上有人、乘白馬朱鬣、白衣玄冠、從十二童子、駛馬西海水上、如飛如風、名曰河伯使者, trên mặt nước biển Tây có người cỡi con ngựa trắng, bờm đỏ, mặc áo trắng, đội mũ đen, cùng với mười hai đồng tử, cỡi ngựa trên mặt nước biển Tây, bay nhanh như gió, tên là Hà Bá Sứ Giả).” Tên gọi Kappa ở Nhật cũng xuất phát từ nguyên ngữ này. Nó đồng nghĩa với Hà Tông (河宗). Tín ngưỡng Hà Bá cũng rất thịnh hành ở Việt Nam; cho nên tục ngữ Việt Nam thường có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.” Truyền thuyết của Hà Đồng (河童) vốn phát xuất rất sớm từ vùng thượng du của lưu vực Hoàng Hà; xưa kia gọi là Thủy Hổ (水虎), hay Hà Bá. Về truyền thuyết của Hà Đồ, khi vua Đại Vũ (大禹) quản lý Hoàng Hà, có 3 báu vật là Hà Đồ (河圖, Bản Đồ Sông Nước), Khai Sơn Phủ (開山斧, Búa Mở Núi) và Tỵ Thủy Kiếm (避水劍, Kiếm Tránh Nước). Truyền thuyết cho rằng Hà Đồ do vị Thủy Thần là Hà Bá trao cho vua Đại Vũ. Vua phục nghi (伏羲) quan sát rất kỹ lưỡng đối với sự hưng suy của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thời tiết, khí hầu, cây cỏ, v.v. Có hôm nọ, bỗng nhiên giữa Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (龍馬), ông thấy chấn động tâm thần, tự thân cảm xúc được sự linh thiêng của trời đất, tự nhiên. Nhà vua phát hiện trên thân con ngựa có đồ hình, rất tâm đầu ý hợp với ý tưởng về quá trình quán sát vạn vật. Phục nghi đi qua thân con ngựa, quan sát thật kỹ, vẽ ra đồ hình Bát Quái (八卦). Từ đó, đò hình trên thân con ngựa kia được gọi là Hà Đồ. Trong Sơn Hải Kinh (山海經) có giải thích rằng: “Phục Nghi đắc Hà Đồ, Hạ nhân nhân chi, viết Liên Sơn (伏羲得河圖、夏人因之、曰連山, Phục Nghi có được Hà Đồ, người Hạ nhân đó gọi là Liên Sơn).” Ngay như Kinh Quái (經卦) của Phục Nghi cũng xuất phát từ nguồn gốc hiện tượng thiên văn, có căn nguyên từ Hà Đồ. Trong bài Cửu Ca (九歌) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) cũng có thiên viết về Hà Bá.
(鶴林玄素, Gakurin Genso, 668-752): vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, pháp từ của Trí Uy (智威), vị tổ đời thứ 5 của Ngưu Đầu Tông, tự là Đạo Thanh (道清), họ Mã (馬), cho nên ông thông xưng là Mã Tố (馬素), xuất thân Diên Lăng (延陵), Nhuận Châu (潤州, Tỉnh Giang Tô). Ông xuất gia ở Trường Thọ Tự (長壽寺) vùng Giang Ninh (江寧, Tỉnh Giang Tô) và sau khi thọ Cụ Túc giới xong, ông sống ẩn cư. Đến cuối đời, ông theo hầu hạ Trí Uy ở U Thê Tự (幽棲寺), Thanh Sơn (青山), thân hình khắc khổ. Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-742), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Uông Mật (汪密), ông đến Kinh Khẩu (京口) và đáp ứng sự khẩn thỉnh của vị quan trong quận Vi Tiển (微銑), ông đến sống tại Hạc Lâm Tự (鶴林寺) thuộc Hoàng Hạc Sơn (黃鶴山), Nhuận Châu (潤州). Vào ngày 11 tháng 11 năm thứ 11 (752) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông an nhiên thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi. Tháp ông được dựng ở Tây Hoàng Hạc Sơn. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Luật Thiền Sư (大律禪師). Môn nhân của ông có Pháp Hải (法海), người biên tập bộ phận tối cổ của Lục Tổ Đàn Kinh Bản Đôn Hoàng. Lý Hoa (李華) soạn bia văn cho tháp của ông.
(護命, Gomyō, 750-834): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống vào khoảng hai thời đại Nại Lương và Bình An, húy Hộ Mạng (護命), thông xưng là Tiểu Tháp Viện Tăng Chánh (小塔院僧正), xuất thân Mỹ Nùng (美濃, thuộc Gifu-ken [岐阜縣]), họ Tần (秦). Năm 10 tuổi, ông theo Đạo Hưng (道興, Dōkō) ở Mỹ Nùng Quốc Phận Tự (美濃國分寺) học cách đọc âm Pháp Hoa Kinh (法華經), Tối Thắng Vương Kinh (最勝王經) và đến năm 766 thì thọ cụ túc gới tại giới đàn viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Sau đó, ông theo Vạn Diệu (萬耀, Manyō), Thắng Ngộ (勝悟, Shōgo) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) học về Pháp Tướng và sống tại một ngôi tháp nhỏ trong chùa. Năm 794, trong lễ hội cúng dường tại Nhất Thừa Chỉ Quán Viện (一乘止觀止院) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ông làm vị đạo sư tán hoa. Đến năm 805, ông làm giảng sư tại Tối Thắng Hội (最勝會) trong cung nội và sau đó được bổ nhiệm làm Luật Sư. Vào năm 816, khi Giới Đàn Đại Thừa được triều đình cho phép thành lập, ông đảm đương trách nhiệm Thượng Thủ Tăng Cang, rồi dâng thư xin từ chức Đại Tăng Đô và lui về ẩn cư tại Sơn Điền Tự (山田寺, Yamada-dera). Năm 823, khi Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō) tức vị, ông lại được đãi ngộ với chức Đại Tăng Đô và năm 827 thì trở thành Tăng Chánh. Đến năm 830, ông dâng lên nhà vua bản Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thần Chương (大乘法相研神章) và tận lực chấn hưng Pháp Tướng Tông. Trước tác của ông có rất nhiều như Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên Thần Chương (大乘法相研神章) 5 quyển, Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương Ký (大乘法苑義林章記) 3 quyển, Pháp Uyển Giải Tiết Chương Ký (法苑解節章記) 20 quyển, v.v.
(火德星君):
(1) Dân gian thường gọi là Hỏa Thần Da (火神爺, Ông Thần Lửa), hay Hỏa Thiên Kim Cang (火天金剛), Xích Đế (赤帝), là con của vị trưởng bộ tộc thời cổ đại xa xưa. Ông là người phát hiện ra phương pháp khẻ đá châm lửa. Hoàng Đế (黃帝) biết được bèn phong cho ông làm quan chưởng quản về lửa, cũng ban cho tên là Chúc Dung (祝融). Dưới thời đại của Hoàng Đế, ở phương nam có một thị tộc tên Xí Vưu (蚩尤), thường vào gây rối ở Trung Nguyên; nhân đó, Hoàng Đế hạ lệnh cho Chúc Dung đem binh mã thảo phạt. Tuy nhiên Xí Vưu người nhiều thế mạnh, anh em lại rất đông, mỗi người đều mang áo da thú, đầu đội sừng trâu, trông rất hùng mạnh và ghê tợn. Chúc Dung chỉ biết dùng lửa làm vũ khí, đốt cháy quân đội của Xí Vưu. Địch quân tháo chạy, Chúc Dung đuổi đến tận Hoàng Hà (黃河), Trường Giang (長江) và cuối cùng đánh bại Xí Vưu. Sau khi trở về triều, Chúc Dung được Hoàng Đế ban cho chưởng quan phương Nam, cho nên tại đây ông đã giáo hóa dân chúng biết cách dùng lửa trong sinh hoạt hằng ngày, như dùng lửa để xua đuổi dã thú, muỗi, để chế tạo các đồ dùng kim thuộc; nhờ vậy cuộc sống của người dân được cải thiện hơn nhiều. Cảm kích trước ân đức đó, người dân tôn xưng ông là Xích Thần (赤帝, xích là màu đỏ, cũng có ý là lửa). Ông sống được hơn trăm tuổi, và sau khi qua đời, bá tánh lập Xích Đế Điện để tôn thờ và tưởng nhớ đến ân đức cao dày của ông. Lịch đại chư vị đế vương đều phong hiệu cho ông như Hỏa Thần (火神), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君). Như trong Thần Đản Phổ (神誕譜) có giải thích rằng: “Hỏa Đức Tinh Quân, vi Viêm Đế Thần Nông thị chi linh, tự chi vi Hỏa Thần, dĩ nhương hỏa tai (火德星君、爲炎帝神農氏之靈、祀之爲火神、以禳火災, Hỏa Đức Tinh Quân là linh của Viêm Đế Thần Nông, thờ làm Hỏa Thần để giải trừ hỏa tai).” Sử Ký (史記) ghi rõ rằng: “Hỏa Thần vi Chúc Dung, Chuyên Húc chi tử, danh Lê (火神爲祝融、顓頊之子、名黎, Thần Lửa là Chúc Dung, con của Chuyên Húc, tên là Lê).” Trong khi đó, Quốc Ngữ (國語) lại cho hay một thông tin thú vị khác: “Hỏa Thần vi Hồi Lộc (火神爲回祿, Thần Lửa là Hồi Lộc).” Hồi Lộc hay Hồi Lục (回陸), do vì xưa kia tại nước Sở có một người tên Ngô Hồi (吳回), làm quan trông coi về lửa, nên có thuyết cho rằng ông là Hồi Lộc. Vì vậy trong Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Trịnh nhương hỏa vu Hồi Lộc (鄭禳火于回祿, Trịnh cầu nguyện lửa nơi Hồi Lộc).” Và người thời nay gọi hỏa hoạn là “Hồi Lộc chi tai (回祿之災, tai họa Hồi Lộc).”
(2) Là tên gọi khác của Táo Quân (竈君), vị thần chưởng quản Nhà Bếp.
(3) Là tên gọi của một trong Ngũ Đức Tinh Quân (五德星君), gồm Đông Phương Mộc Đức Tinh Quân (東方木德星君), húy Trọng Hoa (重華); Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân (南方火德星君), húy Huỳnh Hoặc (熒惑); Tây Phương Kim Đức Tinh Quân (金德星君), húy Thái Bạch (太白); Bắc Phương Thủy Đức Tinh Quân (水德星君), húy Tứ Thần (伺晨); Trung Ương Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), húy Địa Nhật Hầu (地日侯).
(4) Là tên gọi của một trong Cửu Diệu (九曜), gồm Kế Đô Tinh Quân (計都星君), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君), Mộc Đức Tinh Quân (木德星君), Thái Âm Tinh Quân (太陰星君), Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), La Hầu Tinh Quân (羅睺星君), Thái Dương Tinh Quân (太陽星君), Kim Đức Tinh Quân (金德星君), và Thủy Đức Tinh Quân (水德星君).
Hằng năm vào ngày 23 tháng 6 Âm Lịch, dân gian vẫn thường hành lễ kỷ niệm Thánh đản của Hỏa Đức Tinh Quân. Trong Phật Giáo vẫn công nhận Hỏa Đức Tinh Quân là một vị thần. Từ thời nhà Tống (宋, 960-1279) trở đi, trước tượng thờ chính trong Chánh Điện của các Thiền viện đều có treo bài vị “Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân Thần (南方火德星君神).” Mỗi tháng vào ngày mồng 4 và 18, chư tăng tụng kinh hồi hướng để cầu nguyện cho già lam hưng thạnh, yên ổn, không bị hỏa hoạn. Tương truyền Hòa Thượng Đạo Tế (道濟, tức Tế Công [濟公]) của Linh Ẩn Tự (靈隱寺) đã từng thấy Hỏa Đức Tinh Quân hóa hiện người nữ vào chùa, bèn chạy đến trước mặt cô ta chận đường, liền bị quở trách là đùa giỡn với nữ nhân. Tế Công trở về phòng nhập định và kết quả chùa bị hỏa hoạn thảm khốc. Có hôm nọ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) ăn bánh nướng ở trong điện, ăn ngụm đầy cả miệng. Quan Nội Giám thấy vậy bèn chạy đi báo cho Quốc Sư Lưu Cơ (劉基) biết, nhân đó Quốc Sư có làm bài Thiêu Bính Ca (燒餠歌), trong đó có đề cập đến Hỏa Đức Tinh Quân rằng: “Hỏa phong đỉnh, lưỡng hỏa sơ hưng định thái bình; hỏa sơn lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu Tinh, Hỏa Đức Tinh Quân lai hạ giới, kim điện lâu đài tận Bính Đinh, nhất cá hồ tử Đại Tướng Quân (火風鼎,兩火初興定太平,火山旅,銀河織女讓牛星,火德星君來下界,金殿樓臺盡丙丁,一個鬍子大將軍, đỉnh gió lửa, hai lửa mới thành định thái bình; núi lửa chơi, Ngân Hà Chức Nữ nhường Sao Ngưu, Hỏa Đức Tinh Quân xuống hạ giới, điện vàng lâu đài thảy tiêu tan, còn một chòm râu Đại Tướng Quân).”
(皇度): chỉ về phẩm đức và sự độ lượng của Hoàng đế. Như trong bài Tấn Võ Hoa Lâm Viên Tập Thi (晉武華林園集詩) của Ứng Trinh (應貞, ?-269) của nhà Tấn có câu: “Khôi khôi Hoàng độ, mục mục Thánh dung (恢恢皇度、穆穆聖容, rộng lớn đức vua, sâu thẳm vẻ Thánh).” Hay trong bài Chánh Đán Đại Hội Hành Lễ Ca (正旦大會行禮歌) của Tuân Húc (荀勗, ?-289) nhà Tấn cũng có câu: “Tư ngã Hoàng độ, di luân du tự (思我皇度、彝倫攸序, nhớ đức vua ta, luân thường trật tự).” Hoặc như trong bài Nguyên Hội Đại Hưởng Ca (元會大饗歌), phần Hoàng Hạ (皇夏) của Ngưu Hoằng (牛弘, 545-610) nhà Tùy có đoạn rằng: “Thâm tai Hoàng độ, túy hỉ thiên nghi (深哉皇度、粹矣天儀, sâu thẳm thay đức vua, thuần túy thay nghi Trời).” Trong Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám (廬山蓮宗寶鑑, Taishō Vol. 47, No. 1973) quyển 10 có đoạn: “Phát dương tiên giác chi vi ngôn, vĩnh vi hậu nhân chi minh giám, thượng dĩ âm dực hoàng độ, hạ dĩ hóa lợi sanh dân, khả vị tận thiện tận mỹ nhi dĩ (發揚先覺之微言、永爲後人之明鑑、上以陰翊皇度、下以化利生民、可謂盡善盡美而已, phát huy lời dạy của đấng giác ngộ trước, mãi là gương sáng soi cho kẻ đời sau, trên để âm thầm giúp đỡ đức vua, dưới để làm lợi lạc muôn dân, mới có thể gọi là tốt đến tận cùng, đẹp đến tận cùng mới thôi).”
(黃水) hay Hoàng Hà (黃河): là dòng sông dài, lớn thứ 2 của Trung Quốc, sau Trường Giang (長江), lớn thứ 5 của thế giới. Dòng sông này phát nguyên từ rặng núi Ba Nhan Khách Lạp (巴顏喀拉, Bayan Har) của Tỉnh Thanh Hải (青海省); chảy qua 9 tỉnh khu là Thanh Hải (青海), Tứ Xuyên (四川), Cam Túc (甘肅), Ninh Hạ (寧夏), Nội Mông Cổ (內蒙古), Thiểm Tây (陝西), Sơn Tây (山西), Hà Nam (河南) Sơn Đông (山東); cuối cùng đi qua cửa khẩu sông Đông Doanh (東營) của Tỉnh Sơn Đông (山東省) và đỗ vào Bột Hải (渤海, Bohai Sea), với chiều dài toàn bộ là 5464 km. Hoàng Hà có nghĩa là dòng sông màu vàng. Chữ Hoàng (黃) ở đây dùng để miêu tả hiện trang nước sông như thế nào. Trong Nhĩ Nhã (爾雅), phần Thích Thủy (釋水) có câu: “Hà xuất Côn Lôn, sắc bạch, sở lương tinh thiên thất bách nhất xuyên, sắc hoàng (河出崑崙、色白、所渠並千七百一川、色黃, Hoàng Hà xuất phát từ Côn Lôn, nước trong, chảy qua hơn một ngàn bảy trăm sông, sắc thành màu vàng).” Sơn Hải Kinh (山海經) cũng như Thủy Kinh Chú (水經注) đều cho rằng Hoàng Hà phát xuất từ Côn Lôn. Chi lưu của Hoàng Hà có Bạch Hà (白河), Hắc Hà (黑河), Hoàng Thủy (湟水), Tổ Lệ Hà (祖厲河), Thanh Thủy Hà (清水河), Đại Hắc Hà (大黑河), Quật Dã Hà (窟野河), Vô Định Hà (無定河), Phần Hà (汾河), Vị Hà (渭河), Lạc Hà (洛河), Thấm Hà (沁河), Đại Vấn Hà (大汶河). Hoàng Hà được xem như là người mẹ sản sinh văn minh Trung Quốc. Có một số nhân vật nổi tiếng có liên quan đến dòng sông vĩ đại này như Đại Vũ (大禹), vua nhà Hạ (夏, khoảng 2000-1600 ttl.), người từng chế ngự thành công nạn lũ lụt ở Hoàng Hà; Điền Phân (田蚡), Đại Thần dưới triều Hán Võ Đế; Cổ Nhượng (賈讓), nhà thủy lợi tài ba thời Tây Hán; Đỗ Sung (杜充, ?-1141), Thái Thú Khai Phong (開封) thời Bắc Tống (北宋, 960-1127); phan quý tuần (潘季馴, 1521-1595); nhà chuyên môn trị thủy nổi tiếng thời nhà Minh; Cận Phụ (靳輔, 1633-1692), danh thần trị thủy thời nhà Thanh; Lưu Ngạc (劉鶚, 1857-1909); nhà thủy lợi học cuối thời nhà Thanh, v.v. Chính vì sự vĩ đại của dòng sông, tầm quan trọng như là người mẹ sản sinh ra nền văn minh Trung Quốc, Hoàng Hà còn được xem như là tình thương yêu vô bờ bến của người mẹ đối với con, đối xứng với Thái Sơn là người cha.
(黃泉): suối vàng. Trong văn hóa Trung Quốc, nó chỉ cho thế giới cư trú của người chết. Người xưa cho rằng trời là đen huyền, đất là màu vàng; suối thì nằm trong lòng đất, nên có tên gọi là Huỳnh Tuyền. Có thuyết cho rằng, Trung Quốc lấy lưu vực Hoàng Hà (黃河) làm trung tâm, do vì đất màu vàng nên nước suối chảy ra cũng có màu như vậy. Người Trung Quốc quan niệm rằng dưới âm phủ có chín suối nước màu vàng, nên có tên gọi Cửu Tuyền (九泉, Chín Suối). Cửu Tuyền hay Huỳnh Tuyền đều chỉ cho thế giới của người chết. Tương truyền vào thời Xuân Thu, có Trịnh Trang Công (鄭莊公) rất có hiếu với mẹ, vì mẹ bất chính nên ông có lời thề rằng: “Bất cập huỳnh tuyền bất tương kiến dã (不及黃泉無相見也, không xuống Huỳnh Tuyền thì không gặp nhau).” Trong Tạp Khúc Ca Từ (雜曲歌辭) 13 của Lạc Phủ Thi Tập (樂府詩集) quyển 73 có câu: “Kết phát đồng chẩm tịch, Huỳnh Tuyền cọng vi hữu (結髮同枕席、黃泉共爲友, nối tóc cùng gối chiếu, Huỳnh Tuyền làm bạn thân).” Hay trong bài Trường Hận Ca (長恨歌) của thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường còn có câu: “Thượng cùng bích lạc hạ Huỳnh Tuyền, lưỡng xứ mang mang giai bất kiến (上窮碧落下黃泉、兩處茫茫皆不見, trên khắp trời xanh dưới Huỳnh Tuyền, hai chốn mịt mờ nào chẳng thấy).” Theo truyền thuyết thần thoại của Nhật Bản, có quốc gia Huỳnh Tuyền tên là Dạ Kiến (夜見, Yomi). Nguyên lai, cách phát âm yomi này còn có nghĩa là yume (夢, mộng). Về sau, từ yomi này gắn liền với thế giới của người chết. Trong Cổ Sự Ký (古事記, Kojiki), sử thư tối cổ của Nhật Bản, có đề cập đến Huỳnh Tuyền Quốc (黃泉國). Thời xa xưa của Nhật Bản có tồn tại Huỳnh Tuyền Lộ (黃泉路); nó gắn liền với Vi Nguyên Trung Quốc (葦原中國, Ashihara-no-Nakatsukuni, tên gọi khác của nước Nhật) ở vùng Huỳnh Tuyền Tỷ Lương Phản (黃泉比良坂, Yomotsuhirasaka). Tương truyền chàng nam thần Y Tà Na Kì (伊邪那岐, Izanaki) đuổi theo người vợ là nữ thần Y Tà Na Mỹ (伊邪那美, Izanami) đã chết, đi qua con đường này và vào tiểu quốc Nenokatasukuni (根の堅州國, địa vức lấy An Lai Thị [安來市, Yasugi-shi], Huyện Đảo Căn [島根縣, Shimane-ken] làm trung tâm; là nguyên ngữ của Đảo Căn [島根]). Huỳnh Tuyền Tỷ Lương Phản ở gần An Lai Thị, được định vị là Đông Xuất Vân Đinh (東出雲町, Higashiizumo-chō). Tuy nhiên, Y Tà Na Kì lại lỗi hẹn với vợ, nhìn thấy người vợ xinh đẹp của mình bị con giòi ăn thịt, bèn tức giận và quay trở về. Khi ấy, để tránh người vợ và đoàn nữ binh xấu xí thủ hạ dưới Huỳnh Tuyền đuổi theo, chàng thanh niên lấy tảng đá lớn lấp con đường Huỳnh Tuyền. Tảng đá lớn này được gọi là Đạo Phản Đại Thần (道坂の大神, Chigaeshi-no-Ōkami). Nữa phần còn lại của con đường này là Y Phú Dạ Phản (伊賦夜坂, hiện tại nằm ở Đông Xuất Vân Đinh, Huyện Đảo Căn). Ngoài ra, cũng có thuyết cho rằng vùng đất Huỳnh Tuyền là Hùng Dã (熊野, Kumano). Quan niệm về Huỳnh Tuyền (suối vàng) cũng thịnh hành ở Việt Nam như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Đã không kẻ đoái người hoài, sẵn đây ta kiếm một vài nén hương, gọi là gặp gỡ giữa đường, họa là người dưới suối vàng biết cho.”
(坤儀): có ba nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho đại địa. Như trong bài thơ Đáp Lô Kham (答盧諶) của Lưu Côn (劉琨, 270-317) nhà Tấn có câu: “Càn tượng đống khuynh, khôn nghi chu phú (乾象棟傾、坤儀舟覆, trời cao mái nghiêng, đất cả thuyền che).” Hay trong Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Âm Nhạc Chí (音樂志) 3 lại có câu: “Đại hỉ khôn nghi, chí tai Thần Huyện (大矣坤儀、至哉神縣, lớn thay đại địa, to thay Thần Huyện [Trung Hoa]).” (2) Nhà tướng số lấy Ngũ Nhạc (五嶽, tức 5 ngọn núi lớn, gồm Đông Nhạc Thái Sơn [東嶽泰山] ở Thái An [泰安], Sơn Đông [山東]; nam nhạc hành sơn [南嶽衡山] ở Hành Sơn [衡山], Hồ Nam [湖南]; Tây Nhạc Hoa Sơn [西嶽華山] ở Hoa Âm [華陰], Thiểm Tây [陝西]; Bắc Nhạc Hằng Sơn [北嶽恆山] ở Đại Đồng [大同], Sơn Tây [山西]; và Trung Nhạc Tung Sơn [中嶽嵩山] ở Đăng Phong [登封], Hà Nam [河南]), Tứ Độc (四瀆, tức 4 con sông lớn, gồm Trường Giang [長江], Hoàng Hà [黃河], Hoài Hà [淮河] và Tế Thủy [濟水]) trên mặt đất tỷ dụ cho 5 giác quan và các bộ phận trên khuôn mặt con người; cho nên gọi dung mạo, bề ngoài của con người là khôn nghi. (3) Cũng như mẫu nghi thiên hạ, phần lớn được dùng để xưng tụng hoàng hậu, được xem như là tiêu biểu, mực thước cho người mẹ của thiên hạ. Như trong bài Úy Thái Hậu Biểu (慰太后表) của Vương An Thạch (王安石, 1021-1086) nhà Tống có câu: “Phương chánh khôn nghi chi vị, thượng đồng càn thí chi nhân (方正坤儀之位、上同乾施之仁, mới đúng mẫu nghi cương vị, trên giống trời ban lòng nhân).”
(劉謐, Ryūhitsu, ?-?): vị luận sư chủ trương điều hòa Tam Giáo Nho-Thích-Đạo sống vào khoảng hai thời đại Tống và Nguyên, học giả đáng lưu ý nhất trong lịch sử quan hệ Tam Giáo. Chủ trương của ông cho rằng Nho Giáo thì đoan chánh, cang thường thể hiện luân lý đạo đức con người, Đạo Giáo sùng thượng tính thanh hư, vô vi, và Phật Giáo thì bỏ giả tìm chơn, tự lợi cho mình và đem lại lợi ích cho người, cho nên cả 3 tôn giáo đều có ý nghĩa và nhiệm vụ đối với nhân sinh, không thể thiếu cái nào cả. Trước tác của ông có Tam Giáo Bình Tâm Luận (三敎平心論) 2 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập