Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Huyền Đô »»

(眞宰): đấng chủ tể của vạn vật. Trong Đạo Gia (học phái của Trang Tử, Lão Tử), vị này được ví cho Trời. Như trong Vô Thượng Cửu Tiêu Ngọc Thanh Đại Phạm Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (無上九霄玉清大梵紫微玄都雷霆玉經) của Đạo Giáo có xuất hiện các từ như Thiên Lôi Chơn Tể (天雷眞宰), Thần Lôi Chơn Tể (神雷眞宰), v.v. Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, CBETA No. 1248) có câu: “Cận viễn miếu mạo hà nhĩ linh kỳ, bổn am lập địa dực ứng, Sĩ Chu Tuyên Linh Chúa Hộ Già Lam thần, hợp đường chơn tể, trù ty Giám Trai Sứ Giả, chủ thang hỏa Tỉnh Táo thần kỳ (近遠廟貌遐邇靈祇、本菴立地翊應、俟周宣靈主護伽藍神、合堂眞宰、廚司監齋使者、主湯火井灶神祇, xa gần ngoài miếu, xa gần thần linh; bổn am lập địa ứng giúp, Sĩ Chu Tuyên Linh Chúa Hộ Già Lam thần, chư vị Chơn Tể cùng thờ, Giám Trai Sứ Giả nhà bếp, Thần Táo Quân, Thần Giếng chủ quản lửa nước).”
(轉女爲男): hay chuyển nữ thành nam (轉女成男), biến thành nam tử (變成男子), nghĩa là chuyển thân nữ thành nam. Từ ngàn xưa, tại Ấn Độ, người nữ không được xem là pháp khí, vì thân người nữ có 5 thứ chướng ngại; cho nên nếu muốn thành Phật thì cần phải chuyển đổi thân hình. Hơn nữa, người nữ không thể nhập vào cõi Tịnh Độ của chư Phật, vì vậy A Di Đà Phật cũng như Dược Sư Phật có lập bản nguyện riêng để cho người nữ chuyển thành thân nam. Theo như Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經) quyển thượng cho biết, người nữ nào có chướng ngại nặng thì nên chuyên tâm Xưng Danh Niệm Phật, nhờ sức bản nguyện của đức Phật Di Đà, có thể chuyển biến thân nữ thành nam. Trong Phẩm Đề Bà Đạt Đa (提婆達多品) của Kinh Pháp Hoa có thuật lại câu chuyện Long Nữ 8 tuổi biến thành thân nam, vãng sanh về thế giới phương Nam và thành Phật: “Nhĩ thời Ta Bà thế giới Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ, nhân dũ phi nhân, giai diêu kiến bỉ Long Nữ thành Phật, phổ vị thời hội nhân thuyết pháp, tâm đại hoan hỷ tất diêu kính lễ, vô lượng chúng sanh văn pháp giải ngộ đắc bất thối chuyển (爾時娑婆世界菩薩聲聞天龍八部人與非人、皆遙見彼龍女成佛、普爲時會人天說法、心大歡喜悉遙敬禮、無量眾生聞法解悟得不退轉, lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Tám Bộ Trời Rồng, người và loài không phải người của thế giới Ta Bà, ở xa đều thấy vị Long Nữ kia thành Phật, vì khắp chúng trời người trong hội lúc ấy mà thuyết pháp, tâm họ rất hoan hỷ, thảy đều kính lẽ từ xa; vô lượng chúng sanh nghe pháp được giải ngộ, được không thối chuyển).” Đặc biệt, trong Phật Thuyết Chuyển Nữ Thân Kinh (佛說轉女身經, Taishō No. 564) có giải thích rất rõ các pháp giúp cho người nữ chuyển biến thành thân nam như: “Phục thứ, nữ nhân thành tựu ngũ pháp, đắc ly nữ thân, tốc thành nam tử. Ngũ pháp như hà ? Nhất lạc cầu thiện pháp, nhị tôn trọng chánh pháp, tam dĩ chánh pháp nhi tự ngu lạc, tứ ư thuyết pháp giả kính như sư trưởng, ngũ như thuyết tu hành; dĩ thử thiện căn, nguyện ly nữ thân, tốc thành nam tử, hồi hướng Bồ Đề, thị chuyển nghiệp chi ngũ (復次、女人成就五法。女人成就五法、得离女身。得離女身、速成男子。速成男子、五法云何。五法云何、一乐求善法,二尊重正法,三以正法而自娱乐,四于说法者敬如师长,五如说修行。一樂求善法、二尊重正法、三以正法而自娛樂、四於說法者敬如師長、五如說修行、以此善根。以此善根、愿离女身。願離女身、速成男子。速成男子、回向菩提。迴向菩提、是转业之五。是轉業之五, Lại nữa, người nữ thành tựu năm pháp, được lìa thân nữ, mau thành người nam. Năm pháp ấy là gì ? Một là vui cầu pháp lành, hai là tôn trọng chánh pháp, ba là lấy chánh pháp để tự làm niềm vui, bốn là đối với người thuyết pháp thì cung kính như thầy dạy, năm là theo đúng như lời dạy mà tu hành; lấy căn lành này, nguyện lìa thân nữ, mau thành người nam, hồi hướng Bồ Đề, đó là nam pháp để chuyển nghiệp).”
(姑洗): có hai nghĩa chính:
(1) Tên gọi âm thứ 3 trong 6 âm thanh thuộc về Dương của 12 luật âm, tương đương với âm Hạ Vô (下無, shimomu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Như trong Chấn Trạch Trường Ngữ (震澤長語), chương Âm Luật (音律) giải thích rằng: “Nam Lữ vi Vũ, Cô Tẩy vi Giốc (南呂爲羽、姑洗爲角, Nam Lữ là cung Vũ, Cô Tẩy là cung Giốc).”
(2) Chỉ tháng Ba Âm Lịch. Như trong tác phẩm Bạch Hổ Thông (白虎通), chương Ngũ Hành (五行) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán có ghi rõ rằng: “Tam nguyệt vị chi Cô Tẩy hà ? Cô giả cố dã; Tẩy giả tiên dã; ngôn vạn vật giai khử cố tự kỳ tân, mạc bất tiên minh dã (三月謂之姑洗何、姑者故也、洗者鮮也、言萬物皆去故就其新、莫不鮮明也, tháng Ba gọi là Cô Tẩy, vì sao ? Cô nghĩa là cũ, Tẩy nghĩa là mới; tức là vạn vật đều bỏ cái cũ mà đón cái mới, chẳng có gì mà không mới mẻ cả).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 còn cho biết rằng: “Thìn vi Cô Tẩy, tam nguyệt chi thần danh Thìn, Thìn giả chấn động chi nghĩa, thử nguyệt vật giai chấn động nhi trưởng, cố vị chi Thìn (辰爲姑洗、三月之辰名辰、辰者震動之義、此月物皆震動而長、故謂之辰, Thìn là Cô Tẩy, chi của tháng Ba là Thìn; Thìn có nghĩa là chấn động; tháng này muôn vật chuyển động mà lớn lên, nên gọi nó là Thìn).” Trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 8 cũng có giải thích thêm rằng: “Tam nguyệt kiến Thìn, hựu viết Cô Tẩy, hựu viết Mạc Xuân, viết Vãn Xuân, viết Diểu Xuân, hựu xưng Túc Nguyệt (三月建辰、又曰姑洗、又曰莫春、曰晚春、曰杪春、又稱宿月, tháng Ba kiến Thìn, lại gọi là Cô Tẩy, là Mạc Xuân, còn gọi là Vãn Xuân, là Diểu Xuân, còn có tên là Túc Nguyệt).” Hay trong Thích Thị Kê Cổ Lược (釋氏稽古略, Taishō Vol. 49, No. 2037) quyển 1 có câu: “Đại Minh Gia Tĩnh Quý Sửu tuế Cô Tẩy nguyệt Giáp Thân nhật Cú Khúc Thiên Vương Tự hậu học Sa Môn Xương Phục trùng san (大明嘉靖癸丑歲姑洗月甲申日句曲天王寺後學沙門昌腹重刊, hậu học Sa Môn Xương Phục khắc bản lại tại Thiên Vương Tự ở Cú Khúc, ngày Giáp Thân tháng Ba năm Quý Sửu [1553] niên hiệu Gia Tĩnh nhà Đại Minh).”
(九天應元雷聲普化天尊): còn gọi là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Chơn Vương (九天應元雷聲普化眞王), tức Lôi Thần (雷神), Lôi Tổ (雷祖), Thiên Lôi (天雷). Về lai lịch, Vô Thượng Cửu Tiêu Ngọc Thanh Đại Phạm Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (無上九霄玉清大梵紫微玄都雷霆玉經) cho rằng Lôi Tổ là hóa thân của Ngọc Thanh Chơn Vương (玉清眞王), con thứ 9 của Phù Lê Nguyên Thỉ Thiên Tôn (浮黎元始天尊). Cũng có thuyết cho rằng Hoàng Đế Hiên Viên (軒轅) sau khi lên cõi tiên thì trở thành Lôi Tinh (雷精), thần chủ quản về sấm sét, mưa. Lôi Tổ là phong hiệu của ông, cư trú tại Thần Tiêu Ngọc Phủ (神霄玉府), trong Bích Tiêu Phạm Khí (碧霄梵氣), cách Lôi Thành (雷城) khoảng 2.300 dặm. Lôi Thành là nơi Thiên Đình làm sấm, bên trái có Ngọc Xu Ngũ Lôi Sứ Viện (玉樞五雷使院), bên phải có Ngọc Phủ Ngũ Lôi Sứ Viện (玉府五雷使院). Trước Thiên Tôn có trống sấm 36 mặt, do 36 vị thần quản lý. Khi làm sấm, Lôi Tổ đánh một tiếng trống, tức thời Lôi Công (雷公), Lôi Sư (雷師) phát ra tiếng sấm. Trong Lôi Bộ có 36 thành viên, mỗi người đều có công trạng và được phong thần. Tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa (封神演義) nhà Minh cho Văn Trọng (聞仲) là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, thống lãnh bộ hạ 24 bộ hạ kéo mây góp mưa, làm sấm. Trong số đó, tại các đền thờ Đạo Giáo thường có tôn thờ các vị Thiên Tướng như Luật Lịnh Đại Thần Đặng Nguyên Soái Trung (律令大神鄧元帥忠), Ngân Nha Diệu Mục Tân Thiên Quân Hoàn (銀牙耀目辛天君環), Phi Tiệp Báo Ứng Trương Sứ Giả Tiết (飛捷報應張使者節), Tả Phạt Ma Sứ Cẩu Nguyên Soái Chương (左伐魔使苟元帥章), Hữu Phạt Ma Sứ Tất Nguyên Soái Hoàn (右伐魔使畢元帥環). Bên cạnh đó, lại có Đào Thiên Quân Vinh (陶天君榮), Bàng Thiên Quân Hồng (龐天君洪), Tần Thiên Quân Hoàn (秦天君完), Triệu Thiên Quân Giang (趙天君江), Đổng Thiên Quân Toàn (董天君全), Viên Thiên Quân Giác (袁天君角), v.v. Từ ngàn xưa, người ta đã sùng bái Lôi Công, Lôi Thần; nhưng mãi đến cuối thời Bắc Tống (北宋, 960-1127) mới hình thành việc thiết trí ra Lôi Bộ do Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn quản lãnh. Trong phần Lễ Chí (禮志) của Minh Sử (明史) có giải thích rằng: “Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn giả, Đạo gia dĩ vi tổng ty Ngũ Lôi, hựu dĩ lục nguyệt nhị thập tứ nhật vi Thiên Tôn hiện thị chi nhật, cố tuế dĩ thị nhật khiển quan nghệ Hiển Linh Cung trí tế (雷聲普化天尊者、道家以爲總司五雷、又以六月二十四日爲天尊現示之日、故歲以是日遣官詣顯靈宮致祭, Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn, Đạo Giáo cho rằng người tổng quản Ngũ Ty, lại lấy ngày 24 tháng 6 làm ngày Thiên Tôn thị hiện; cho nên hằng năm vào ngày này sai các quan đến Hiển Linh Cung cúng tế).” Vì vậy, cứ mỗi năm vào ngày 24 tháng 6 Âm Lịch, tín đồ Đạo Giáo đến các đền thờ dâng hương, cầu phước, tiêu trừ tai họa. Trong nghi lễ trai đàn của Chánh Nhất Phái (正一派) thuộc Đạo Giáo có thiết bài vị của Lôi Tổ, và trong khoa nghi cũng có văn triệu thỉnh chư vị Thiên Quân trong Lôi Bộ. Như trong lòng văn sớ trên, khi tiến hành tụng kinh cầu nguyện giải Trùng Tang, Thần Sát thì cần phải tuyên sớ cung thỉnh Thiên Lôi giáng lâm đàn tràng chứng minh, gia hộ để được giải nạn, hạn ách, tiêu tai cát tường.
(s: Mahāvairocana, Vairocana, 大日如來): âm dịch là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na (摩訶毘盧遮那), dịch là Đại Biến Chiếu Như Lai (大遍照如來), Biến Chiếu Như Lai (遍[徧]照如來). Về danh nghĩa, ma ha (摩訶) có nghĩa là to lớn, nhiều, hơn cả. Tỳ (毘) là phổ biến, quảng bác, rộng rãi, cao hiển. Lô giá na (盧遮那) là quang minh, sáng tỏa, mỹ lệ. Cho nên Ma Ha Tỳ Lô Giá Na còn có các tên gọi khác nhau như Tối Cao Hiển Quảng Minh Nhãn Tạng Như Lai (最高顯廣明眼藏如來, Kim Cang Đảnh Nghĩa Quyết [金剛頂義決], Bất Không [s: Amoghavajra, 不空] soạn, Taishō No. 39), Vô Lượng Vô Biên Cứu Cánh Như Lai (無量無邊究竟如來, Lý Thú Kinh [理趣經], Kim Cang Trí [s: Vajrabodhi, 金剛智] dịch, Taishō No. 8), Quảng Bác Thân Như Lai (廣博身如來, Thí Chư Ngạ Quỷ Pháp [施諸餓鬼法], Bất Không dịch, Taishō No. 21), Nhất Thiết Pháp Tự Tại Mâu Ni (一切法自在牟尼, Đại Nhật Kinh Sớ [大日經疏] 18, Nhất Hành [一行, 683-727] ghi, 20 quyển, Taishō No. 39), v.v. Đây là đấng giáo chủ bổn tôn trung tâm tuyệt đối của Mật Giáo, được xem như thể hiện toàn bộ chân lý của vũ trụ. Trong Đại Nhật Kinh Sớ giải thích rằng ánh sáng trí tuệ của Ngài trừ tối tăm, tỏa sáng khắp tất cả, là ánh sáng lớn không thể nào so sánh với thần mặt trời có phân biệt ngày đêm, phương hướng, tỏa chiếu khắp hết thảy mọi nơi, hoạt động từ bi của Ngài liên tục, vĩnh viễn bất diệt; vì vậy mới thêm vào chữ “đại (s: mahā, 大)” để thể hiện sự hơn hẳn, vượt trội lên tất cả. Đấng Đại Nhật Như Lai như vậy lấy thật tướng của vũ trụ làm Pháp Thân, hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều xuất sanh từ đức Phật này, và tất cả mọi chuyển động đều là hiển hiện cái đức của đấng Như Lai này. Đại Nhật Kinh (s: Mahāvairocanābhisaṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtrendra-rāja nāma dharmaparyāya, 大日經) cũng như Kim Cang Đảnh Kinh (s: Sarvatathāgatatattvasaṃgrahanāmamahāyāna-sūtra, 金剛頂經) là những kinh điển thuyết về cách thức hiển hiện các đức ấy trong mối quan hệ với rất nhiều đấng bổn tôn khác; đồ hình thể hiện Ngài là hai bộ Mạn Trà La của Thai Tạng Giới (胎藏界) và Kim Cang Giới (金剛界). Mật hiệu của Ngài là Biến Chiếu Như Lai. Về hình tượng, với tính cách là đấng Như Lai nhưng hình là Bồ Tát. (1) Kim Cang Giới Đại Nhật (金剛界大日): hình tháp, chủng tử là vaṃ, āḥ, oṃ; là đấng trung tôn của 8 hội, ngoài Lý Thú Hội (理趣會) vốn lấy Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵) làm đấng chủ tôn trong 9 hội, thuyết về kinh điển của hệ Kim Cang Đảnh Kinh. Trong quyển 3 của Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng Kinh (金剛頂瑜伽中略出念誦經, 4 quyển, Kim Cang Trí dịch, Taishō No. 18) có dạy rằng nên nghĩ tưởng đức Tỳ Lô Giá Na Phật, Ngài ngồi ngay trung ương của đàn, ngồi kiết già với oai đức lớn, sắc trắng như con thiên nga, hình như mặt trăng trong lành, hết thảy tướng hảo đều tròn đầy; trên đầu Ngài đội mũ báu, tóc rũ xuống, áo trời bằng tơ mỏng nhẹ buông trên vai. Trong quyển Trung của Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật Kinh (諸佛境界攝眞實經, 3 quyển, Bát Nhã [般若] dịch, Taishō No. 18) cũng có giải thích rằng trên đảnh đầu Ngài có mũ 5 thứ báu, trong mũ báu có 5 vị Hóa Phật ngồi kiết già; quán như vậy xong rồi, hãy bắt Kiên Lao Kim Cang Quyền Ấn (堅牢金剛拳印), Bồ Đề Dẫn Đạo Đệ Nhất Trí Ấn (菩提引導第一智印); nhờ gia trì ấn này mà có thể thọ ký quyết định chắc chắn chứng đắc vô thượng Bồ Đề. (2) Thai Tạng Giới Đại Nhật (胎藏界大日): hình Ngũ Luân Tháp (五輪塔) không có trang sức, chủng tử āḥ, a, khaṃ, ma; là đấng chủ tôn trung tâm của Trung Đài Bát Diệp Viện (中台八葉院), được thuyết trong hệ Đại Nhật Kinh; trong quyển 1 của Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì Kinh (大毘盧遮那成佛神變加持經, 7 quyển, gọi tắt là Đại Nhật Kinh, Taishō No. 18, Thiện Vô Úy [善無畏, 637-765] và Nhất Hành [一行, 683-727] cọng dịch) có đoạn rằng đấng Đại Nhật Thắng Tôn xuất hiện, sắc vàng ròng rực rỡ, trên đầu đội mũ búi tóc; có ánh sáng cứu thế viên mãn, xa lìa nhiệt não, trú trong Tam Muội. Trong Đại Nhật Kinh Sớ quyển 4 cũng giải thích thêm rằng Ngài lấy chữ A để chuyển thành thân của Đại Nhật Như Lai, giống như sắc màu vàng kim của Diêm Phù Đàn Tử Ma (閻浮檀紫摩), như tượng Bồ Tát, khắp thân phóng đủ loại hào quang. Ấn tướng của Ngài là Pháp Giới Định Ấn (法界定印) nhằm thuyết về sự xa lìa nhiệt não và trú trong Tam Muội. (3) Tứ Diện Đại Nhật (四面大日): trong Lược Xuất Niệm Tụng Kinh (中略出念誦經) quyển 1 có giải thích rằng từ ý nghĩa hiển đắc Tứ Trí của Như Lai nội chứng, đức Phật này thể hiện không y cứ vào phương diện nào cả. Đấng bổn tôn chính của Tháp Du Kỳ (瑜祇塔) trên Cao Dã Sơn cũng dựa trên cơ sở của đấng Tứ Diện Đại Nhật. Tại Nhật Bản, hiện tồn rất nhiều tôn tượng bằng tranh cũng như gỗ khắc của đức Đại Nhật Như Lai này.
(投子大同, Tōsu Daidō, 819-914): pháp từ của Thúy Vi Vô Học (翠微無學), con nhà họ Lưu (劉) ở Hoài Ninh (懷寧), Thư Châu (舒州, Tỉnh An Huy). Ông xuất gia hồi còn nhỏ, ban đầu đọc Kinh Hoa Nghiêm, nhân đó thấy rõ tánh hải, sau đến tham yết Thúy Vi và ngộ được huyền chỉ. Về sau, ông đi châu du đó đây, rồi trở về quê cũ và ẩn cư ở Đầu Tử Sơn (投子山). Ông có gặp Triệu Châu (趙州) ở Huyện Đồng Thành (桐城縣) và cùng nhau hàn huyên Phật pháp. Ông trú tại Đầu Tử Sơn hơn 30 năm trường. Đến ngày mồng 6 tháng 4 năm thứ 4 (914) niên hiệu Càn Hóa (乾化), ông ngồi an nhiên mà thoát hóa, hưởng thọ 96 tuổi, và được ban thụy hiệu là Từ Tế Đại Sư (慈濟大師).
(妙滿寺, Myōman-ji): ngôi chùa trung tâm của Hiển Bổn Pháp Hoa Tông (顯本法華宗), hiện tọa lạc tại Sakyō-ku (左京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Diệu Tháp Sơn (妙塔山). Tượng thờ chính là Đại Mạn Trà La (大曼陀羅). Chùa do Nhật Thập (日什, Nichijū) sáng lập vào năm 1389 (Khang Ứng [康應] nguyên niên) hay 1381 (Vĩnh Đức [永德] 3), và được chuyển đổi vị trí đến 3 lần. Chùa được liệt vào một trong 8 ngôi chùa trung tâm của Pháp Hoa Tông. Chuông chùa vốn và di vật của Đạo Thành Tự (道成寺) ở vùng Kỷ Châu (紀州, Kishū); nhưng do vì chùa này bị hỏa tai nên chuông được chuyển đến Diệu Mãn Tự. Khu đình viên của chùa được xếp vào một trong 3 khu đình viên nổi tiếng của kinh đô Kyoto, và được gọi là Vườn Tuyết (雪の庭). Khu vườn này do một người tín đồ của Pháp Hoa Tông tên Tùng Vĩnh Trinh Đức (松永貞德, 1571-1653) tạo nên trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704), dựa theo mô hình cảnh tuyết trên Tỷ Duệ Sơn. Vào năm 1968 (Chiêu Hòa [昭和] 43), chùa được dời về vị trí hiện tại. Chùa có 4 ngôi viện chính là Chánh Hành Viện (正行院), Pháp Quang Viện (法光院), Thành Tựu Viện (成就院) và Đại Từ Viện (大慈院).
(黃鐘, 黃鍾): âm thanh đầu tiên thuộc về Dương trong 12 Luật của âm nhạc được quy định từ thời xưa của Trung Quốc, và cũng là tên gọi khác của tháng 11 Âm Lịch. Âm này tương đương với âm Nhất Việt (壱越, ichikotsu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Trong A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa (阿彌陀經疏鈔事義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 425) có giải thích rõ rằng 6 âm thanh thuộc về Dương gồm Hoàng Chung (黃鍾), Thái Thốc (太簇), Cô Tẩy (姑洗), Nhuy Tân (蕤賓), Di Tắc (夷則) và Vô Xạ (無射); 6 âm thanh thuộc về Âm là Đại Lữ (大呂), Giáp Chung (夾鍾), Trọng Lữ (仲呂), Lâm Chung (林鐘), Nam Lữ (南呂) và Ưng Chung (應鍾). Từ đó có cụm từ Hoàng Chung hủy khí (黃鐘毀棄) ám chỉ người hiền bị bài xích, ruồng bỏ. Như trong bài Bốc Cư (卜居) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) của nhà Sở thời Chiến Quốc có đoạn: “Hoàng Chung hủy khí, ngõa phữu lôi minh, sàm nhân cao trương, hiền sĩ vô danh (黃鐘毀棄、瓦缶雷鳴、讒人高張、賢士無名, Hoàng Chung đem bỏ, bụng rỗng kêu to, kẻ hèn lên mặt, người hiền không tên).” Hay trong Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp (準提淨業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1077) quyển 3 có câu: “Hoàng Chung thập nhất nguyệt luật, đắc Đông khí cố, ngưng âm băng đống (黃鐘十一月律、得冬氣故、凝陰冰凍, Hoàng Chung tháng Mười Một luật, vì có khí Đông, đất trời băng đóng).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 có giải thích về Hoàng Chung rằng: “Hoàng Chung giả, thị âm dương chi trung, nhược thiên hữu Lục Khí, giáng vi Ngũ Vị, thiên hữu Lục Giáp, địa hữu Ngũ Tý, tổng thập nhất, nhi thiên địa chi số tất hỉ, cố dĩ lục vi trung. Hoàng Chung giả, thị Lục Luật chi thủ, cố dĩ Hoàng Chung vi danh. Hoàng giả, thổ chi sắc, dương khí tại địa trung, cố dĩ Hoàng vi xưng. Chung giả, động dã, tụ dã; dương khí tiềm động ư huỳnh tuyền, tụ dưỡng vạn vật, manh nha tương xuất, cố danh Hoàng Chung dã (黃鍾者、是陰陽之中、若天有六氣、降爲五味、天有六甲、地有五子、總十一、而天地之數畢矣、故以六爲中、黃鍾者、是六律之首、故以黃鍾爲名、黃者、土之色、陽氣在地中、故以黃爲稱、鍾者、動也、聚也、陽氣潛動於黃泉、聚養萬物、萌芽將出、故名黃鍾也, Hoàng Chung là ở trong âm dương, nếu trời có Sáu Khí, giáng xuống thành Năm Vị, trời có Sáu Giáp, đất có Năm Tý, tổng cọng là mười một, là đủ hết số của trời đất vậy, nên lấy số sáu làm chính. Hoàng Chung là đứng đầu trong Sáu Luật, nên lấy Hoàng Chung làm tên. Hoàng [màu vàng] là sắc màu của đất, khí dương ở trong đất, cho nên lấy màu vàng mà gọi tên. Chung nghĩa là động, là tích tụ; khí dương ngầm chuyển động dưới Suối Vàng, tích tụ và nuôi dưỡng vạn vật, mầm non sẽ nhú ra, nên có tên là Hoàng Chung vậy).”
(五方蠻雷使者): tên gọi vị sứ giả bộ hạ của Lôi Tổ trong Lôi Bộ. Từ này thấy xuất hiện trong Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh (九天應元雷聲普化天尊玉樞寶經) của Đạo Giáo: “Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan, phát hiệu thi lịnh, tật như phong hỏa (九天雷公將軍、五方雷公將軍、八方雲雷將軍、五方蠻雷使者、雷部兵使者、莫賺判官、發號施令、疾如風火, Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan ban hành hiệu lịnh, nhanh như gió lửa).” Hay trong Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (紫微玄都雷霆玉經) cũng có đoạn rằng: “Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Tam Giới, chưởng ác Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân ty lãnh trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần, thị vi chiêu lôi hịch đình chi ty; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân, thị vi tiết độ lôi đình chi sứ; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên, thị vi nhiếp hạt lôi đình chi thần; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân, thị vi lôi đình phong vũ chi chủ; trung hữu Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện Chi Thần, trung hữu Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả, thật ty kỳ lịnh, dụng Tán Kì quyền (北極紫微大帝統禦三界、掌握五雷、天蓬君、天猷君、翊聖君、玄武君分司領治、天罡神、河魁神、是爲召雷檄霆之司、九天流金火鈴大將軍、天丁力士、六丁玉女、六甲將軍、是爲節度雷霆之使、九天嘯命風雷使者、雷令使者、火令大仙火伯、風令火令風伯、四目皓翁、蒼牙霹靂大仙、是爲攝轄雷霆之神、火伯風霆君、風火元明君、雷光元聖君、雨師丈人仙君、是爲雷霆風雨之主、中有三五邵陽雷公火車鐵面之神、中有負風猛吏銀牙耀目飆火律令大神、狼牙猛吏大判官、五雷飛捷使者、五方雷公將軍、八方雲雷大將、五方蠻雷使者、三界蠻雷使者、九社蠻雷使者、實司其令、用贊其權, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Ba Cõi, chưởng quản Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân chia các ban mà thống trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần là các thần quản lý việc kêu sấm gọi sét; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân là sứ điều chỉnh sấm sét; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên là thần cai quản sấm sét; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân là chủ tể quản lý gió mưa, sấm sét; trong đó có Thần Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện, trong đó lại có Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả thật sự thi hành lịnh của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế để tán dương quyền lực Người).”
có tên gọi khác như Dương Nguyệt (陽月), Hợi Nguyệt (亥月), Cát Nguyệt (吉月), Lương Nguyệt (良月), Khôn Nguyệt (坤月), Chánh Dương Nguyệt (正陽月), Tiểu Dương Xuân (小陽春), Thần Vô Nguyệt (神無月), Thập Nguyệt (拾月), Thời Vũ Nguyệt (時雨月), Sơ Sương Nguyệt (初霜月), Ứng Chung (應鐘, 應鍾), Sơ Đông (初冬), Mạnh Đông (孟冬), Thượng Đông (上冬), Khai Đông (開冬), Huyền Đông (玄冬), Huyền Anh (玄英), Tiểu Xuân (小春), Đại Chương (大章), Thỉ Băng (始冰), Cực Dương (極陽), Dương Chỉ (陽止), Mạnh Đông (孟冬), Nguyên Đông (元冬), Tiểu Lương (小良), Ứng Nguyệt (應月), Lập Nguyệt (立月), Tiểu Hòa Xuân (小和春), Âm Nguyệt (陰月), Lộ Nguyệt (露月), Phi Âm Nguyệt (飛陰月). Một số câu hay cho tháng Mười như Mai truyền Xuân ý (梅傳春意, Mai truyền ý Xuân), Cúc ngạo sương chi (菊傲霜枝, Cúc ngạo nghễ cành sương), hàn uy vị chấn (寒威未振, uy lực cái lạnh chưa đến nỗi), ái cảnh sơ khai (愛景初開, cảnh đẹp mới bày), đấu tiêu chỉ Bắc (鬥杓指北, chuôi sao về hướng Bắc), nhật ảnh hồi Nam (日影回南, bóng mặt trời trở về hướng Nam), nhật lâm chiết mộc (日臨折木, mặt trời đến bẻ cây), Nam chi nhật noãn (南枝日暖, cành Nam mặt trời ấm), Đông các hàn khinh (東閣寒輕, gác Đông se lạnh), hòa khí như Xuân (和氣如春, khí trời ôn hòa như mùa Xuân). Một số từ dùng cho Lập Đông (立冬) như nguyên anh khải tú (元英啟秀, hoa cỏ khởi sắc), thanh nữ ty hàn (青女司寒, cô gái tự nhiên màu xanh làm chủ cái lạnh), sương lăng Mai nhụy (霜淩梅蕊, sương thấm nhụy hoa Mai), tuyết ngạo sương chi (雪傲霜枝, tuyết cười ngạo cành sương), Dương Xuân tương Hạ (陽春將夏, tháng Mười như Hè), Xuân ý phương xa (春意方賒, ý Xuân còn xa). Một số từ dùng cho tháng Mười nhuận như Tiểu Dương dư nhuận (小陽餘閏, tháng Mười còn nhuận), Dương Nguyệt tăng trưởng (陽月增長, tháng Mười kéo dài). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như phong mộc thanh phân (風木聲分, tiếng gió cây rã rời), tuyết sơn dung lão (雪山容老, dáng núi tuyết già cỗi).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập