Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Khôn »»
(s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿冕樓馱): còn gọi là A Na Luật (阿那律), A Nan Luật (阿難律), A Lâu Đà (阿樓陀), hay A Ni Luật Đà (阿尼律陀), A Nê Lô Đậu (阿泥盧豆); ý dịch là Vô Diệt (無滅), Vô Tham (無貪), Vô Chướng (無障), Như Ý (如意), Thiện Ý (善意), Bất Tranh Hữu Vô (不爭有無); là người em họ của Đức Phật, một trong các vị đại đệ tử của Phật. Về xuất xứ tên Vô Tham của Tôn Giả, do đời trước xa xưa đói khát, ông thường lấy thức ăn của mình cúng dường cho một vị Bích Chi Phật (辟支佛), do đó, 7 đời sanh lên cõi trời đều làm Thiên Vương; 7 đời sanh vào cõi người đều làm vua, đời đời về sau mọi cầu mong đều được như ý, và trong 91 kiếp không chịu nỗi khổ nghèo cùng, khốn khổ. Về thân thế của Tôn Giả, Khởi Thế Kinh (起世經) quyển 10, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 2, v.v., cho biết rằng Tôn Giả là con của Hộc Phạn Vương (斛飯王). Tuy nhiên, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經) quyển 11, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 3 lại cho rằng Tôn Giả là con Cam Lồ Phạn Vương (甘露飯王). Sau khi thành đạo, đức Phật trở về thăm cố hương, lúc đó A Na Luật cùng với A Nan (阿難), Nan Đà (難陀), Ưu Ba Ly (優波離), v.v., xuất gia làm đệ tử đức Phật. Tôn Giả cũng giống như A Nan và rất nhiều người trong giòng họ xuất gia theo Phật. Tôn Giả có tật vừa nghe thuyết pháp vừa ngủ gục nên một lần kia bị Đức Phật quở mắng, Ngài phát thệ nguyện từ đó trở đi, tuyệt đối không ngủ nghỉ, đến nỗi, về sau Tôn Giả bị mù cả hai mắt. Tuy nhiên, do kết quả của sự tinh tấn tu hành như vậy, Tôn Giả đã chứng được Thiên Nhãn. Tôn Giả thông cả Bát Đại Niệm (八大念, tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân) và Tứ Niệm Xứ (四念處, bốn phép Thiền Quán). Tôn Giả được liệt vào 10 vị đại đệ tử và được xem là người có Thiên Nhãn Đệ Nhất. Khi Đức Phật nhập diệt thì Tôn Giả đã cùng với A Nan và các đệ tử khác hầu cận một bên.
(八卦): là khái niệm triết học cơ bản của Trung Quốc cổ đại. Nguyên lai có hai khái niệm khác nhau:
(1) Khái niệm gọi là “Vô Cực sanh Hữu Cực, Hữu Cực thị Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng diễn Bát Quái, bát bát lục thập tứ quái (無極生有極、有極是太極、太極生兩儀、兩儀生四象、四象演八卦、八八六十四卦, Vô Cực sanh ra Hữu Cực, Hữu Cực là Thái Cực, Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi [tức âm và dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [tức Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm], Tứ Tượng diễn thành Bát Quái, tám tám sáu mươi bốn quẻ).” Đây được gọi là Phục Hy Bát Quái (伏羲八卦) hay còn gọi là Tiên Thiên Bát Quái (先天八卦).
(2) Là học thuyết càn Khôn của Chu Văn Vương (周文王). Ông cho rằng trước có trời đất, trời đất giao nhau sinh ra vạn vật; Thiên là Càn (乾), Địa là Khôn (坤); còn lại 6 quẻ kia là các con của nhà vua. Quẻ Chấn (震) là con trai đầu, Khảm (坎) là con trai giữa, Cấn (艮) là con trai út, Tốn (巽) là con gái đầu, Ly (離) là con gái giữa, Đoài (兌) là con gái út. Đây được gọi là Văn Vương Bát Quái (文王八卦) hay Hậu Thiên Bát Quái (後天八卦). Thông thường phù hiệu Bát Quái được kết hợp với Thái Cực Đồ (太極圖), đại diện cho chân lý chung cực mang tính tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc—Đạo (道). Bát Quái được hình thành do ba vạch, thể hiện ý tượng theo thứ tự: tên quẻ, tự nhiên, tánh tình, gia đình, thân thể, phương vị. Càn (乾, ☰, Trời, khỏe mạnh, cha, đầu, Tây Bắc); Đoài (兌, ☱, đầm nước, vui mừng, thiếu nữ, Tây); Ly (離, ☲, lửa, tươi đẹp, gái giữa, miệng, Nam); Chấn (震, ☳, sấm sét, cử động, trưởng nam, chân, Đông); Tốn (巽, ☴, gió, đi vào, trưởng nữ, bắp đùi, Đông Nam); Khảm (坎, ☵, nước, vùi lấp, trai giữa, lỗ tai, Bắc); Cấn (艮, ☶, núi, dừng lại, thiếu nam, tay, Đông Bắc); Khôn (坤, ☷, đất, thuận hòa, mẹ, bụng, Tây Nam). Từ hình tượng phù hiệu của các quẻ như trên, Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống đã đặt ra bài ca cho các em nhỏ dễ nhớ: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phú oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn (乾三連、坤六斷、震仰盂、艮覆碗、離中虛、坎中滿、兌上缺、巽下斷, quẻ Càn ba vạch nối liền, quẻ Khôn ba vạch đứt thành sáu đoạn, quẻ Chấn có hai vạch trên đứt đoạn, quẻ Cấn có hai vạch dưới đứt đoạn, quẻ Ly có vạch giữa đứt đoạn, quẻ Khảm có vạch giữa liền nhau, quẻ Đoài có vạch trên đứt đoạn, quẻ Tốn có vạch dưới đứt đoạn).”
Tại Trung Quốc, đồ hình Bát Quái thường được treo trước cửa nhà để trấn trừ tà ma, quỷ mị, bên trong có cái kính, gọi là “Chiếu Yêu Kính (照妖鏡).” Nó có ảnh hưởng đến các phương diện bói toán, phong thủy, y học, võ thuật, âm nhạc, v.v. Tại Việt Nam, tư tưởng Bát Quái cũng có ảnh hưởng và phổ cập trong dân gian. Trong tác phẩm Chu Dịch Dịch Chú (周易譯注) của Chu Chấn Phủ (周振甫) nhận định rằng Bát Quái có mối quan hệ giống như 4 nguyên tố hình thành vạn vật của Ấn Độ cũng như Hy Lạp cổ đại là đất, nước, gió và lửa. Ông cho rằng Bát Quái có thể phân thành 4 loại: đất hòa với núi tương thông, nước hòa với sông hồ tương thông, gió hòa với trời tương thông, lửa hòa với sấm sét tương thông. Hơn nữa, Bát Quái cũng có mối quan hệ rất mật thiết với Ngũ Hành (五行) của truyền thống Trung Quốc: Càn là trời, thuộc về Kim; Đoài là sông hồ, thuộc về Kim; Ly là lửa, thuộc về Hỏa; Chấn là sấm sét, thuộc về Mộc; Tốn là gió, thuộc về Mộc; Khảm là nước, thuộc về Thủy; Cấn là núi, thuộc về Thổ; Khôn là đất, thuộc về Thổ. Về mối quan hệ với Cửu Cung (九宮), Cửu Cung là 9 phương vị được quy định trong Lạc Thư (洛書). Nhìn chung, người ta thường lấy hậu thiên bát quái đặt vào phương vị trong Lạc Thư, hình thành nên cái gọi là Cửu Cung Bát Quái (九宮八卦). Tại Đài Loan rất thịnh hành thuyết Bái Quái này, như dưới thời nhà Thanh có xuất hiện Bát Quái Hội (八卦會), lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và hiện tại vẫn còn địa danh Bát Quái Sơn (八卦山). Trong dân gian Việt Nam cũng rất thịnh hành một loại Bát Quái Đồ gọi là Bát Quái Đồ Trừ Tà, hay thường gọi là Bùa Bát Quái, người Tàu vẽ sẵn, bán ở các tiệm kiếng. Loại Bát Quái Đồ Trừ Tà này gồm các quẻ giống hệt Bát Quái Tiên Thiên, nhưng sắp thứ tự các quẻ theo chiều quay ngược lại. Trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 87 có đoạn liên quan đến Cửu Cung Bát Quái: “Tống Giang tùy tức điều khiển quân mã xuất thành, ly thành thập lí, địa danh Phương Sơn, địa thế bình thản, kháo sơn bàng thủy, bài hạ Cửu Cung Bái Quái trận thế, đẳng hầu gian, chỉ kiến Liêu binh phân cố tam đội nhi lai (宋江隨卽調遣軍馬出城、離城十裏、地名方山、地勢平坦、靠山傍水、排下九宮八卦陣勢、等候間、只見遼兵分做三隊而來, Tống Giang vâng lời liền điều khiển quân mã ra khỏi thành, rời thành được mười dặm, có vùng đất tên Phương Sơn, địa thế bằng phẳng, nương núi tựa sông, bèn bày trận thế Cửu Cung Bái Quái; chờ đợi một lúc, chỉ thấy quân Liêu chia thành ba đội tiến đến).”
(匾額): là tấm bảng (thường bằng gỗ) có khắc chữ trên đó, được treo ngay phía trước hướng chính diện của ngôi điện, lầu gác, cung đình, v.v.; dùng để giải thích về danh xưng của kiến trúc ấy. Biển ngạch này xuất hiện ở Trung Quốc cũng như các quốc gia châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v. Loại biển ngạch do đích thân nhà vua ghi bút được gọi là Long Biển (龍匾), phối hợp với hoa văn điêu khắc hình rồng. Về số lượng chữ, thông thường phổ cập nhất là 3 chữ, như Thái Hòa Điện (太和殿), Thích Ca Tháp (釋迦塔). Bên cạnh đó, cũng có loại 2 chữ như Tích Ung (辟雍); hoặc loại 6 chữ như tấm biển Hiển Linh Chiêu Tế Thánh Mẫu (顯靈昭濟聖母) trong ngôi Điện Thánh Mẫu thời nhà Tống. Đặc biệt, dưới thời nhà Thanh (清, 1616-1911), hầu hết những tấm biển ngạch đều có kèm theo dòng chữ Mãn Thanh, viết dọc xuống; như Dưỡng Tâm Điện (養心殿), Khôn Ninh Cung (坤寧宮), v.v. Như trong Lục Đạo Tập (六道集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1645) quyển 5 có đoạn: “Trị mộ, lưỡng sứ Giai Cầu túc miếu trung, kim biển ngạch đề viết 'Sắc Phong Long Mẫu Miếu' (値暮、兩使偕球宿廟中、金匾額題曰、敕封龍母廟, đến tối, hai sứ Giai và Cầu nghỉ lại trong miếu, tấm biển ngạch vàng đề dòng chữ 'Sắc Phong Long Mẫu Miếu').” Hay trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 7 lại có đoạn rằng: “Hoặc khất thi văn, hoặc cầu biển ngạch, hoặc giả quyền thế, hoặc sách tiền tài, chung nhật bôn ba, bất tư tĩnh thủ, giai danh ngoại vụ (或乞詩文、或求匾額、或假權勢、或索錢財、終日奔波、不思靜守、皆名外騖, hoặc xin thơ văn, hoặc cầu biển ngạch, hoặc giả quyền thế, hoặc đòi tiền tài, suốt ngày bôn ba, chẳng nhìn lại mình, đều gọi là chạy quanh bên ngoài).”
(貝典): kinh điển, thư tịch viết trên lá bối, còn gọi là Bối Diệp Kinh (貝葉經). Như trong Như Tịnh Hòa Thượng Ngữ Lục (如淨和尚語錄, Taishō No. 2002A) quyển Hạ của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨, 1163-1228) có câu: “Chí tai Khôn Nguyên đản Phật Quốc Ma Da chi thoại, đại hỷ bối điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu chi xuân; chánh đương nhậm ma thả đạo, dĩ hà vi nghiệm, Quan Âm anh lạc diệu trang nghiêm, Thế Chí hoa man trường tự tại (至哉坤元誕佛國摩耶之瑞、大矣貝典祝仙桃王母之春、正當恁麼且道、以何爲驗、觀音瓔珞妙莊嚴、勢至花鬘長自在, tuyệt thay càn Khôn mừng Phật Quốc Ma Da điềm lành, lớn thay kinh điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu mùa xuân; thế nào mới đúng là đạo, lấy gì chứng nghiệm, Quan Âm anh lạc mầu trang nghiêm, Thế Chí tràng hoa luôn tự tại).” Hay như trong Tiên Giác Tông Thừa (先覺宗乘, CBETA No. 1620) quyển 2, phần Đường Tướng Quốc Bùi Hưu (唐相國裴休) có đoạn: “Thường trai giới, bình thị dục, hương lô bối điển, bất ly tả hữu, vịnh ca tán bối, dĩ vi pháp lạc (常齋戒、屛嗜慾、香爐貝典、不離左右、詠歌贊唄、以爲法樂, thường trai giới, giảm ít ham muốn, xông hương đọc kinh, chẳng rời phải trái, vịnh ca tán tụng, lấy làm pháp lạc).” Hoặc trong Biện Ngụy Lục (辯僞錄, Taishō No. 2116) quyển 4 cũng có đoạn rằng: “Mã Minh Long Thọ toản kỳ huy âm, Vô Trước Thiên Thân bá kỳ di mỹ, phi anh thanh ư tứ hải, đằng mậu thật ư bát phương; Pháp Lan Tăng Hội, tê bối điển nhi Đông truyền; Huệ Viễn Đạo Lâm, xướng huyền phong ư Nam quốc; Phật Đồ Trừng chưởng chiếu thiên lý, A Mục Khư tọa nục quần hung; Vệ Đạo An chú giáo khoa kinh, Tùy Trí Giả phân tông lập phái (馬鳴龍樹纂其徽音、無著天親播其遺美、蜚英聲於四海、騰茂實於八方、法蘭僧會、齎貝典而東傳、慧遠道林、唱玄風於南國、佛圖澄掌照千里、阿目佉坐衄群兇、衛道安注敎科經、隋智者分宗立典, Mã Minh và Long Thọ để lại tiếng thơm, Vô Trước và Thế Thân rộng truyền tốt đẹp; vang tiếng tăm khắp bốn biển, gieo hạt giống nơi tám phương; Trúc Pháp Lan và Khương Tăng Hội, mang kinh điển truyền về phương Đông; Huệ Viễn và Đạo Lâm, cao xướng tông phong nơi nước Nam; Phật Đồ Trừng lãnh đạo sáng khắp ngàn dặm, A Mục Khư ngồi đánh bại quần ma; Thích Đạo An nhà Vệ chú giải khoa kinh, Thiên Thai Trí Khải nhà Tùy phân tông lập phái).”
(乾元): có mấy nghĩa. (1) Hình dung đức lớn của Thiên tử. Như trong Dịch Kinh (易經), quẻ thứ nhất Càn Vi Thiên (乾爲天) có lời Thoán (彖) rằng: “Đại tai Càn Nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thống thiên (大哉乾元、萬物資始、乃統天, lớn thay Càn Nguyên, muôn vật nhờ nó mà bắt đầu nảy nở, nên cai quản cả trời).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Càn thị quái danh, Nguyên thị Càn đức chi thủ (乾是卦名、元是乾德之首, Càn là tên quẻ, Nguyên là đứng đầu trong các đức của Càn).” Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống cho biết thêm rằng: “Càn Nguyên, thiên đức chi đại thỉ (乾元、天德之大始, Càn Nguyên là khởi đầu cho đức lớn của trời).” Từ đó trở về sau, Càn Nguyên được dùng để hình dung cho đức độ to lớn của Thiên tử. (2) Chỉ cho Trời. Như trong Trần Thư (陳書), chương Cao Tổ Kỷ Thượng (高祖紀上) có câu: “Đại tai Càn Nguyên, tư nhật nguyệt dĩ trinh quán; chí tai Khôn nguyên, bằng sơn xuyên dĩ tải vật (大哉乾元、資日月以貞觀、至哉坤元、憑山川以載物, lớn thay Càn Nguyên, lấy trinh quán [đạo lý chánh đại] để giúp đỡ trời trăng; lấy việc nâng đỡ muôn vật để nương tựa núi sông).” Hay trong bài Thái Giai Lục Phù Phú (泰階六符賦) của thi nhân Tiền Khởi (錢起, 710-782) nhà Đường cũng có câu: “Ký xuất một dĩ hậu quân đức, hựu huỳnh hoàng dĩ lệ Càn Nguyên (旣出沒以候君德、又熒煌以麗乾元, từng ẩn hiện để trông đợi đức của vua, lại tỏa sáng để làm đẹp Càn Nguyên [Trời]).” (3) Chỉ cho đế vương. Như trong Tấn Thư (晉書), phần Hiếu Võ Định Hoàng Hậu (孝武定皇后) của Hậu Kỷ Truyện Hạ (后妃傳下) có câu: “Đức phối Càn Nguyên, cung thừa tông miếu, huy âm lục cung, mẫu nghi thiên hạ (德配乾元、恭承宗廟、徽音六宮、母儀天下, đức hợp đế vương, nối dõi tông miếu, tiếng tốt sáu cung, mẫu nghi thiên hạ).” Hay trong bài thơ Môn Nhân Trần Thiên Thu Đẳng Sơ Lai Thảo Đường Vấn Học Thị Chư Tử (門人陳千秋等初來草堂問學示諸子) của Khang Hữu Vi (康有爲, 1858-1927) cũng có câu: “Quần long vô thủ thùy tri cát, tự hữu càn nguyên đại thống trường (群龍無首誰知吉、自有乾元大統長, nhóm rồng đầu chẳng ai biết tốt, tự có đế vương thống lãnh lâu).” (4) Chỉ cho nguyên khí, đại khí, hơi thở. Như trong bài thơ Cô Trúc Quân Chi Nhị Tử (孤竹君之二子) của Quách Mạt Nhược (郭沫若, 1892-1978) có câu: “Ngã phủ ngưỡng tại thiên địa chi gian hô hấp càn nguyên, tạo hóa đích tinh thần tại hung trung phún dũng (我俯仰在天地之間呼吸乾元,造化的精神在我胸中噴湧, ta cúi xuống ngẩng lên giữa trời đất hô hấp nguyên khí, tinh thần của tạo hóa ở trong lồng ngực tuôn trào ra).”
(周倉將軍): vị phó tướng của Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Truyền thuyết cho rằng ông người vùng Bình Lục (平陸), nhà Đông Hán. Khi Quan Thánh Đế Quân trấn thủ Kinh Châu (荆州), ông được cử trấn thủ Mạch Thành (麥城); lúc bấy giờ quân Đông Ngô tấn công Kinh Châu, Quan Thánh Đế Quân bị bại trận phải chạy đến Mạch Thành lánh nạn, nhưng giữa đường bị giết chết. Châu Thương đứng trên thành nhìn xuống thấy đầu Quan Thánh, bèn tự vẫn chết theo. Ông được thờ trong Miếu Quan Thánh cùng với Quan Bình Thái Tử (關平太子), hình tượng đứng, mặt đen, râu ngắn, mắt sáng quắt, tròn xoe, thân mang áo giáp, tay trái cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao (青龍偃月刀), khuôn mặt thể hiện thần sắc uy lẫm. Như trong Đào Viên Minh Thánh Kinh (桃園明聖經) của Đạo Giáo có xưng tán rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Phù Thiên Dũng Tướng, Sát Địa Mãnh Thần, thiết tu ngân xỉ, hắc diện chu thần, tinh trung đặc lập, kính tiết kinh nhân, khể tra thiện ác, củ sát phàm trần, minh minh hiển hách, xứ xứ du tuần, sừ gian sừ ác, cứu thế ưu dân, trung thần nghĩa sĩ, phù bỉ siêu thần, quai nhi nghịch tử, bất thắng nỗ sân, duy trì thế giáo, khuông chánh nhân luân, trảm yêu hộ pháp, đại đạo thường tồn, tối linh chơn tể, tối hiển thần quân, hộ triều hộ quốc, Cương Trực Trung Dũng Đại Thiên Tôn (志心皈命禮、扶天勇將、察地猛神、鐵鬚銀齒、黑面朱唇、精忠特立、勁節驚人、稽查善惡、糾察凡塵、冥冥顯赫、處處遊巡、鋤奸鋤惡、救世憂民、忠臣義士、扶彼超伸、乖兒逆子、不勝怒瞋、維持世敎、匡正人倫、斬妖護法、大道常存、最靈真宰、最顯神君、護朝護國、剛直忠勇大天尊, Một lòng quy mạng lễ: Phò Trời Dũng Tướng, Xét Đất Mãnh Thần, râu sắt răng bạc, mặt đen môi hồng, trung nghĩa hiên ngang, tiết vững kinh người, kiểm tra thiện ác, xem xét phàm trần, mờ mờ hiển hách, chốn chốn tuần du, trừng gian phạt ác, cứu thế độ dân, trung thần nghĩa sĩ, giúp người việc phải, con cái trái nghịch, giận dữ Khôn xiết, duy trì đạo đời, chỉnh đốn nhân luân, chém yêu hộ pháp, đạo lớn thường tồn, tột linh chơn tể, tột hiển thần quân, giúp vua giúp nước, Cương Trực Trung Dũng Đại Thiên Tôn).”
(鼓盆): đánh vào cái bồn rửa mặt, tỷ dụ niềm đau mất vợ. Từ này phát xuất từ trong Trang Tử (莊子), phần Chí Lạc (至樂): “Trang Tử thê tử, Huệ Tử điếu chi; Trang Tử tắc phương ky cứ cổ bồn nhi ca; Huệ Tử viết: 'Dữ nhân cư, trưởng tử, lão, thân tử, bất khốc diệc túc hỉ, hựu cổ bồn nhi ca, bất diệc thậm hồ ?' (莊子妻死、惠子吊之、莊子則方箕踞鼓盆而歌、惠子曰:與人居、長子、老、身死、不哭亦足矣、又鼓盆而歌、不亦甚乎, vợ của Trang Tử mất, Huệ tử đến đi điếu; Trang Tử bèn ngồi xoạc chân ra đánh vào chậu mà hát; Huệ Tử nói: 'Ông cùng bà chung sống, nuôi con Khôn lớn, rồi già và chết đi, không khóc là đủ rồi; nhưng lại đánh vào chậu mà hát, không quá đáng lắm sao ?').” Do đó, từ “cổ bồn”, “cổ bồn nhi ca (鼓盆而歌)”, “cổ bồn ca (鼓盆歌)”, “cổ bồn chi thích (鼓盆之戚)”, “cổ bồn chi thán (鼓盆之嘆)”, v.v., đều được dùng để ví cho người vợ qua đời, để tang vợ cũng như nỗi đau mất vợ.
(孤魂): những vong hồn cô quạnh, sống lây lất đây đó, không nơi nương tựa, không ai thờ tự. Trong Đạo Giáo cũng như Phật Giáo thường tiến hành nghi thức cúng cho các âm linh cô hồn để cho họ có thức ăn uống và nhờ nghe câu kinh, tiếng kệ mà được siêu độ, thoát khỏi cảnh khổ sống không nơi nương tựa như vậy. Theo Linh Bảo Lãnh Giáo Tế Độ Kim Thư (靈寶領敎濟度金書) của Đạo Giáo, nghi thức này được gọi là Ngọc Sơn Tịnh Cúng (玉山淨供), Cam Lồ Tịnh Cúng (甘露淨供), Tế Luyện (祭煉), hay tên gọi phổ biến nhất là Phóng Diệm Khẩu (放焰口). Trong Lịch Thế Chơn Tiên Thể Đạo Thông Giám (歷世眞仙體道通鑒) quyển 23 có dạy rằng: “Mỗi ư Tam Nguyên Bát Tiết, cát nhật lương tiêu, phổ triệu thập phương chư đại Địa Ngục, cùng hồn trệ phách, lai nghệ đàn tiền, câu thọ Tế Luyện, kỳ thừa phù lục, các toại siêu sanh (毎於三元八節、吉日良宵、普召十方諸大地獄、窮魂滞魄、來詣壇前、倶受祭煉、祇承符籙、各逐超生, Vào mỗi dịp Tam Nguyên, tám tiết, ngày tốt đêm lành, mời khắp mười phương các địa ngục lớn, hồn cùng đường, phách lang thang, đến tập trung trước đàn, đều thọ lễ Tế Luyện, mong thừa phù phép, thảy được siêu sanh).” Trong Phật Giáo, lễ nghi này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống tâm linh của người Phật tử. Tùy theo nghi lễ tiến hành đơn giản hay long trọng, tên gọi có khác nhau như Cúng Cháo, Cúng Cô Hồn, Cúng Thí Thực, Chẩn Tế Cô Hồn, Phóng Diệm Khẩu, Thí Ngạ Quỷ, v.v. Trong bài Chúng Sanh Thập Loại Tế Văn (眾生十類祭文, Văn Tế Mười Loại Chúng Sanh) của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có đoạn rằng: “Trong trường dạ tối tăm trời đất, có Khôn thiêng phảng phất u minh, thương thay thập loại chúng sinh, hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người, hương lửa đã không nơi nương tựa, hồn mồ côi lần lữa đêm đen, còn chi ai khá ai hèn, còn chi mà nói kẻ hiền người ngu…”
(古心如磬, Koshin Nyokei, 1541-1615): vị tăng Luật Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Minh, tổ của Phái Cổ Lâm (古林派), xuất thân Lật Thủy (溧水), Giang Tô (江蘇), họ Dương (楊), tự là Cổ Tâm (古心). Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã mất cha, được mẹ nuôi Khôn lớn. Vào năm thứ 31 (1552) niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), mẹ lại qua đời, ông cảm nhận được lý vô thường của cuộc đời, nên đến năm thứ 10 (1582, có thuyết cho là trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Tĩnh) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông theo xuất gia với Tố An (素安) ở Thê Hà Tự (棲霞寺), Nhiếp Sơn (攝山). Sau nhân đọc Phẩm Trú Xứ Bồ Tát trong Kinh Hoa Nghiêm, ông thệ nguyện thọ giới với Bồ Tát Văn Thù (文殊), bèn đến Ngũ Đài Sơn (五臺山), suốt đêm thành tâm cầu nguyện. Cho đến một hôm, trong khi hoảng hốt, ông được một lão bà ban cho y Tăng Già Lê (僧伽黎), nhìn thấy ra là Bồ Tát, liền đốn ngộ pháp môn tâm địa của 5 thiên, 3 tụ, cảm thấy luật của Đại Thừa và Tiểu Thừa đều từ trong ngực lưu xuất ra. Giữa đường khi trở về cố hương, ông đi qua Nam Kinh (南京), tình cờ gặp lúc ngôi tháp ở Trường Can Tự (長干寺, tức Báo Ân Tự [報恩寺]) đang được tu sửa, ông lưu trú tại đây và được gọi là Ưu Ba Ly (優波離) tái lai. Ông từng sống qua các chùa như Linh Cốc (靈谷), Thê Hà (棲霞), Cam Lồ (甘露), v.v.; khai đàn truyền giới hơn 30 nơi, và có khoảng hơn vạn người theo thọ giáo với ông. Vào năm thứ 41 (1613) niên hiệu Vạn Lịch, vua Thần Tông ban cho ông Tử Y, bình bát, tích trượng với hiệu là Huệ Vân Luật Sư (慧雲律師), và mời ông thiết lập Đại Hội Long Hoa (龍華大會) tại Thánh Quang Vĩnh Minh Tự (聖光永明寺) trên Ngũ Đài Sơn. Trước tác của ông có Kinh Luật Giới Tướng Bố Tát Quỹ Nghi (經律戒相布薩軌儀) 1 quyển. Ông thị tịch vào tháng 11 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, hưởng thọ 75 tuổi. Pháp hệ của ông được gọi là Phái Cổ Lâm.
(閻魔十殿): còn gọi là Diêm Vương Thập Điện (閻王十殿), Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王), Thập Điện Minh Vương (十殿冥王), Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Nguyên lai chỉ có một vị Diêm Vương, nhưng sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, tín ngưỡng về Diêm Vương có ảnh hưởng to lớn đối với hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở đây, trải qua nhiều biến hóa, Hán hóa sắc thái và cuối cùng quan niệm này trở thành Thập Điện Diêm Vương. Kinh điển ban đầu của Phật Giáo không có đề cập đến Thập Điện Diêm Vương. Tỷ dụ như theo Cấm Độ Tam Muội Kinh (禁度三昧經), Diêm Vương chỉ quản hạ 5 vị quan, gồm: Tiên Quan (鮮官) chuyên ngăn cấm sát sanh, Thủy Quan (水官) chuyên ngăn cấm trộm cắp, Thiết Quan (鐵官) chuyên ngăn cấm tà dâm, Thổ Quan (土官) chuyên ngăn cấm nói lời hai lưỡi và Thiên Quan (天官) cấm việc uống rượu. Hơn nữa, trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 33, bộ sử truyện nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc, có ghi rằng: “Trên đời truyền tụng rằng Hòa Thượng Đạo Minh (道明和尚) nhà Đường thần du xuống Địa Phủ, thấy có 15 hạng người thuộc hạ (của Diêm Vương), từ đó lưu truyền trên thế gian.” Như vậy, thuộc hạ của Diêm Vương đã biến thành 15 người. Danh hiệu của Thập Điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên trong Dự Tu Thập Ngũ Sanh Thất Kinh (預修十五生七經), Diêm Vương Kinh (閻王經), v.v. Căn cứ Ngọc Lịch Bảo Giám (玉曆寶鑑), 10 ngôi điện do Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寳十方救苦天尊) hóa thành, được 10 vị Diêm Ma (s: Yama, 閻魔) cai quản, gồm:
(1) Tần Quảng Vương (秦廣王, Qín-guàng, hay Tần Quảng Vương Tương [秦廣王蔣]), còn gọi là Thái Tố Diệu Quảng Chơn Quân (泰素妙廣眞君), cai quản ngôi điện thứ nhất, do Đông Phương Thiên Tôn (東方天尊) hóa thành, sống ở Huyền Minh Cung (玄冥宮), chịu trách nhiệm trông coi về sanh tử của của con người và quản lý toàn bộ việc cát hung của cõi u minh, ngày sinh của ông là mồng 2 tháng 2 âm lịch; quỷ Phán Quan của cõi này sống ngoài tảng đá Ốc Tiêu (沃焦[礁]) trong biển lớn; hướng chánh Tây của điện này là con đường tối om dẫn đến Huỳnh Tuyền (黃泉); nếu người làm ác thì sau khi chết sẽ bị nhập vào đài cao bên phải của điện này tên là Nghiệt Kính Đài (孽鏡台); đài cao 1 trượng, treo hướng về phía Đông, phía trên có 7 chữ lớn “Nghiệt Kính Đài tiền vô hảo nhân (孽鏡台前無好人, Trước Nghiệt Kính Đài không người tốt)”; sau khi được chiếu soi ở Nghiệt Kính Đài xong, tội nhân sẽ được phê giải xuống ngôi điện thứ hai để chịu ngục hình thọ khổ tùy theo tội nặng hay nhẹ.
(2) Sở Giang Vương (楚江王, Chŭ-jiāng, hay Sở Giang Vương Lệ [楚江王厲]), còn gọi là Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), cai quản ngôi điện thứ hai, do Nam Phương Thiên Tôn (南方天尊) hóa thành, sống tại Phổ Minh Cung (普明宮) dưới đáy biển sâu, chịu trách nhiệm trông coi Hoạt Đại Địa Ngục (活大地獄, địa ngục sống lâu), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, địa ngục băng lạnh) và Bác Y Đình (剥衣亭, nhà cởi áo) và 16 địa ngục bên dưới như Hắc Vân Sa (黑雲沙), Phẩn Niệu Nê (糞尿泥), Ngũ Xoa (五叉), Cơ Ngạ (飢餓), Khát (渴), Nùng Huyết (膿血), Đồng Phủ (銅斧), Đa Đồng Phủ (多銅斧), Thiết Khải (鐵鎧), U Lượng (幽量), Kê (雞), Hôi Hà (灰河), Chước Tiệt (斫截), Kiếm Diệp (劍葉), Hồ Lang (狐狼), Hàn Băng (寒冰). Ngày sinh của ông là mồng 3 tháng 3 âm lịch.
(3) Tống Đế Vương (宋帝王, Sòng-dì, hay Tống Đế Vương [宋帝王餘]), còn gọi là Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), cai quản ngôi điện thứ ba, do Tây Phương Thiên Tôn (西方天尊) hóa thành, sống ở Trụ Tuyệt Cung (紂絕宮), chịu trách nhiệm trông coi Hắc Thằng Địa Ngục (s: Kālasūtra-naraka, 黒繩地獄, địa ngục có sợi dây thừng đen), những ai bị kiện tụng, không vâng lời các bậc trưởng thượng, không thương mạng dân, sĩ thứ thấy lợi mà quên nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ không thuận, từng thọ ân huệ mà phụ bạc, nô bộc phản gia chủ, hay phạm tội vượt ngục, trốn quân dịch, v.v., sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục này. Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 2 âm lịch;
(4) Ngũ Quan Vương (五官王, Wŭ-guān, hay Ngũ Quan Vương Lữ [五官王呂]), còn gọi là Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), cai quản ngôi điện thứ tư, do Bắc Phương Thiên Tôn (北方天尊) hóa thành, sống ở Thái Hòa Cung (太和宮), chịu trách nhiệm trông coi Hợp Đại Địa Ngục (s: Saṅgāta-naraka, 合大地獄, địa ngục hợp lại thành to lớn) và Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, địa ngục có hồ máu) cùng với 16 địa ngục nhỏ như Trì (池), Mâu Liên Trúc Thiêm (蝥鏈竹籤), Phí Thang Kiêu Thủ (沸湯澆手), Chưởng Bạn Lưu Dịch (掌畔流液), Đoạn Cân Dịch Cốt (斷筋剔骨), Yển Kiên Loát Bì (堰肩), Tỏa Phu (鎖膚), Tồn Phong (蹲峰), Thiết Y (鐵衣), Mộc Thạch Thổ Ngõa (木石土瓦), Kiếm Nhãn (劍眼), Phi Hôi Tắc Khẩu (飛灰塞口), Quán Dược (灌藥), Du Hoạt Điệt (油滑跌), Thích Chủy (剌嘴), Toái Thạch Mai Thân (碎石埋身). Những ai thường hay lừa dối sẽ bị đọa xuống địa ngục này; ngày sinh của ông là 18 tháng 2 âm lịch.
(5) Diêm Ma Vương (閻魔王, Yama-rāja, Yán-mó, còn gọi là Diêm La Vương [閻羅王], Diêm Ma Vương Thiên Tử Bao [閻魔王天子包]), còn gọi là Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖耀靈眞君), cai quản ngôi điện thứ năm, nguyên trước kia trông coi ngôi điện thứ nhất, nhưng vì đồng tình với tội nhân ở đây, nên bị chuyển xuống đây, do Đông Bắc Phương Thiên Tôn (東北方天尊) hóa thành, sống ở Củ Luân Cung (糾倫宮), chịu trách nhiệm trông coi Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Raurava-naraka, 叫喚地獄, địa ngục la hét) và 16 địa ngục nhỏ khác; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng giêng âm lịch.
(6) Biện Thành Vương (卞城王, Biàn-chéng, hay Biện Thành Vương Tất [卞城王畢]), còn gọi là Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寶肅昭成眞君), cai quản ngôi điện thứ sáu, do Đông Nam Phương Thiên Tôn (東南方天尊) hóa thành, sống ở Minh Thần Cung (明晨宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Mahāraurava-naraka, 大叫喚地獄, địa ngục la hét lớn) và Uổng Tử Thành (枉死城, thành chết oan uổng) cũng như 16 địa ngục nhỏ khác như Thường Quỵ Thiết Sa (常跪鐵砂), Thỉ Nê Tẩm Thân (屎泥浸身), Ma Tồi Lưu Huyết (磨摧流血), Kiềm Chủy (鉗嘴), Cát Thận Thử Giảo (割腎鼠咬), Cức Cương Hoàng Toản (棘綱蝗鑽), Đối Đảo Nhục Tương (碓搗肉漿), Liệt Bì Kỵ Lôi (裂皮曁擂), Hàm Hỏa Bế Hầu (銜火閉喉), Tang Hỏa Hồng (桑火烘), Phẩn Ô (糞污), Ngưu Điêu Mã Táo (牛雕馬躁), Phi Khiếu (緋竅), Đầu Thoát Xác (頭脫殼), Yêu Trảm (腰斬), Bác Bì Tuyên Thảo (剝皮揎草). Những ai đã từng chửi mắng trời và hướng về phương Bắc mà tiểu tiện sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 3 âm lịch.
(7) Thái Sơn Vương (泰山王, Tài-shān, hay Thái Sơn Vương Đổng [泰山王董]), còn gọi là Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), cai quản ngôi điện thứ bảy, do Tây Nam Phương Thiên Tôn (西南方天尊) hóa thành, sống ở Thần Hoa Cung (神華宮), chịu trách nhiệm trông coi Nhiệt Não Địa Ngục (s: Tapana-naraka, 熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng) và 16 địa ngục nhỏ khác như Tuất Tự Thôn (卹自吞), Liệt Hung (冽胸), Địch Thối Hỏa Bức (笛腿火逼), Quyền Kháng Phát (權抗發), Khuyển Giảo Hĩnh Cốt (犬咬脛骨), Úc Thống Khốc Cẩu (燠痛哭狗), Tắc Đảnh Khai Ngạch (則頂開額), Đảnh Thạch Tồn Thân (頂石蹲身), Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo (端鴇上下啄咬), Vụ Bì Trư Tha (務皮豬拖), Điếu Giáp Túc (吊甲足), Bạt Thiệt Xuyên Tai (拔舌穿腮), Trừu Tràng (抽膓), Loa Đạp Miêu Tước (騾踏貓嚼), Lạc Thủ Chỉ (烙手指), Du Phủ Cổn Phanh (油釜滾烹). Những ai chế thuốc từ xương người chết và xa lánh người thân sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là 27 tháng 3 âm lịch.
(8) Đô Thị Vương (都市王, Dōu-shì, hay Đô Chủ Vương Hoàng [都主王黃]), còn gọi là Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), cai quản ngôi điện thứ tám, do Thượng Phương Thiên Tôn (上方天尊) hóa thành, sống ở Bích Chơn Cung (碧眞宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục (s: Mahātapana-naraka, 大熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng lớn) và 16 địa ngục nhỏ như Xa Băng (車崩), Muộn Oa (悶鍋), Toái Quả (碎剮), Khổng Tiểu (孔小), Tiễn Chu (翦朱), Thường Thanh (常圊), Đoạn Chi (斷肢), Chích Tủy (炙髓), Ba Tràng (爬膓), Phần (焚), Khai Sanh (開瞠), Quả Hung (剮胸), Phá Đảnh Khiêu Xỉ (破頂撬齒), Cát (割), Cương Xoa (鋼叉). Ngày sinh của ông là mồng 1 tháng 4 âm lịch.
(9) Bình Đẳng Vương (平等王, Píng-dĕng, hay Đối Đẳng Vương Lục [對等王陸]), còn gọi là Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), cai quản ngôi điện thứ chín, do Tây Bắc Phương Thiên Tôn (西北方天尊) hóa thành, sống ở Thất Phi Cung (七非宮), chịu trách nhiệm trông coi A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄, tức Địa Ngục Vô Gián) và 16 địa ngục nhỏ khác như Sao Cốt Chước Thân (敲骨灼身), Trừu Cân Lôi Cốt (抽筋擂骨), Nha Thực Tâm Can (鴉食心肝), Cẩu Thực Tràng Phế (狗食膓肺), Thân Tiễn Nhiệt Du (身濺熱油), Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ (腦箍拔舌拔齒), Thủ Não Điền (取腦填), Chưng Đầu Quát Não (蒸頭刮腦), Dương Súc Thành Diêm (羊搐成鹽), Mộc Giáp Đảnh (木夾頂), Ma Tâm (磨心), Phí Thang Lâm Thân (沸湯淋身), Hoàng Phong (黃蜂), Hiết Câu (蠍鉤), Nghĩ Chú Ngao Đam (蟻蛀熬眈), Tử Xích Độc Xà Toản (紫赤毒蛇鑽). Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 4 âm lịch.
(10) Chuyển Luân Vương (轉輪王, Zhuàn-lún, hay Chuyển Luân Vương Tiết [轉輪王薛]), còn gọi là Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), cai quản ngôi điện thứ mười, do Hạ Phương Thiên Tôn (下方天尊) hóa thành, sống ở Túc Anh Cung (肅英宮); ngày sinh của ông là 17 tháng 4 âm lịch. Ông chuyên trông coi các hồn quỷ được áp giải đến từ các điện khác, phân biệt, quyết định tôi phước nặng nhẹ của tội nhân, phân phát đi khắc các bộ châu, tìm đất và loại để cho vong hồn đầu thai. Ông còn có nhiệm vụ xem xét việc thiện ác của tội nhân để thông tri cho cấp trên, thẩm định thọ mạng ngắn dài cũng như tội phước thay đổi của tội nhân. Quá trình khảo tra rất nghiêm mật, cuối cùng mới cho tội nhân cầu vàng, cầu ngọc, cầu đá, cầu gỗ hay Cầu Nại Hà (奈河橋, Nại Hà Kiều) và tống lên cho đầu thai vào 6 đường. Nếu như ở trên đời làm các việc thiện, khi sanh ra sẽ được trời người kính ngưỡng; sau khi chết đi cũng được quỷ thần cung kính; lúc ấy tự thân Chuyển Luân Vương cũng thân hành dẫn các sứ thần đến nghinh đón. Cho nên dân gian có câu rằng: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương (積善之家有餘慶、積不善之家有餘殃, Nhà tích lũy việc thiện thì có nhiều điều tốt đẹp, nhà không tích lũy việc thiện thì có nhiều tai ương).”
Từ cuối thời nhà Đường trở đi, tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương trở nên thịnh hành. Thông thường, trong Miếu Thành Hoàng ở các địa phương có thiết lập Diêm Vương Điện (閻王殿) để thờ Thập Điện Diêm Vương. Tại các tự viện Phật Giáo, hai bên phải trái của bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát cũng có thờ Thập Điện Diêm Vương. Tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương cũng được du nhập vào Việt Nam và vẫn còn lưu hành cho đến ngày hôm nay. Như trong các lòng văn sớ dâng cúng cầu siêu, thường có đề cập đến Minh Vương (冥王, tức Diêm Vương), Diêm Ma Thập Điện như: “Tư lâm Đại Tường chi trai tuần, chánh trị Khôn phủ đệ thập điện, Chuyển Luân Minh Vương án tiền trình quá (茲臨大祥之齋旬、正値坤府第十殿、轉輪冥王案前呈過, Nay gặp lúc tuần chay dịp Đại Tường, đúng vào điện thứ mười, xin trình trước án Chuyển Luân Minh Vương)”, hay “Cung phụng: Diện Nhiên Đại Sĩ, uy quang khắc đáo ư kim tiêu; Địa Tạng từ tôn, thần lực đại chương ư thử dạ; Diêm Ma Thập Điện, chiếu khai Thập Bát Địa Ngục chi môn; Tả Hữu Phán Quan, thiêu tận ức kiếp luân hồi chi tịch; tỷ Lục Đạo Tứ Sanh chi vi mạng, khô mộc phùng xuân; sử cửu huyền thất tổ chi sảng linh, đồng đăng giác ngạn (恭奉、面燃大士、威光刻到於今霄。地藏慈尊、神力大彰於此夜。閻魔十殿、照開十八地獄之門。左右判官、燒盡億刼輪廻之籍。俾六道四生之微命、枯木逢春。使九玄七祖之爽靈、同登覺岸, Cúi xin: Diện Nhiên Đại Sĩ, ánh sáng oai lực đến đêm nay; Địa Tạng từ bi, thần lực hiển bày vào tối này. Diêm Ma Mười Điện, mở Mười Tám địa ngục cửa tung; Phán Quan phải trái, đốt sạch hồ sơ luân hồi muôn kiếp; cho mạng nhỏ của Bốn Loài Sáu Đường, cây khô gặp xuân; khiến hương linh của cửu huyền thất tổ, cùng lên bờ giác)”, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập