Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hoàng độ »»
(東極青華大帝): còn gọi là Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (青玄九陽上帝), là hóa thân của Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), tức Mộc Công (木公) hay Đoàn Hoa Mộc Công, ngự tại Đông Cực (東極). Hậu thế thường cho là Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế và Đông Hoa Đế Quân có cùng nguyên khí hóa hợp; nhưng thực thế thì Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến Đông Vương Công (東王公). Vương Công tức là Mộc Công, hay Đông Hoàng Thái Ất (東皇太乙), cùng với Tây Vương Mẫu (西王母) quản lý hai khí, phân thành âm dương, định ra càn khôn; về sau hóa thành Đông Hoa Đại Đế (東華大帝) và Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊). Khí của Thanh Hoa Đại Đế hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, thệ nguyện cứu độ chúng sanh, nên được tôn xưng là “Vạn Vị Đế Chúa Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế (萬彙帝主東極青華大帝)”, thuộc vào một trong Tứ Ngự của Đạo Giáo. Ngài Cứu Khổ Thiên Tôn cùng với Chu Lăng Thiên Tôn (朱陵天尊) và Độ Mạng Thiên Tôn (度命天尊) được gọi là Thái Ất Tam Cứu Khổ, là vị thần chủ tể tối cao cứu độ vạn loại. Sau khi biến hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế lại ứng hóa khắp mười phương, nên có hiệu là “Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (十方救苦天尊).” Chư vị Thiên Tôn trong 10 phương có hiệu là: Đông Phương Bảo Hoàng Thượng Thiên Tôn (東方寶皇上天尊), Nam Phương Huyền Chơn Vạn Phước Thiên Tôn (南方玄眞萬福天尊), Tây Phương Thái Diệu Chí Cực Thiên Tôn (西方太妙至極天尊), Bắc Phương Huyền Thượng Ngọc Thần Thiên Tôn (北方玄上玉宸天尊), Đông Nam Phương Hiếu Sanh Độ Thiên Tôn (東南方好生度天尊), Đông Bắc Phương Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn (東北方度仙上聖天尊), Tây Nam Phương Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn (西南方太靈虛皇天尊), Tây Bắc Phương Vô Lượng Thái Hoa Thiên Tôn (西北方無量太華天尊), Thượng Phương Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn (上方玉虛明皇天尊) và Hạ Phương Chơn Hoàng Động Thần Thiên Tôn (下方眞皇洞神天尊); được gọi chung là Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寶十方救苦天尊). Vị Thiên Tôn này còn quản lý luôn cả việc thần quỷ dưới Minh Phủ, hóa thành Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) như: Đông Phương Thiên Tôn hóa thành Tần Quảng Vương (秦廣王) của điện thứ nhất, cư trú ở Huyền Minh Cung (玄冥宮); Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Sở Giang Vương (楚江王) của điện thứ hai, cư tại Phổ Minh Cung (普明宮); Tây Phương Thiên Tôn hóa thành Tống Đế Vương (宋帝王) của điện thứ ba, cư tại Củ Tuyệt Cung (糾絕宮); Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Ngũ Quan Vương (五官王) của điện thứ tư, cư tại Thái Hòa Cung (太和宮); Đông Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Diêm La Vương (閻羅王) của điện thứ năm, cư tại Củ Luân Cung (糾倫宮); Đông Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Biện Thành Vương (卞城王) của điện thứ sáu, cư tại Minh Thần Cung (明晨宮); Tây Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Thái Sơn Vương (泰山王) của điện thứ bảy, cư tại Thần Hoa Cung (神華宮); Tây Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Bình Đẳng Vương (平等王) của điện thứ tám, cư tại Thất Phi Cung (七非宮); Thượng Phương Thiên Tôn hóa thành Đô Thị Vương (都市王) của điện thứ chín, cư tại Bích Chơn Cung (碧眞宮); và Hạ Phương Thiên Tôn hóa thành Chuyển Luân Vương (轉輪王) của điện thứ mười, cư tại Túc Anh Cung (肅英宮). Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn có đầy đủ thần lực tự tại, sức trí tuệ lớn vô lượng, thường giải ách nạn, phá tà, hàng ma, cũng như giải trừ hết thảy bệnh tật cho con người; cho nên cũng có tên là Thái Ất Y Vương (太乙醫王). Ngài có đủ sức thần thông nên có thể ngao du khắp nơi như lên trời, xuống cõi người, Địa Phủ, v.v. Vì vậy, trên Trời Ngài có tên là Thái Nhất Phước Thần (太一福神), trên đời gọi là Đại Từ Nhân Giả (大慈仁者), dưới lòng đất là Nhật Diệu Địa Quân (日耀地君), nơi chỗ ngoại đạo là Sư Tử Minh Vương (獅子明王), dưới Thủy Phủ là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君). Ngài thường hóa hiện các thân hình, theo âm thanh để cứu độ chúng sanh, nên cũng được gọi là Thái Ất Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙尋聲救苦天尊). Trong Tống Sử (宋史), phần Phương Kỷ Truyện Hạ (方技傳下), Lâm Linh Tố (林靈素) có câu: “Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương giả, Thượng Đế chi trưởng tử, kỳ đệ hiệu Thanh Hoa Đế Quân giả, chủ Đông phương (神霄玉清王者、上帝之長子、其弟號青華帝君者、主東方, Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương là trưởng tử của Thượng Đế, em trai ông hiệu Thanh Hoa Đế Quân, chủ quản phương Đông).” Hay như trong bài thơ Bộ Hư (步虛) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bán túy kỵ nhất hạc, khứ yết Thanh Hoa Quân (半醉騎一鶴、去謁青華君, nữa say cỡi con hạc, đến yết Thanh Hoa Quân).” Trong Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh (太上無極大道三十六部尊經) có câu kính lễ rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, Thất Bảo phương khiên lâm, Cửu Sắc Liên Hoa tòa, vạn chơn hoàn củng nội, bách ức thoại quang trung, Ngọc Thanh Linh Bảo Tôn, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Thập Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Ức Ức Kiếp Trung, Độ Nhân Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (志心皈命禮、青華長樂界、東極妙嚴宮、七寶芳騫林、九色蓮花座、萬真環拱內、百億瑞光中、玉清靈寶尊、應化玄元始、號劫垂慈濟、大千甘露門、妙道眞身、紫金瑞相、隨機赴感、誓願無邊、大聖大慈、大悲大願、十方化號、普度眾生、億億劫中、度人無量、尋聲赴感、太乙救苦天尊、青玄九陽上帝, Một lòng quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, rừng hương thơm Bảy Báu, tòa Hoa Sen Chín Sắc, vạn loài đều củng phục, trong trăm ức hào quang, Đấng Ngọc Thanh Linh Bảo, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Mười Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Trong Muôn Ức Kiếp, Độ Người Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế).” Ngày thánh đản của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là 11 tháng 11 Âm Lịch.
(華嚴宗, Kegon-shū): tông phái được thành lập vào khoảng đời nhà Tùy cho đến đầu nhà Đường và hìnhthành nên giáo học cố hữumang tính căn bản dựa trên kinh điển tối cao là Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) và tư tưởng của bộ kinh này. Theo cách nhìn truyền thống thì có hai thuyết: Ngũ Tổ và Thất Tổ. Ngũ Tổ gồm Sơ Tổ Đỗ Thuận (杜順, 557-640), Nhị Tổ Trí Nghiêm (智嚴, 602-668), Tam Tổ Pháp Tạng (法藏, 643-712), Tứ Tổ Trừng Quán (澄觀, 738-839) và Ngũ Tổ Tông Mật (宗密, 780-841). Thất Tổ thì trước Đỗ Thuận có thêm vào Mã Minh (Aśvaghoṣa, 馬鳴, khoảng thế kỷ thứ 2) và Long Thọ (Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250). Ở Trung Hoa, sau thời Tông Mật thì Hoa Nghiêm Tông bắt đầu yếu dần thế lực. Đến năm 671 có Nghĩa Sương (義湘), người đồng hàng sư huynh của Pháp Tạng, đã truyền tông này sang Tân La (新羅, tức Triều Tiên); và vào năm 736 thì Thẩm Tường (審祥), môn hạ của Pháp Tạng, truyền tông này sang Nhật Bản. Bên cạnh căn cứ vào Hoa Nghiêm Kinh, Hoa Nghiêm Tông của Nhật còn chú trọng đến Phạm Võng Kinh (梵綱經), lập cước ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), kết hợp giữa tư tưởng của Lý Thông Huyền (李通玄) và tư tưởng Mật Giáo. Thêm vào đó, việc xác lập nên hệ thống giáo học Đông Đại Tự của Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen, 1240-1321) là điểm trọng yếu.
(晦臺元鏡, Maidai Genkyō, 1577-1630): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Hối Đài (晦臺), biệt hiệu là Trạm Linh (湛靈), xuất thân Kiến Dương (建陽, Tỉnh Phúc Kiến), họ Bằng (憑), sinh ngày 25 tháng 6 năm thứ 5 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Năm 28 tuổi, ông đến xuất gia làm đệ tử của Lệ Không Cảo (麗空杲) ở Hổ Khiếu Nham (虎嘯巖), sau đó tham học với Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經) ở Thọ Xương (壽昌) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Ông đến trú tại Thư Lâm (書林), rồi đến năm đầu (1620) niên hiệu Thái Xương (泰昌), ông bắt đầu khai đường giáo hóa tại Nhất Chi Sơn (一枝山), Kiến Dương, nhưng lại quay về ẩn tu tại Võ Di Sơn (武夷山). Đến ngày 13 tháng 7 năm thứ 3 (1630) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông thị tịch, hưởng thọ 54 tuổi đời và 26 hạ lạp. Trước tác của ông có Đông Uyển Kính Thiền Sư Ngữ Lục (東苑鏡禪師語錄) 1 quyển. Hoàng Đoan Bá (黃端伯) soạn bài Võ Di Đệ Nhất Đại Thiền Tổ Đông Uyển Kính Công Đại Sư Tháp Minh Tinh Tự (武夷第一大禪祖東苑鏡公大師塔銘幷序).
(空也, Kūya, Kōya, 903-972): vị tăng sống giữa thời Bình An, vị tổ của Phái Không Dã Niệm Phật (空也念佛派, Kūyanembutsu-ha), tổ của pháp môn Odorinembutsu (踊り念佛, Niệm Phật Nhảy), húy là Không Dã, Hoằng Dã (弘也), Quang Thắng (光勝); không rõ xuất thân ở đâu. Khi tuổi thanh niên, dưới hình thức cư sĩ tại gia, ông đi khắp các tiểu quốc, làm các công việc xã hội như đắp đường, xây cầu cống, đào giếng, v.v. Khoảng độ hơn 20 tuổi, ông xuất gia ở Quốc Phận Tự (國分寺, Kokubun-ji) vùng Vĩ Trương (尾張, Owari), thọ giới Sa Di, lấy hiệu là Không Dã. Đến năm 938, ông lên kinh đô, lấy nơi đây làm trung tâm để tiến hành bố giáo pháp môn “miệng xưng niệm Phật”, không kể giàu nghèo sang hèn gì cả; từ đó ông được gọi là Thị Thánh (市聖, vị Thánh ngoài chợ) hay A Di Đà Thánh. Vào năm 948, ông có thọ giới với Diên Xương (延昌), vị Thiên Thai Tọa Chủ đương thời, ở Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) với giới danh là Quang Thắng, nhưng sau đó ông không bao giờ dùng đến tên này. Trong khoảng niên hiệu Ứng Hòa (應和, 961-964), khi bệnh dịch lưu hành khắp nơi, ông sáng kiến Tây Quang Tự (西光寺, tức Lục Ba La Mật Tự [六波羅蜜寺, Rokuharamitsu-ji]) để an trí tượng Thập Nhất Diện Quan Âm và cầu nguyện cho bệnh tật tiêu trừ. Ông được xem như là người khai sáng Tịnh Độ Giáo của Nhật Bản. Trước tác của ông có Di Đà Hòa Tán (彌陀和讚).
(玉燭): có 3 nghĩa chính. (1) Chỉ cho bốn mùa khí tiết điều hòa, thông suốt; hình dung cuộc sống thái bình, thịnh vượng. Như trong Nhĩ Nhã (爾雅), chương Thích Thiên (釋天) có câu: “Tứ khí hòa, chánh quang chiếu, thử chi vị ngọc chúc (四氣和、正光照、此之謂玉燭, bốn mùa điều hòa, ánh sáng chiếu tỏ, đây gọi là ngọc chúc).” Học giả trứ danh Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Tây Tấn chú thích là: “Đạo quang chiếu (道光照, bảo là ánh sáng chiếu tỏ).” Hình Bỉnh (邢昺, 932-1010) nhà Bắc Tống lại giải thích rõ thêm rằng: “Đạo quang chiếu giả, đạo, ngôn dã; ngôn tứ thời hòa khí, ôn nhuận minh chiếu, cố viết ngọc chúc (道光照者、道、言也、言四時和氣、溫潤明照、故曰玉燭, đạo quang chiếu, đạo có nghĩa là nói, nói rõ bốn mùa khí tiết điều hòa, ấm áp, ẩm ướt, chiếu sáng, nên gọi là ngọc chúc).” Trong bài Thượng Chấp Chính Tứ Thập Vận (上執政四十韻) của Nhã Hổ (雅琥, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Ngọc chúc điều nguyên khí, kim xu vận đại quân (玉燭調元氣、金樞運大鈞, nến ngọc điều khí tiết, đức vua vận muôn dân).” (2) Từ mỹ xưng của cây nến. Như trong bài thơ Kim Tỏa (金鎖) của cung nhân thời vua Hy Tông (僖宗, tại thế 862-888) nhà Đường có câu: “Ngọc chúc chế bào dạ, kim đao ha thủ tài (玉燭製袍夜、金刀呵手裁, đèn ngọc suốt đêm chế áo bào, đao vàng tay cắt than buốt đau).” (3) Tỷ dụ cho ánh sáng con mắt. Như trong bài thơ Bệnh Mã (病馬) của Tào Đường (曹唐, ?-?) nhà Đường có câu: “Tứ đề bất tạc kim châm liệt, song nhãn dong khai ngọc chúc tà (四蹄不鑿金砧裂、雙眼慵開玉燭斜, bốn móng chẳng đục chày vàng nẻ, hai mắt lững lờ ánh sáng mờ).” Trong Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 1 có đoạn: “Cung nguyện, kim luân thống ngự, thọ đẳng càn khôn, ngọc chúc quân điều, minh du nhật nguyệt (恭願、金輪統御、壽等乾坤、玉燭均調、明踰日月, kính mong đức vua ngự mãi, thọ bằng càn khôn, đèn ngọc thường soi, sáng hơn nhật nguyệt).” Hay trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) cũng có đoạn: “Duy nguyện hoàng đồ củng cố, đế đạo hà xương, văn võ lộc tăng, hưng long Tam Bảo, ngọc chúc thường điều, sĩ dân lạc nghiệp, đàn na diễn khánh, bất phùng Tam Tai Bát Nạn, chí thành vô thượng bồ đề (惟願皇圖鞏固、帝道遐昌、文武祿增、興隆三寶、玉燭常調、士民樂業、檀那衍慶、不逢三災八難、至成無上菩提, cúi mong cơ đồ củng cố, đạo vua sáng ngời, văn võ lộc thêm, hưng thịnh Tam Bảo, đèn ngọc thường soi, muôn dân lạc nghiệp, thí chủ vui mừng, chẳng gặp Ba Tai Tám Nạn, chứng quả vô thượng bồ đề).”
có tên gọi khác như Lạp Nguyệt (臘月), Trừ Nguyệt (除月), Sửu Nguyệt (丑月), Nghiêm Nguyệt (嚴月), Băng Nguyệt (冰月), Dư Nguyệt (餘月), Cực Nguyệt (極月), Đồ Nguyệt (塗月), Địa Chánh Nguyệt (地正月), Nhị Dương Nguyệt (二陽月), Gia Bình Nguyệt (嘉平月), Tam Đông Nguyệt (三冬月), Mai Sơ Nguyệt (梅初月), Xuân Đãi Nguyệt (春待月), Quý Đông (季冬), Mộ Đông (暮冬), Vãn Đông (晚冬), Diểu Đông (杪冬), Cùng Đông (窮冬), Hoàng Đông (黃冬), Lạp Đông (臘冬), Tàn Đông (殘冬), Mạt Đông (末冬), Nghiêm Đông (嚴冬), Sư Tẩu (師走), Đại Lữ (大呂), Tinh Hồi Tiết (星回節), Ân Chánh (殷正), Thanh Tự (清祀), Đông Tố (冬素), Xú Nguyệt (醜月), Gia Bình (嘉平), Tuế Diểu (歲杪), Cửu Đông (九冬), Nghiêm Hàn (嚴寒), Tuế Nguyệt (歲月), Mạt Nguyệt (末月). Một số câu hay cho tháng Mười Hai như tiêu thương tiễn lạp (椒觴餞臘, chén rượu tiêu tiễn cuối năm), mai tín truyền Xuân (梅信傳春, tin cây Mai truyền mùa Xuân đến), cẩm diên thủ tuế (錦筵守歲, tiệc gấm đón năm mới), họa các nghênh Xuân (畫閣迎春, gác vẽ tranh hoa lệ đón Xuân), Mai truyền Xuân ý (梅傳春意, cành Mai truyền ý Xuân), tuyết triệu phong niên (雪兆豐年, tuyết có điềm cho biết năm mới phong phú), khúc tấu Lương Viên (曲奏梁園, tấu khúc Lương Viên), Tây sơn tuyết tễ (西山雪霽, núi Tây tuyết tan), Đông các Mai hương (東閣梅香, gác Đông thơm hoa Mai), hàn tùy lạp khứ (寒隨臘去, lạnh theo cuối năm đi), noãn trục Xuân lai (暖逐春來, hơi ấm cùng mùa Xuân đến), Mai ngạc truyền Xuân (梅萼傳春, đài hoa Mai truyền sắc Xuân), tuế trừ kim tịch (歲除今夕, năm hết đêm nay), Xuân nhập tân niên (春入新年, Xuân vào năm mới), pháo thôi tàn lạp (炮催殘臘, pháo thúc giục cuối năm còn sót), Mai báo tảo Xuân (梅報早春, Mai báo Xuân sớm), nhất niên tương tận (一年將盡, một năm sắp hết), tứ quý vân chung (四季雲終, bốn mùa chấm dứt). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như tinh hồi nguyệt triển (星回月展, sao lùi trăng hiện), phong thảm vân sầu (風慘雲愁, gió thảm mây buồn), diêm khuynh trường lệ (簷傾長淚, mái nghiêng ngấn lệ), thủy kết đôi băng (水結堆冰, nước kết băng trôi). Một số từ dùng cho tháng Mười Hai nhuận như nhuận dĩ thành tuế (潤以成歲, nhuận đã thành năm), hàn bách chu niên (寒迫周年, lạnh đuổi theo trọn năm).
(院號, Ingō):
(1) Là xưng hiệu của Thái Thượng Hoàng. Vào năm 823 (Hoằng Nhân [弘仁] 14), sau khi Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) nhượng vị, lần đầu tiên ông lấy nơi mình ở mà đặt tên thành Tha Nga Viện (嵯峨院). Trường hợp hai vị Thiên Hoàng Lãnh Tuyền (冷泉, Reizei, tại vị 967-969) và Viên Dung (圓融, Enyū, tại vị 969-984) trong lúc sinh tiền cũng đặt cho mình Viện Hiệu là Lãnh Tuyền Viện (冷泉院) và Châu Tước Viện (朱雀院).
(2) Là truy hiện của Thiên Hoàng. Từ thời Lãnh Tuyền Thiên Hoàng trở đi, sau khi Thiên Hoàng nhường ngôi vị thì thường dùng Viện Hiệu theo tên gọi nơi mình trú ngụ làm truy hiệu của vị Thiên Hoàng đó. Hơn nữa, từ thời Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng (後一條天皇, Goichijō Tennō, tại vị 1016-1036) trở về sau, cũng có thông lệ ban Viện Hiệu cho các Thiên Hoàng đang tại vị mà qua đời.
(3) Là xưng hiệu của Nữ Viện. Trường hợp này được khởi đầu từ thân mẫu của Nhất Điều Thiên Hoàng (一條天皇, Ichijō Tennō, tại vị 986-1011) là Hoàng Thái Hậu Đằng Nguyên Thuyên Tử (藤原詮子, Fujiwara-no-Senshi), được ban cho Viện Hiệu là Đông Tam Điều Viện (東三條院) vào năm 991 (Chánh Lịch [正曆] 2). Tiếp theo, sau thời Thượng Đông Môn Viện (上東門院, tức bà Đằng Nguyên ảnh Tử [藤原彰子, Fujiwara-no-Shōshi]), thường phần nhiều lấy mệnh danh theo môn hiệu Cung Thành (宮城, Miyagi) mà thôi. Còn ở Tiền Đông Cung (前東宮) thì chỉ có một trường hợp duy nhất được ban cho Viện Hiệu là Tiểu Nhất Điều Viện (小一條院), tức Đông Cung Hoàng Tử Đôn Minh Thân Vương (敦明親王, Atsuakira Shinnō), con của Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng.
(4) Là xưng hiệu của Pháp Danh, Giới Danh của những vị quan Nhiếp Chính, Tướng Quân. Tỷ dụ như trường hợp Pháp Hưng Viện (法興院) của quan Nhiếp Chính Đằng Nguyên Kiêm Gia (藤原兼家, Fujiwara-no-Kaneie); hay Đẳng Trì Viện (等持院) của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), v.v. Đây là tên gọi của các ngôi tự viện trong lúc sinh tiền họ đã từng góp công rất lớn trong việc kiến lập, tu tạo. Sau này, dù chẳng liên quan đến việc góp công kiến lập chùa chiền gì cả, hàng thứ dân bình thường cũng bắt đầu thêm chữ Viện vào nơi giới danh của họ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.49 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập