Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Huyền Thiên Thượng Đế »»
(北帝): tiếng gọi tắt của Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Bắc Phương Chơn Võ Huyền Thiên Thượng Đế (北方眞武玄天上帝), Chơn Võ Đại Đế (眞武大帝), Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Huyền Võ Đại Đế (玄武大帝), Bắc Cực Đại Đế (北極大帝), Bắc Cực Hựu Thánh Chơn Quân (北極佑聖眞君), Khai Thiên Đại Đế (開天大帝), Nguyên Võ Thần (元武神); dân gian thường gọi là Thượng Đế Công (上帝公, Ông Thượng Đế), Thượng Đế Da (上帝爺, Lão Thượng Đế), v.v. Ông tượng trưng cho sao Bắc Cực, là vị thần của Đạo Giáo, quản lý phương Bắc, thống lãnh thủy tộc (kiêm cả Thủy Thần). Vì ông thuộc màu đen trong 5 màu ở phương Bắc, nên còn có tên là Hắc Đế (黑帝). Huyền Thiên Thượng Đế còn là vị thần trấn hộ quốc gia của thời nhà Minh (1368-1662); cho nên các quan lại có lập nhiều miếu thờ vị thần này. Về lai lịch của ông, căn cứ vào Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chơn Võ Bổn Truyện Thần Chú Diệu Kinh (太上說玄天大聖眞武本傳神咒妙經) cho biết rằng Huyền Thiên Thượng Đế là hóa thân thứ 82 của Thái Thượng Lão Quân (太上老君), thác sanh nơi Đại La Cảnh Thượng Vô Dục Thiên Cung (大羅境上無慾天宮), con của Quốc Vương Tịnh Lạc (凈樂國王) và Hoàng Hậu Thiện Thắng (善勝皇后). Hoàng Hậu nằm mộng thấy ăn mặt trăng, đến khi tỉnh dậy thì mang thai, trãi qua 14 tháng và hơn 400 ngày thì hạ sanh ông trong vương cung. Sau khi trưởng thành, từ giã song thân, lên tu đạo trên Võ Đương Sơn (武當山), trãi qua 42 năm thì công thành quả mãn. Nhân đó, Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) có chiếu chỉ, phong cho ông là Thái Huyền (太玄), trấn thủ ở phương Bắc. Theo Hựu Thánh Chú (佑聖咒) gọi Huyền Thiên Thượng Đế là do “Thái Âm hóa sanh, Thủy Vị chi tinh, Hư Nguy thượng ứng, quy xà hợp hình, châu hành Lục Hợp, uy nhiếp vạn linh (太陰化生、水位之精、虛危上應、龜蛇合形、周行六合、威懾萬靈, Thái Âm hóa sinh, tinh của Thủy Vị, trên hợp với Hư Nguy, hình kết hợp của rùa rắn, đi khắp Sáu Cõi, uy nhiếp vạn loài).” Nhân vì Bắc Đế thuộc về thủy, nên có thể trị thủy, hàng thủy, giải trừ các tai họa về nước lửa. Các đền thờ vị thần này được kiến lập trong cung nội dưới thời nhà Minh, đều để cầu nguyện cho giải trừ mọi tai họa về nước lửa. Vì Bắc Đế có công lao dẹp trừ, tiêu diệt quy tinh, thuồn luồn dưới chân mình, nên được Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho là Huyền Thiên Thượng Đế. Ông là người thống lãnh thủy giới an toàn, có thể hướng dẫn cho tàu bè đi lại đúng phương hướng, chẳng bị lạc hướng trên biển. Còn Huyền Võ (玄武) là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Bắc trong Nhị Thập Bát Tú (二十八宿). Trong Sở Từ (楚辭), Thiên Viễn Du (遠遊) của Khuất Nguyên (屈原, 304-278 tcn) có câu: “Chiêu Huyền Võ nhi bôn thuộc (召玄武而奔屬, mời Huyền Võ đến hộ vệ).” Hình của Huyền Võ như rùa rắn, nên có lời chú giải rằng: “Huyền Võ vị quy xà, vị tại Bắc phương, cố viết Huyền; thân hữu lân giáp, cố viết Võ (玄武謂龜蛇、位在北方、故曰玄、身有鱗甲、故曰武, Huyền Võ có nghĩa là rùa rắn, an vị ở phương Bắc, nên gọi là Huyền; thân nó có giáp lân, nên gọi là Võ).” Trong khoảng niên hiệu Khai Bảo (開寶, 968-976) nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127), Thần Huyền Võ giáng xuống Chung Nam Sơn (終南山). Vào năm thứ 6 (981) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國), ông được phong là Dực Thạnh Tướng Quân (翌盛將軍). Đến năm thứ 7 (1014) niên hiệu Đại Trung Tường Phù (大中祥符, 1008-1016) đời vua Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), ông được phong thêm là Dực Thánh Bảo Đức Chơn Quân (翌聖保德眞君). Về sau, để tránh tên húy của Thánh Tổ Triệu Huyền Lãng (聖祖趙玄朗), Huyền Võ được đổi thành Chơn Võ. Ngày sinh của Huyền Thiên Thượng Đế là mồng 3 tháng 3 âm lịch. Theo truyền thuyết của Đài Loan, ông không phải là vương tử, mà là người đồ tể. Có hôm nọ, chàng đồ tể được thần minh mách bảo, nhất định từ bỏ không làm nghề đó nữa, cải tâm tu đạo, mổ bụng mình đem vất xuống sông và nhờ quyết tâm đó mà đắc đạo. Sau khi chứng đạo, bụng ông biến thành rùa tiên, ruột biến thành rắn tiên; cả hai tác quái khắp nơi. Nhân đó, Huyền Thiên Thượng Đế bèn mượn cây bảo kiếm của Bảo Sanh Đại Đế (保生大帝, có thuyết là mượn của Lữ Đồng Tân [呂洞賓]) để trấn áp hai tiên đó và cuối cùng thâu phục được. Sau đó, vì sợ hai con rùa rắn này không chịu quy phục, Huyền Thiên Thượng Đế cứ cầm kiếm canh giữ mãi mà không chịu hoàn trả cho Bảo Sanh Đại Đế. Cho nên, nơi tượng thờ Huyền Thiên Thượng Đế ở Đài Loan, ông có chân đỏ, đạp lên hai con rùa rắn, tay cầm chặt cây bảo kiếm. Cũng trên cơ sở của truyền thuyết này, tại Đài Loan, các nơi chế biến thịt, công ty đồ tể, thảy đều phụng thờ Huyền Thiên Thượng Đế làm vị thần bảo hộ cho công việc của họ. Minh Thành Tổ (明成祖, tại vị 1402-1424) đã từng đại tu các ngôi miếu vũ của Võ Đương, trong bức thư sắc chỉ kiến tạo Tử Vân Đình (紫雲亭), ông có ghi rằng: “Tịnh Lạc Quốc chi đông, hữu Tử Vân Đình, nãi Huyền Võ Đế giáng sanh chi phước địa (淨樂國之東、有紫雲亭、乃玄武帝降生之福地, phía đông Tịnh Lạc Quốc, có Tử Vân Đình, là vùng đất phước giáng sanh của Huyền Võ Đế).”
(鸞房): phòng loan của người vợ. Trong bài kinh Huyền Thiên Thượng Đế Bách Tự Thánh Hiệu (玄天上帝百字聖號) của Đạo Giáo có quẻ xăm thứ 19, Đại Cát, tên Vân Hành Vũ Thí (雲行雨施), phần Hôn Nhân có đoạn: “Quy gia tiện bả loan phòng chỉnh, hảo thính minh cầm hữu phụng thanh, thiên phó nhân duyên cánh hòa hợp, y kim bất tát vấn tiền trình (歸家便把鸞房整、好聽鳴琴有鳳聲、天付姻綠更和合、伊今不必問前程, về nhà bèn chỉnh phòng loan tốt, khéo nghe đàn cầm có phụng reo, trời ban nhân duyên cho hòa hợp, hôm nay bất tất hỏi ngày mai).”
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập