Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Huyên Đường »»
(開山): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Tức khai mở núi lập chùa. Xưa kia, đại đa số các tự viện đều được xây dựng ở những nơi núi non thâm u, nhàn tĩnh, nên gọi là khai sơn, hay khai cơ (開基). Như trong bài tựa của Sơn Ông Thiền Sư Văn Tập (山翁禪師文集) do Hoàng Tông Hi (黃宗羲, 1610-1695) nhà Thanh sáng tác, có đoạn: “Dư du Vân Môn chư tự, chí Bình Dương, Sơn Ông khai sơn kinh thỉ (余遊雲門諸寺、至平陽、山翁開山經始, ta ngao du các chùa ở Vân Môn, đến Bình Dương, Sơn Ông bắt đầu khai sơn cho đến nay).” Hay trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) lại có đoạn: “Đương Dương Huyện Ngọc Tuyền Sơn Cảnh Đức Thiền Tự vi Tùy Trí Giả Thiền Sư khai sơn đạo tràng (當陽縣玉泉山景德禪寺爲隋智者禪師開山道塲, Cảnh Đức Thiền Tự ở Ngọc Tuyền Sơn, Huyện Đương Dương là đạo tràng do Thiền Sư Trí Khải [538-397] nhà Tùy khai sơn).” (2) Là từ tôn xưng cho vị Tổ, trú trì đời đầu tiên của chùa. Như trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 14, phần Từ Biện Gián Pháp Sư Pháp Từ (慈辯諫法師法嗣), Pháp Sư Trạch Khanh (法師擇卿), có đoạn: “Nguyên Hựu nhị niên, sơ kiến Thọ Thánh Viện, thỉnh sư khai sơn (元祐二年、初建壽聖院、請師開山, vào năm thứ 2 [1807] niên hiệu Nguyên Hựu, ban đầu kiến lập Thọ Thánh Viện, cung thỉnh Pháp Sư làm Tổ khai sơn).” Hay trong Võ Lâm Tây Hồ Cao Tăng Sự Lược (武林西湖高僧事略, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1526), phần Ngũ Đại Vĩnh Minh Tiềm Thiền Sư (五代永明潛禪師), lại có đoạn: “Chu Hiển Đức nguyên niên, kiến Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự, thỉnh sư cư chi, vi khai sơn thỉ Tổ (周顯德元年、建慧日永明寺、請師居之、爲開山始祖, vào năm đầu [954] niên hiệu Hiển Đức nhà Chu, kiến lập Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự, cung thỉnh Thiền Sư đến ở, là vị Tổ khai sơn đầu tiên).” (3) Khai sáng học phái, tông phái nào đó, hay chỉ cho người khai sáng học phái, tông phái đó.
(判官): còn gọi Quỷ Phán Quan (鬼判官). Trong Thập Điện Diêm La (十殿閻羅), ở hai bên của vua Diêm La tại mỗi điện đều có một vị Phán Quan phụ tá xử lý phiên tra công việc các vong hồn và chịu trách nhiệm thẩm tra các u hồn được dẫn đến Minh Phủ. Phán Quan có thể phân làm 4 loại: Thưởng Thiện Ty (賞善司), Phạt Ác Ty (罰惡司), Tra Sát Ty (查察司) và Thôi Phán Quan (崔判官). Ba tên đầu là chức danh, chỉ có chức cuối cùng thì thấy xuất hiện nhiều trong các thư tịch. Như trong Tây Du Ký (西遊記) cũng như truyền thuyết của các địa phương thường hay có tên vị này. Tương truyền Thôi Phán Quan tên là Giác (玨), người sống dưới thời Tùy Đường. Vào năm 633 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 7) nhà Đường, ông ra làm quan Huyện Lịnh Trường Tử (長子), Lộ Châu (潞州). Có thuyết cho rằng ông “ban ngày quản lý việc dương gian, tối xét xử các oan hồn dưới Âm Phủ, sai khiến người và quỷ, có năng lực như thần minh.” Trong dân gian có nhiều truyền thuyết về việc xử án của Thôi Giác (崔玨); trong đó có vụ án làm sáng tỏ con hổ làm thương tổn người được lưu truyền rộng rãi nhất. Truyền thuyết kể rằng nơi giáp giới phía tây nam Huyện Trường Tử và sông Thấm (沁) có một dãy núi lớn, tên là Điêu Hoàng Lãnh (雕黃嶺); xưa kia nơi đó thường có thú dữ xuất hiện. Một hôm, có chàng tiều phu lên núi đốn củi, không may bị con mãnh hổ ăn thịt. Người mẹ góa chồng hay tin đau lòng không muốn sống nữa, bèn lên Huyện đường kêu oan. Thôi Giác tức khắc phát lịnh bài, sai lính dịch Mạnh Hiến (孟憲) cầm điệp phù lên núi bắt cọp. Hiến lấy điệp phù ra đọc tụng trước Miếu Sơn Thần và dâng cúng trước án thần; khi ấy có một con cọp từ sau miếu lủi trốn ra. Hiến bèn dùng linh phù bắt con cọp dẫn về Huyện đường. Thôi Giác tức thì thăng đường, liệt kê tội phạm do con hổ gây ra từ trước đến nay; khi nghe mỗi tội như vậy, con hổ đều cúi đầu nhận chịu. Cuối cùng, ông phán quyết rằng: “Ăn thịt mạng người, tội không thể tha.” Con hổ nghe vậy đập đầu vào bậc cấp mà chết. Sau khi Thôi Giác qua đời, bá tánh đều lập miếu thờ ông ở khắp nơi. Tuy nhiên, cũng có thuyết nêu lên tên 4 vị phán quan có tên gọi hơi khác là: Chưởng Hình Phán Quán (掌刑判官, coi về hình phạt), Chưởng Thiện Bộ Phán Quan (掌善簿判官, coi về hồ sơ việc thiện), Chưởng Ác Bộ Phán Quan (掌惡簿判官, coi về hồ sơ việc ác) và Chưởng Sanh Tử Bộ Phán Quan (掌生死簿判官, coi về hồ sơ sống chết); trong đó vị cuối cùng là thủ lãnh tất cả. Tương truyền vị danh thần nhà Tống là Bao Thanh Thiên (包青天) cũng đã từng làm việc dưới Âm Phủ, có tên là Trương Bảo (張保), chuyên giám sát những người vượt ngục, trông coi hồ sơ sanh tử của con người và tuyên phạt những cực hình. Hình tượng các vị Phán Quan thường được tạc có đội mũ mềm trên đầu, mang cân đai, chân mang đôi hài mũi đen, trừng con mắt sáng quắt, tay trái cầm sổ thiệc ác, tay phải cầm cây bút sanh tử. Như vậy Quỷ Phán Quan là vị Phán Quan cõi Âm Phủ vốn có trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, thế gian vẫn thường xưng tụng ông rằng: “Quân mạo tranh nanh, quân tâm công chánh, thanh lâm hắc tắc, duy quân sở mạng (君貌猙獰、君心公正、青林黑塞、唯君所命, Tướng người hung tợn, tâm người công chánh, rừng xanh chốn tối, chỉ người quản hạt).”
(親萱): từ chỉ cho người mẹ. Huyên (萱) là loại cây cỏ sống lâu năm, Huyên Thảo (萱草) là loại Kim Châm (金針), tương truyền khi ăn vào thì làm cho người ta quên đi ưu sầu, phiền muộn; nên được gọi là Vong Ưu Thảo (忘憂草, Cỏ Quên Buồn) và thường được dùng thay thế cho người mẹ. Nơi người mẹ cư ngụ được gọi là Huyên Đường (萱堂), tức là nơi có trồng nhiều loại cỏ Huyên để giúp cho mẹ quên đi mọi ưu phiền. Cho nên “thân huyên dĩ thệ (親萱已逝)” có nghĩa là mẹ hiền đã qua đời.
(椿庭): chỉ cho người cha, hay nơi người cha ở; vì cây thung (椿, hay xuân) tượng trưng cho sự trường thọ. Như trong phần Hội Giảng (會講) thuộc Kinh Xoa Ký (荊釵記) của Chu Quyền (朱權, 1378-1448) nhà Minh có câu rằng: “Bất hạnh Thung Đình vẫn táng, thâm lại Huyên Đường huấn hối thành nhân (不幸椿庭殞喪、深賴萱堂訓誨成人, không may cha lành qua đời, thảy nhờ mẹ hiền dạy dỗ nên người).” Từ đó, có một số câu được dùng để chúc tụng người cha như: “Thung Đình nhật noãn (椿庭日暖, Thung Đình mỗi ngày một ấm áp, nghĩa là người cha mỗi ngày một mạnh khỏe)”, “Thung Đình trường thanh (椿庭長青, Thung Đình xanh tươi mãi, nghĩa là cha lành vẫn sống mãi)”, v.v.
(椿萱): Thung hay xuân (椿) là loại cây cao lá rụng thuộc Khoa Chiên Đàn (栴檀), gỗ cứng, thường dùng làm khí cụ rất tốt. Trong Trang Tử (莊子), phần Tiêu Dao Du (逍遙遊) có đoạn rằng: “Thượng cổ hữu đại Thung giả, dĩ bát thiên tuế vi Xuân, bát thiên tuế vi Thu (上古有大椿者、以八千歳爲春、八千歳爲秋, thời xưa có cây thung lớn, lấy tám ngàn năm làm một mùa Xuân, tám ngàn năm làm một mùa Thu)”; vì vậy sau này cây Thung được dùng thể hiện sự trường thọ và mượn thay thế cho người cha. Nơi người cha ở được gọi là Thung Đình (椿庭), Thung Đường (椿堂) hay Thung Phủ (椿府); cho nên người ta hay dùng câu “Thung Đường Trường Thanh (椿堂長青, Cha Lành Sống Mãi [nhà có cây thung xanh mãi])” để chúc thọ cho phụ thân. Bên cạnh đó, Huyên (萱) là loại cây cỏ sống lâu năm, Huyên Thảo (萱草) là loại Kim Châm (金針), tương truyền khi ăn vào thì làm cho người ta quên đi ưu sầu, phiền muộn; nên được gọi là Vong Ưu Thảo (忘憂草, Cỏ Quên Buồn) và thường được dùng thay thế cho người mẹ. Nơi người mẹ cư ngụ được gọi là Huyên Đường (萱堂), tức là nơi có trồng nhiều loại cỏ huyên để giúp cho mẹ quên đi mọi ưu phiền. Nếu như cả cha lẫn mẹ đều song toàn, tức vẫn còn sống thọ, thế gian vẫn thường dùng câu chúc thọ là “Thung Huyên Tinh Mậu (椿萱並茂, Cha Mẹ Cùng Thọ [cây Thung và cây Huyên cùng tươi tốt])”. Trong bài thơ Tống Từ Hạo (送徐浩) của Mâu Dung (牟融) nhà Đường có câu: “Tri quân thử khứ tình thiên cấp, đường thượng thung huyên tuyết mãn đầu (知君此去情偏急、堂上椿萱雪滿頭, Biết người đi mãi tình ngăn cách, nhà vắng mẹ cha tóc bạc đầu)”. Hay trong Nhất Chi Hoa (一枝花), Tử Đệ Mỗi Tâm Kí Thanh Lâu Thọ Nhân Khúc (子弟毎寄青樓受人曲) của Thang Thức (湯式) nhà Minh có đoạn: “Thung huyên suy mại, tùng cúc tiêu điều (椿萱衰邁、松菊蕭條, Mẹ cha suy yếu, tùng cúc tiêu điều)”. Hoặc trong bài Mẫu Đơn Đình (牡丹亭) của Thang Hiển Tổ (湯顯祖) nhà Minh cũng có câu: “Đương kim sanh hoa khai nhất hồng, nguyện lai sanh bả huyên thung tái phụng (當今生花開一紅、願來生把萱椿再奉, Ngày nay đơm hoa nở nụ hồng, nguyện đời sau gặp mẹ cha cung phụng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập