Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hương Nghiêm »»
(眞常): chân thật thường trụ, dụng ngữ của Phật Giáo lẫn Đạo Giáo. Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō Vol. 19, No. 945) quyển 2 có đoạn: “Tánh chơn thường trung, cầu ư khứ lai, mê ngộ sanh tử, liễu vô sở đắc (性眞常中、求於去來、迷悟生死、了無所得, trong tánh chơn thường, tìm nơi đến đi, mê ngộ sống chết, biết không thể được).” Hay trong bài Xao Hào Ca (敲爻歌) của Lữ Nham (呂岩, 789-?) nhà Đường cũng có đoạn: “Đạt Thánh đạo, hiển chơn thường, hổ hủy đo binh cánh bất thương (達聖道、顯眞常、虎兕刀兵更不傷, đạt đến Thánh đạo, hiển bày chơn thường, cọp tê giác, đao binh cũng không làm tổn thương).” Hoặc trong bức Thượng Chấp Chính Thư (上執政書) của Phạm Trọng Yêm (范仲淹, 989-1052) nhà Tống lại có đoạn: “Phù Thích Đạo chi thư, dĩ chơn thường vi tánh, dĩ thanh tịnh vi tông (夫釋道之書、以眞常爲性、以清淨爲宗, phàm sách của Phật Giáo và Đạo Giáo, lấy chơn thường làm tánh, lấy sự thanh tịnh làm tông).” Bài tán Tâm Nhiên rất phổ biến trong Thiền môn cũng đề cập đến chơn thường như: “Tâm nhiên Ngũ Phận, phổ biến thập phương, Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, tỷ quán thiệt nan lường, thụy ái tường quang, kham hiến pháp trung vương (心燃五分、普遍十方、香嚴童子悟眞常、鼻觀實難量、瑞靄祥光、堪獻法中王, tâm nhen Năm Món, biến khắp mười phương, Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, mũi quán thật khó lường, khí tốt hào quang, dâng cúng đấng pháp vương).”
(慧忠, Echū, ?-775): người vùng Chư Kỵ (諸曁, thuộc Huyện Chư Kỵ, Phủ Thiệu Hưng, Tỉnh Triết Giang), Việt Châu (越州), họ là Nhiễm (冉). Lúc còn nhỏ ông theo Lục Tổ Huệ Năng (慧能) học đạo, và sau kế thừa dòng pháp của vị nầy. Sau khi Huệ Năng qua đời, ông đi tham bái các tòng lâm, từng đi qua Ngũ Lãnh (五嶺), La Phù (羅浮, thuộc Tỉnh Quảng Đông), Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang), Thiên Mục (千目, Tỉnh Triết Giang), cuối cùng đi vào trong hang núi vùng Nam Dương (南陽, Tỉnh Hà Nam), và lưu lại đó suốt trong vòng 40 năm trường không hề hạ sơn. Đến năm thứ 2 (761) niên hiệu Thượng Nguyên (上元) nhà Đường, vua Đường Túc Tông (肅宗) nghe được thanh danh của ông, cho vị sắc sứ Trung Triều Tấn (中朝進) mang sắc chỉ đến triệu ông lên kinh đô và lấy lễ tôn ông làm thầy. Ban đầu ông trú tại Tây Thiền Viện ở Thiên Phước Tự (千福寺), nhưng sau vua Đại Tông (代宗) ban chiếu chỉ cho ông chuyển đến Quang Trạch Tự (光宅寺). Cả hai vị vua đều rất trọng đãi ông, nhưng Huệ Trung lại quen sống cuộc đời đạm bạc, tự nhiên, thường giao du với Nam Nhạc Huệ Tư (南岳慧思). Theo lời thỉnh cầu, ông kiến tạo Thái Nhất Kiến Xương Tự (太一建昌寺) ở Võ Đương Sơn (武當山) thuộc Quân Châu (均州), rồi sáng lập ra Hương Nghiêm Kiến Thọ Tự (香嚴建壽寺) nơi hang động mà ông từng ẩn tu, mỗi nơi ông đều thỉnh về một bộ kinh tạng để tôn thờ. Cùng với Hành Tư (行思), Hoài Nhượng (懷讓), Thần Hội (神會), Huyền Giác (玄覺), và ông là 5 bậc tông tượng lớn của môn hạ Huệ Năng. Mặc dầu Thiền phong của ông có nét đặc trưng khác với bốn vị kia, nhưng ông đã tạo nên sắc thái mới cho giới tôn giáo đương thời. Cùng với Thần Hội mà cử dương Thiền phong của mình ở phương Bắc, ông đả kích nhóm Đạo Nhất (道一) xiển bá Thiền phong ở phương Nam. Thiền phong của ông lấy Thân Tâm Nhất Như (身心一如), Tức Tâm Tức Phật (卽心卽佛) làm yếu chỉ, và bắt đầu tuyên xướng tư tưởng Vô Tình Thuyết Pháp (無情說法). Thêm vào đó, ông còn phê phán việc các Thiền giả phương nam xem nhẹ kinh điển mà tùy ý thuyết pháp; trái lại ông nghiên cứu kinh luật luận một cách rộng rãi, chú trọng đến giáo học. Ông thị tịch vào ngày mồng 9 tháng 12 năm thứ 10 (775) niên hiệu Đại Lịch (大曆). Theo chiếu chỉ nhà vua, ông được an táng tại Hương Nghiêm Tự (香嚴寺). Do vì ông đã từng sống tại Nam Dương (南陽), nên người đời thường gọi ông là Nam Dương Huệ Trung (南陽慧忠). Vua Đại Tông ban cho ông thụy hiệu là Đại Chứng Quốc Sư (大証國師).
(香嚴): có hai nghĩa. (1) Tên vị thiên tử, đồng tử trong kinh điển Phật Giáo. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475) quyển Hạ có câu: “Hữu chư thiên tử, giai hiệu Hương Nghiêm (有諸天子、皆號香嚴, có các thiên tử, đều hiệu Hương Nghiêm).” Hay trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō Vol. 19, No. 945) quyển 5 có đoạn Hương Nghiêm đồng tử bạch Phật rằng: “Kiến chư Tỳ Kheo, thiêu trầm thủy hương, hương khí tịch nhiên, lai nhập tỷ trung, ngã quán thử khí, phi mộc phi không, phi yên phi hỏa, khứ vô sở trước, lai vô sở tùng, do thị ý tiêu, phát minh vô lậu, Như Lai ấn ngã đắc Hương Nghiêm hiệu (見諸比丘、燒沉水香、香氣寂然、來入鼻中、我觀此氣、非木非空、非煙非火、去無所著、來無所從、由是意銷、發明無漏、如來印我得香嚴號, con thấy các Tỳ Kheo, đốt loại trầm hương, hương khí lặng lẽ, xông vào trong mũi, con quán khí này, chẳng gỗ chẳng không, chẳng khói chẳng lửa, đi không nơi bám, đến không chỗ theo, do vậy ý tiêu, phát sáng vô lậu, Như Lai ấn chứng cho con được hiệu là Hương Nghiêm).” Trong bài tán Tâm Nhiên có đề cập đến Hương Nghiêm đồng tử: “Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, tỷ quán thiệt nan lường (香嚴童子悟眞常、鼻觀實難量, Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, mũi quán thật khó lường).” (2) Tên của vị tăng sống vào thời nhà Đường, pháp hiệu là Trí Nhàn (智閑, ?-898); xuất thân vùng Thanh Sơn (青州, Sơn Đông), pháp từ của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐). (xin tham khảo thêm mục Hương Nghiêm Trí Nhàn)
(潙山靈祐, Izan Reiyū, 771-853): họ là Triệu (趙), xuất thân vùng Trường Khê (長溪), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), vì ông sống ở Quy Sơn (潙山) nên được gọi là Quy Sơn Linh Hựu. Ông cùng với đệ tử Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (仰山慧寂) cử xướng Thiền phong rộng rãi, pháp hệ của họ được gọi là Quy Ngưỡng Tông (潙仰宗) và Linh Hựu là vị tổ của tông này. Năm lên 15 tuổi, ông xuất gia, học kinh luật ở Long Hưng Tự (龍興寺) vùng Hàng Châu (杭州, thuộc Tỉnh Triết Giang), rồi đến nhập môn với Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海) ở Hồng Châu (洪州, Tỉnh Giang Tây) và kế thừa dòng pháp của vị này. Cùng đến tham học với ông lúc bấy giờ có Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運), cả hai đã làm chấn động Thiền giới thời nhà Đường. Sau Linh Hựu đến dừng chân trú tại Đại Quy Sơn (大潙山), nỗ lực cử xướng tông phong của mình và tạo được nhiều bậc long tượng xuất chúng. Đệ tử đắc pháp của ông có đến 41 người, đặc biệt trong đó Ngưỡng Sơn Huệ Tịch là nhân vật xuất sắc nhất. Bên cạnh đó còn có Hương Nghiêm Trí Nhàn (香嚴智閑), Diên Khánh Pháp Đoan (延慶法端), Kính Sơn Hồng Nhân (徑山洪諲), Linh Vân Chí Cần (靈雲志勤), Vương Kính Sơ Thường Thị (王敬初常侍), v.v. Ông thị tịch vào ngày mồng 9 tháng giêng năm thứ 7 niên hiệu Đại Trung (大中), hưởng thọ 83 tuổi đời và 64 hạ lạp, được ban cho thụy hiệu là Đại Viên Thiền Sư (大圓禪師). Trước tác của ông có Quy Sơn Cảnh Sách (潙山警策) 1 quyển, Đàm Châu Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư Ngữ Lục (潭州潙山靈祐禪師語錄) 1 quyển.
(疎山匡仁, Sozan Kyōnin, 837-909): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, còn gọi là Quang Nhân (光仁), người vùng Cam Dương (淦陽), Lô Lăng (廬陵, Tỉnh Giang Tây), họ Lý (李). Ông xuất gia lúc nhỏ, chuyên nghiên tầm kinh luật luận, đã từng tham vấn Hương Nghiêm Trí Nhàn (香嚴智閑), v.v., và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Động Sơn Lương Giới (洞山良价). Sau đó, ông cũng có đến tham học với Quy Sơn Đại An (潙山大安), và đến năm thứ 3 (883) niên hiệu Trung Hòa (中和), ông bắt đầu khai mở đạo tràng thuyết pháp giáo hóa tại Sơ Sơn (疎山) vùng Lâm Xuyên (臨川), Phủ Châu (撫州, Tỉnh Giang Tây). Vào năm thứ 6 niên hiệu Thiên Hựu (天祐), ông thị tịch, hưởng thọ 73 tuổi.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập