Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Không Dã »»

(機宜): có nhiều nghĩa khác nhau. (1) Sự lý, thời nghi. Như trong Dữ Cự Nguyên Tuyệt Giao Thư (與山巨源絕交書) của Kê Khang (嵇康, 223-263) nhà Ngụy thời Tam Quốc có đoạn: “Ngô bất như từ tông chi hiền, nhi hữu mạn thỉ chi khuyết, hựu bất thức nhân tình, ám ư cơ nghi (吾不如嗣宗之賢、而有慢弛之闕、又不識人情、闇於機宜, ta không bằng những người hiền nối dõi tông đường, mà có khuyết điểm khinh thường ngạo mạn, lại không biết nhân tình, chẳng rõ sự lý).” (2) Cơ mật, cơ yếu. Như Khiếu Đình Tục Lục (嘯亭續錄), phần Phê Bổn Xứ (批本處) của Chiêu Liên (昭槤, 1776-1833) nhà Thanh có câu: “Cố cơ nghi thận mật, tùng vô cảm trì trệ san cải giả (故機宜愼密、從無敢遲滯刪改者, cho nên phải cơ mật thận trọng, từ đó không dám trì trệ, lọc bỏ thay đổi).” 3. Cơ hội. Như trong Minh Sử (明史), Truyện Hồ Mỹ (胡美傳) có đoạn: “Kim tổng đại quân công vi thành ấp, tất trạch tiện nghi khả phủ vi tiến thối, vô thất cơ nghi (今總大軍攻圍城邑、必擇便宜可否爲進退、無失機宜, nay toàn bộ đại quân tấn công bao vây các thành ấp, tất phải tìm tiện nghi có thể được hay không để tiến thối, đừng làm cơ hội).” Câu “tịch mịch phi hình, nhất thiết cơ nghi tất bị (寂寞非形、一切機宜悉被)” có nghĩa là lặng lẽ không có hình bóng, nhưng tất cả cơ hội đều có đầy đủ.
(靈源): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho căn nguyên của tất cả, tức Phật tâm, Phật tánh, chân như bình đẳng tuyệt đối. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 12 có đoạn: “Nhân căn hữu lợi độn, đạo vô Nam Bắc tổ, linh nguyên minh kiểu khiết, chi phái ám lưu chú, chấp sự nguyên thị mê, khế lý diệc phi ngộ (人根有利鈍、道無南北祖、靈源明皎潔、枝派暗流注、執事原是迷、契理亦非悟, căn người có bén lụt, đạo không Nam Bắc tổ, Phật tâm sáng trong suốt, dòng phái tối chảy vào, chấp chặt nguyên là mê, khế lý cũng chẳng ngộ).” Hay trong Vĩnh Minh Trí Giác Thiền Sư Duy Tâm Quyết (永明智覺禪師唯心訣, Taishō Vol. 48, No. 2018) lại có đoạn: “Tam Thừa chi chánh triệt, nhập đạo chi yếu tân, Bát Nhã chi linh nguyên, Niết Bàn chi quật trạch (三乘之正轍、入道之要津、般若之靈源、涅槃之窟宅, Ba Thừa ấy lối chính, vào đạo ấy bến bờ, Bát Nhã ấy nguồn chơn, Niết Bàn ấy nhà động).” Hoặc trong Chứng Đạo Ca Chú (證道歌註, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1293) cũng có đoạn: “Nguyên phù linh nguyên trạm tịch, pháp hải uyên thâm, bổn vô danh tướng chi thù, an hữu thánh phàm chi dị (原夫靈源湛寂、法海淵深、本無名相之殊、安有聖凡之異, nguyên lai nguồn linh vẳng lặng, biển pháp uyên thâm, vốn không danh tướng chia sai, sao có thánh phàm tạo khác).”
(六波羅蜜寺, Rokuharamitsu-ji): ngôi chùa của Phái Trí Sơn (智山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Matsubaradōri (松原通), Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Bổ Đà Lạc Sơn (補陀洛山); tên gọi chính thức là Bổ Đà Lạc Sơn Phổ Môn Viện (補陀洛山普門院), là nơi tham bái hành hương thứ 17 trong số 33 nơi tham bái chính ở vùng Tây Quốc (西國, Saikoku). tượng thờ chính của chùa là Thập Nhất Diện Quan Âm (十一面觀音, quốc bảo). Vào năm thứ 5 (951) niên hiệu Thiên Lịch (天曆), dịch bệnh lưu hành ở Kinh Đô Kyoto, nơi chốn kinh thành thây người chết chồng chất lớp lớp, Không Dã Thượng Nhân (空也上人) thấy vậy mới lấy làm lo lắng, tự tay khắc hình tượng Thập Nhất Diện Quan Âm rồi mang tượng đi khắp kinh thành, lấy nước trà cúng cho tượng mà cho người bệnh uống; sau đó thì ai ai cũng được khỏi bệnh. Ngay như Thôn Thượng Thiên Hoàng (村上天皇, Murakami Tennō) cũng bị bệnh dịch, nên lấy trà này uống thì bệnh lành hẳn. Từ đó, Thiên Hoàng lấy làm cảm kích, mới lấy bức tượng này mà tôn thờ. Vào năm 963 thì xây dựng ngôi chánh điện để thờ tượng và đặt tên chùa này là Tây Quang Tự (西光寺). Thiên Hoàng cho thỉnh 600 vị cao tăng xa gần đến chùa, cúng dường 600 quyển Đại Bát Nhã Kinh. Đó chính là nguồn gốc của chùa. Sau đó, đệ tử của Không Dã là Trung Tín (中信) mới đổi tên chùa là Lục Ba La Mật Tự; mỗi ngày giảng nghĩa Kinh Pháp Hoa, rồi hằng đêm thì niệm Phật tam muội và nơi đây trở thành tự viện của Chơn Ngôn Tông. Từ câu chuyện trà Quan Âm mà ngôi chùa hình thành, cho nên kể từ thời Thôn Thượng Thiên Hoàng trở đi, có thông lệ hằng năm chùa đều mời những người trong Hoàng Thất đến để uống loại trà này. Chùa cũng thỉnh thoảng bị cháy rụi vì binh lửa chiến loạn, nhưng may thay ngôi Chánh Điện được xây dựng vào thời Thất Đinh (室町, Muromachi) thì vẫn còn nguyên vẹn, rồi đến năm 1967 thì được tu sửa hoàn chỉnh như xưa. Vào năm 1586, Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) cho xây dựng Phổ Môn Viện. Hiện chùa vẫn còn lưu lại rất nhiều bảo vật có giá trị tầm cỡ quốc gia như tuợng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm, bằng gỗ, do Không Dã sáng tác; tuợng đứng Không Dã Thượng Nhân, bằng gỗ, do Khang Thắng (康勝), con trai thứ 4 của Vận Khánh (運慶) tạc vào thời Liêm Thương; tượng ngồi Bình Thanh Thạnh (平清盛, Taira-no-Kiyomori) theo hình dạng tăng sĩ, bằng gỗ; tượng ngồi Địa Tạng Bồ Tát, bằng gỗ, do Vận Khánh tạo; tượng ngồi vận khánh, bằng gỗ, v.v.
(一遍, Ippen, 1239-1289): vị tăng sống vào giữa thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), vị tổ sư khai sáng ra Thời Tông của Nhật Bản, húy là Trí Chơn (智眞), người vùng Y Do (伊予). Ông đầu sư với Thánh Đạt (聖達), đệ tử của Chứng Không (証空), môn đệ của Pháp Nhiên (法然, Hōnen); nhưng sau đó thì đến vùng Hùng Dã (熊野, Kumano) chuyên tâm tu tập, được linh ứng cho biết rằng chúng sanh quyết định sẽ được vãng sanh. Từ đó về sau, ông khuyên dân chúng tu tập pháp môn Niệm Phật Nhảy (踊念佛, Odorinembutsu, có nghĩa vừa đánh trống vừa niệm Phật và xướng to theo kiểu tán của Nhật, rất giống với hình thức nhảy múa, nên có tên gọi như vậy. Pháp môn này do vị tăng sống giữa thời Bình An là Không Dã [空也, Kūya, 903-972] sáng lập nên), rồi phân chia cho mọi người các thẻ có ghi danh hiệu A Di Đà. Vì ông đã từng đi khắp nơi để truyền giáo, nên được gọi là Du Hành Thượng Nhân, Xả Thánh. Giáo pháp của ông có thể tìm thấy qua mấy bộ Ngữ Lục (語錄), Bá Châu Vấn Đáp Tập (播州問答集), v.v. Ông được ban cho thụy hiệu là Viên Chiếu Đại Sư (圓照大師) và Chứng Thành Đại Sư (証成大師).
(髪膚): tóc và da, tức chỉ toàn thân con người. Trong chương Khai Tông Minh Nghĩa (開宗明義) thứ nhất của Hiếu Kinh (孝經) có đoạn rằng: “Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thỉ dã (身體髪膚、受之父母、不敢毀傷、孝之始也, toàn bộ thân thể, thọ của cha mẹ, không dám thương tổn, đó là việc làm đầu tiên của hiếu).” Câu “cảm hà phát phu chi báo (感荷髪膚之報)” có nghĩa là cảm thấy nặng trĩu không biết làm sao báo đáp ơn sâu của cha mẹ đã ban cho tấm thân này.
(普庵印肅, 1115-1169), còn gọi là Phổ Am Thiền Sư (普庵[菴]禪師), Phổ Am Tổ Sư (普庵祖師); trong dân gian vẫn thường gọi là Phổ Án (普唵). Ngài là bậc cao tăng của Lâm Tế Tông, pháp từ của Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), sanh vào năm thứ 5 (1115) niên hiệu Chính Hòa (政和) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống; xuất thân Nghi Xuân (宜春), Viên Châu (袁州); họ là Dư (余), dung mạo rất kỳ khôi, thiên tánh mẫn tuệ. Khi hạ sanh ông, mẫu thân mộng thấy ánh sáng tỏa khắp bầu trời, hoa sen sanh trên lối đi. Lúc còn nhỏ, Phổ Am mộng thấy một vị dị tăng chỉ vào ngực ông mà bảo rằng: “Ngươi ngày kia sẽ tỉnh ngộ.” Tỉnh dậy, ông đem câu chuyện ấy kể cho mẹ nghe, người mẹ bèn vạch ngực ông ra xem thì quả nhiên có một điểm màu hồng như trái đào. Vào năm 1134 (Thiệu Hưng [紹興] 4), lúc 20 tuổi, ông xuất gia với Thiền Sư Thọ Long Hiền (壽隆賢); rồi đến năm 1141 (Thiệu Hưng 11) mới được xuống tóc và năm sau thì thọ giới ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Viên Châu (袁州). Vào năm 1143 (Thiệu Hưng 13), ông đến dạo chơi Hồ Tương (湖湘), tham yết Thiền Sư Yết Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), được vị này khai thị cho nên tỉnh ngộ. Sau ông trở về Thọ Long Viện (壽隆院). Đến năm 1153 (Thiệu Hưng 23), năm lên 39 tuổi, ông được thỉnh làm Trú Trì Từ Hóa Tự (慈化寺) ở Nghi Xuân, Giang Tây (江西). Ông thường mặc áo vải thô sơ, lưng chưa hề chấm chiếu, chuyên tâm Thiền định, nhân một hôm đọc đến đoạn “đạt bổn tình vong, tri tâm thể hợp (達本情忘、知心體合, đạt gốc tình quên, biết tâm thể hợp)” trong Kinh Hoa Nghiêm thì hoát nhiên tỉnh ngộ. Vào năm 1169 (Càn Đạo [乾道] 5, đời vua Hiếu Tông [孝宗, tại vị 1162-1189] nhà Nam Tống), ông tắm rửa, viết bài kệ, ngồi xếp bằng viên tịch. Bộ Phổ Am Ấn Túc Thiền Sư Ngữ Lục (普菴印肅禪師語錄), 3 quyển, của ông hiện được thâu lục trong bộ Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh (卍新纂續藏經, Vol. 69, No. 1356). Do vì khi còn tại thế, có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm về ông, sau khi qua đời, Thiền Sư Phổ Am được mọi người tín ngưỡng, trở thành một vị thần thánh của Phật Giáo chuyên tiêu tai, giải ách. Như vào năm 1156 (Thiệu Hưng 26), một hôm nọ Thiền Sư mở pháp hội, mọi người đến tham dự rất đông; vì vậy quan phủ cho người đến điều tra xem thử hư thực thế nào, nhưng đột nhiên cuồng phong, mưa lớn, trên trời hiện ra một con rồng lớn, nên quan phủ không dám điều tra, bèn quay trở về. Lại có hôm nọ, đáp ứng lời mời của người tín đồ tên Trần Thiên Chương (陳天章), cử hành pháp sự tại tư gia của người này, nhưng chỉ sai chúng tăng tụng một bộ Kinh Kim Cang. Nhân đó, Trần Thiên Chương không vui lòng, vì vậy Thiền Sư Phổ Am phải tụng thêm một bộ Kinh Kim Cang nữa. Về sau, Trần Thiên Chương bị chết sấp giữa đường, rồi ba ngày sau thì tái sanh lại, tự cho là ông bị dẫn xuống Địa Phủ, Phán Quan quở trách ông rằng: “Sao nhà ngươi lại bất kính với Thiền Sư Phổ Am, rồi bắt tụng thêm biến Kinh Kim Cang.” Sau đó, Trần Thiên Chương lại mang một xâu tiền đèn dầu cúng cho Thiền Sư và nhân đó Thiền Sư viết lên lên lưng ông bốn chữ “thí tài công cứ (施財功據, công đức bố thí tiền tài)”. Sau khi Trần Thiên Chương qua đời, trong một gia đình họ Cam (甘) hạ sanh một đứa bé, trên lưng đứa bé ấy xuất hiện dấu tích bốn chữ như vậy. Tương truyền Thiền Sư rất sùng kính Kinh Kim Cang, từng dùng máu mình viết bộ kinh này trong vòng 5 năm trường và sau đó được tôn thờ tại Từ Hóa Tự. Bộ kinh này cùng với bài văn bia Kim Cang Kinh của thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) ở Huệ Lực Tự (慧力寺), Lâm Giang (臨江), được xem như là hai bảo vật vô giá về Kinh Kim Cang của Giang Tây. Vào năm 1300 (Đại Đức [大德] 4, đời vua Thành Tông [成宗, tại vị 1294-1307] nhà Nguyên), ông được ban cho thụy hiệu là Đại Đức Huệ Khánh (大德慧慶); rồi đến năm 1420 (Vĩnh Lạc [永樂] 18, đời vua Thành Tổ [成祖, tại vị 1402-1424] nhà Minh), ông lại được phong thêm hiệu là Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Tuệ Tịch Cảm Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Huệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát (普庵至善弘仁圓通智慧寂感妙應慈濟眞覺昭貺慧慶護國宣敎大德菩薩). Tại các tự viện của Lâm Tế Tông, thường có thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am để hàng phục yêu ma. Do vì ông có tính thần dị, có các đạo sĩ không thuộc Phật Giáo lại tôn sùng ông là Tổ Sư, xưng hiệu là Phổ Án Giáo Chủ (普唵敎主) của Phổ Am Phái (普庵派) hay Phổ Án Phái (普唵派). Tượng của ông có nhiều loại khác nhau như tượng Tỳ Kheo, Đạo Sĩ, Tướng Quân, Đế Vương, v.v. Thậm chí như những người chuyên về ngư nghiệp, thuyền hải cũng thường tôn thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am trên thuyền của họ để cầu bình an trên sông nước; nên ông còn được xem như là người có công năng như Hải Thần vậy. Theo truyền thuyết của dân gian, nếu lấy giấy màu hồng, vàng viết lên 8 chữ “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ (普庵到此百無禁忌, Phổ Am đến đây, trăm điều không còn cấm kỵ nữa)”, rồi dán trong nhà thì có thể cải thiện được vấn đề phong thủy; hay mang nơi thân mình thì có thể xua đuổi điều xấu và mang lại điều lành. Trong lúc sinh tiền, ông thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦).
(灶君・竈君): vị thần của nhà bếp, chuyên giám sát mọi việc trong nhà và báo cáo lên Thiên Đình. Trong truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc, Táo Quân hay Táo Thần (灶神) là vị thần trông coi việc ăn uống, sau thời nhà Tấn thì được liệt vào vị thần chuyên giám sát việc thiện ác của con người. Từ khi nhân loại thoát ly khỏi thời kỳ ăn lông, uống máu, phát minh ra lửa để nấu ăn, tùy theo sự phát triển sinh sản của xã hội, Táo Quân có mối quan hệ rất mật thiết với sinh hoạt của nhân loại. Vào thời cổ đại, Trung Quốc đã có việc tế tự Táo Thần rồi; từ thời nhà Ngụy, Tấn về sau, Táo Thần đã có tên họ. Trong Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Vương Khanh (杜王卿) nhà Tùy, có nêu phần Táo Thư (灶書) và cho biết rằng: “Táo Thần, tánh Tô, danh Cát Lợi, phụ danh Bác Giáp (灶神、姓蘇、名吉利、婦名搏頰, Tháo Thần, họ Tô, tên Cát Lợi; vợ tên Bác Giáp).” Theo Tạp Ngũ Hành Thư (雜五行書) do Lý Hiền (李賢, 654-684) nhà Đường chú dẫn, có giải thích rằng: “Táo Thần danh Thiền, tự Tử Quách, y hoàng y, phi phát, tùng táo trung xuất (灶神名禪、字子郭、衣黃衣、披髮、從灶中出, Táo Thần tên Thiền, tự là Tử Quách, mặc áo vàng, đội tóc, từ trong bếp ra).” Ban đầu, Táo Quân là nữ thần, nên được gọi là lão bà, có khi là mỹ nữ, v.v., có nhiều thuyết khác nhau. Sau này, trong Kính Táo Toàn Thư (警灶全書), thư tịch xuất hiện khoảng thời nhà Thanh, có giải thích là Táo Thần được gọi là Táo Quân (灶君), họ Trương (張), tên Đơn (單), tự là Tử Quách, thuộc nam thần. Hiện tại trong dân gian vẫn thờ phụng Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân (東廚司命定福灶君), là hình vẽ hai lão già phu phụ, hay hình một nam hai nữ, tức là Táo Quân và phu nhân. Táo Thần gọi cho đủ là Đông Trù Ty Mạng Cửu Linh Nguyên Vương Định Phước Thần Quân (東廚司命九靈元王定福神君); thế gian thường gọi là Táo Quân, Táo Quân Công (灶君公), Táo Vương Gia (灶王爺), Ty Mạng Chơn Quân (司命眞君), Ty Mạng Đế Quân (司命帝君), Cửu Thiên Đông Trù Yên Chủ (九天東廚煙主), Hộ Trạch Tôn Thiên (護宅尊天), Táo Vương (灶王). Đặc biệt, phái nữ tôn kính ông như là vị thần của nhà bếp. Nguồn gốc về Táo Quân có từ rất sớm, từ khi nhà Thương khai sáng cơ đồ, người dân đã bắt đầu thờ phụng vị thần này rồi; trước thời nhà Tần, Hán, ông được liệt vào 5 vị thần thờ phụng chủ yếu, cùng với Thần Cửa, Thần Giếng, Thần Nhà Xí, Thần Phòng Ốc, chịu trách nhiệm trông coi trong gia đình; cho nên, ông thường được mọi người ái kính và biết ơn. Ngoại trừ chưởng quản việc ẩm thực, đem lại mọi sự tiện lợi về mặt sinh hoạt, chức trách của Táo Quân còn được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống giám sát việc thiện ác trong gia đình. Về hình tượng của Táo Quân, hai bên ông có hai vị thần đứng hầu, một vị cầm cái “lọ thiện” và vị kia “lọ ác”; tất cả hành vi của gia đình trong năm đều được ghi vào trong hai lọ này, đến cuối năm thì tổng kết lại và đem báo cáo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Hằng năm vào ngày 23 tháng 12 âm lịch là ngày Táo Quân rời dương gian về chầu Trời, cho nên mới có tục Đưa Ông Táo Về Trời. Có khá nhiều truyền thuyết khác nhau về vị thần nhà bếp này. Trước hết, có thuyết cho rằng ông là đế vương hay hậu duệ nhà vua thời Thượng Cổ. Tác phẩm Sự Vật Nguyên Hội (事物原會) cho rằng Hoàng Đế làm ra bếp, chết đi thành Thần Bếp. Hoài Nam Tử (淮男子), phần Phiếm Vật Luận (氾物論) có đoạn: “Viêm Đế tác hỏa nhi tử vi Táo (炎帝作火而死爲灶, Viêm Đế chế ra lửa, nên khi chết làm Táo)”; nhân đây Cao Dụ (高誘) chú giải rằng vua Viêm Đế lấy đức của lửa để quản lý thiên hạ, nên sau khi chết thì lấy thân phận Táo Thần để được tế tự. Chu Lễ Thuyết (周禮說) lại cho rằng dòng họ Chuyên Húc (顓頊) có người con tên Lê (黎), tức Chúc Dung (祝融) được thờ làm Táo Thần. Trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), phần Mạnh Thu (孟秋) có câu: “Kỳ thần Chúc Dung (其神祝融, Thần đó là Chúc Dung)”; Cao Dụ chú giải rằng “Chúc Dung là hậu duệ của dòng họ Chuyên Húc, con của Lão Đồng, sau khi chết làm Thần Hỏa Quan.” Hơn nữa, lại có thuyết cho rằng Táo Quân là quỷ thần. Lễ Ký (禮記) có đoạn: “Áo giả, lão phụ chi tế dã (奧者、老婦之祭也, Bên trong thờ bà lão).” Trịnh Huyền (鄭玄, 127-200) chú rằng: “Lão phụ, Tiên Xuy giả dã (老婦、先炊者也, Lão bà chính là Tiên Xuy)”; Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) lại giải thích thêm rằng “Ở đây cúng Tiên Xuy, không phải cúng Thần Lửa”. Theo đó, Táo Quân cũng chẳng phải là Thần Lửa, cũng không phải là người phát minh ra nhà bếp. Trong Văn Hiến Thông Khảo (文献通考), phần Giao Xã (郊社) 19 có nêu danh hiệu của Táo Thần là Ty Mạng (司命); từ đó có tên là Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân. Cũng có thuyết cho rằng ông là Sao Táo Thần; vì người dân cho việc ăn uống là Trời, muốn có ăn thì nhà bếp phải đầy khói; cho nên cúng tế Thần Bếp là nhằm ngày 23 tháng chạp, ngưỡng vọng ông lên trời cáo trình những việc tốt, rồi xuống trần gian ban cho điều tốt lành, khiến cho gia đình mỗi năm được bình an. Thời gian cúng tế vị thần này cũng có khác nhau, đa số các nơi đều cúng vào ngày 24 tháng chạp, nhưng cũng có nơi thuộc thiểu số lại cúng vào ngày 23; do vì có thuyết là “quan tam dân tứ (官三民四)”, tức là đối với quan thần thì cúng vào ngày 23, còn dân thường là ngày 24. Ngoài ra, Táo Quân còn được xem như là Bồ Tát giữ gìn cho bá tánh được “ngũ cốc phong nhiêu, tài nguyên vượng tấn (五穀豐饒、財源旺進, ngũ cốc phong phú, tài nguyên thịnh vượng).” Ngày sinh nhật của ông là mồng 3 tháng 8. Tuy nhiên, hiện tại ở Trung Hoa người ta thường cúng ông vào ngày ông đi báo cáo hơn là ngày sinh nhật. Về nội dung báo cáo, từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 9, nội dung ấy chỉ tập trung vào những việc làm không tốt, xấu ác của gia đình. Thế nhưng, gần đây nội dung ấy không phải nhắm vào các thành viên trong gia đình, mà chủ yếu là những lời nói việc làm của bà chủ nhà. Có điều, đối với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thổ Công (土公), Thổ Địa (土地) và Địa Kỳ (地祇), nhưng được Việt hóa thành huyền tích “hai ông một bà”, gồm Thần Đất, Thần Nhà và Thần Bếp. Trên cơ sở của thuyết Tam Vị Nhất Thể (三位一體, ba ngôi vị cùng một thể), dân gian vẫn gọi chung là Táo Quân hay Ông Táo. Theo Wikipedia Tiếng Việt, trang Táo Quân có tóm tắt về nội dung chính sự tích của vị Thần Bếp này là: “Trọng Cao có vợ là Thị Nhi, ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, hai người hay cãi cọ với nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi, sau đó gặp và bằng lòng làm vợ người thợ săn tên Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Trong lúc đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi đến xin nhà Thị Nhi, hai bên nhận ra nhau. Hai bên hàn huyên chuyện cũ và Thị Nhi tỏ ra ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Khi Phạm Lang trở về, Thị Nhi giấu chồng cũ mình vào trong đống rơm ngoài vườn để tránh hiểu nhầm. Vừa về đến nhà, anh thợ săn liền ra đốt rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra, nên bị chết thiêu trong đống rơm. Người vợ chạy ra thấy người chồng cũ đã chết thui thê thảm, nên liều mình nhảy vào để chết theo. Phạm Lang thấy vậy cũng nhảy vào cứu vợ, cuối cùng cả ba đều tử mạng. Quá thương tâm trước tình cảnh như vậy, Thượng Đế sắc phong cho làm Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc; Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc nhà bếp, hiệu là Đông Trù Ty Mạng Táo Phủ Thần Quân (東廚司命灶府神君); Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa, hiệu là Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần (土地龍脉尊神); Thị Nhi làm Thổ Kì, trông coi việc chợ búa, hiệu là Ngũ Thổ Phước Đức Chánh Thần (五土福德正神).” Ở Việt Nam, phong tục thờ Táo Quân cũng rất thịnh hành từ xưa cho đến nay với cùng ý nghĩa như trên. Hơn thế nữa, người ta còn cho rằng vị thần này có trách nhiệm chăm sóc những em bé sơ sinh, vì vậy khi đứa bé bị cảm mạo, đau bụng, v.v., gia đình thường cầu Táo Quân gia hộ cho chóng lành bệnh. Đó là lý do vì sao ngay nơi nhà bếp người ta thường thiết bàn thờ Táo Quân, bất kể tín đồ Phật Giáo hay không. Tại Trung Quốc, người ta thờ Táo Quân bằng hình vẽ, nhưng ở Việt Nam thì thờ bằng thỏi đất nung, có hình 3 trụ đứng. Sau khi cúng tiễn đưa Ông Táo về Trời xong vào ngày 23, người dân thường đem Ông Táo ra bỏ ở các gốc cây đa đầu làng, và thay vào Ông Táo mới. Tương truyền ngày mồng 3 tháng Giêng đầu năm là ngày Ông Táo từ Thiên Đình trở về, nên vào ngày này người ta cũng tổ chức lễ rước Ông Táo.
(s, p: kāyendriya, 身根): một trong 5 căn, 6 căn, 12 xứ, 18 giới, 22 căn; gọi tắt là thân (身); tức chỉ cho tịnh sắc căn trong thân thể, chứ không phải căn phù trần của nhục thể. Về ngữ nghĩa của thân, theo Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm (大乘法苑義林章, Taishō Vol. 45, No. 1861) quyển 3 lấy Phạn ngữ kāya (âm dịch là Ca Da [迦耶]) với nghĩ là tích tập (積集, gom chứa, tập trung), y chỉ (依止, nương vào, dừng lại). Thân Căn là nơi nhiều pháp của các căn y chỉ, nhiều pháp đều tích tập nơi Thân Căn này, nên có tên là Ca Da. Trong 12 Xứ, Thân Căn này có tên là Thân Xứ (s: kāyāyatana, 身處); trong 18 Giới là Thân Giới (s: kāya-dhātu, 身界). Thông thường, cái gọi là thân, đều chỉ chung cả đống thịt, hoàn toàn khác với Thân Căn. Trong các luận thư, gân thịt, v.v., gọi là Phù Trần Căn (扶塵根); còn đối với Thân Căn vốn có thể xúc tác thì gọi là Thắng Nghĩa Căn (勝義根). Thân Căn chỉ tồn tại trong Dục Giới (s: kāma-dhātu, 欲界) và Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), còn trong Vô Sắc Giới (s: ārūpa-dhātu, 無色界) thì không. A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 90 cho rằng Thân Căn của Địa Ngục không giống như của con người. Như trong Pháp Hoa Tam Muội Sám Nghi (法華三昧懺儀, Taishō Vol. 46, No. 1941), phần Sám Hối Thân Căn Pháp (懺悔身根法), có đoạn: “Quy hướng Phổ Hiền Bồ Tát cập nhất thiết Thế Tôn thiêu hương tán hoa, thuyết thân quá tội bất cảm phú tàng, dĩ thị nhân duyên linh ngã dữ pháp giới chúng sanh, Thân Căn nhất thiết trọng tội tất cánh thanh tịnh (歸向普賢菩薩及一切世尊燒香散華、說身過罪不敢覆藏、以是因緣令我與法界眾生、身根一切重罪畢竟清淨, quy hướng về Bồ Tát Phổ Hiền và hết thảy Thế Tôn đốt hương rãi hoa, bày rõ tội sai lầm của thân không dám che giấu, lấy nhân duyên này khiến con cùng với chúng sanh trong pháp giới, hết thảy tội nặng của Thân Căn cuối cùng được trong sạch).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập