Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hựu Khoái »»
(秘藏寶鑰, Hizōhōyaku): 3 quyển, gọi tắt là Bảo Thược (寶鑰), Lược Luận (略論), tác phẩm của Không Hải (空海, Kūkai). Thể theo sắc mệnh của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764), trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Trường (天長, 824-833), những bậc học tượng của các tông phái dâng trình lên triều đình Tông nghĩa của họ; Không Hải thì viết Thập Trụ Tâm Luận (十住心論), sau đó tóm tắt nội dung của tác phẩm đó và viết nên bộ này. Với ý nghĩa của đề tác phẩm là chìa khóa khai mở tận cùng của Phật tánh vốn có đầy đủ trong chúng sanh, lấy Đại Nhật Kinh (大日經), Bồ Đề Tâm Luận (菩提心論), Thích Ma Ha Diễn Luận (釋摩訶衍論), v.v., trước tác này triển khai pháp môn của Thập Trú Tâm (十住心) giống như Thập Trụ Tâm Luận, giảm thiểu việc trích dẫn các kinh luận đến mức tối thiểu, giản lược 14 câu vấn đáp, giải thích sự sâu cạn của cảnh giới trú tâm thứ 9 mà thôi. Sách chú thích của tác phẩm này có rất nhiều như Văn Đàm Sao (聞談鈔, 4 quyển) của Đạo Phạm (道範), Ngu Thảo (愚艸, 5 quyển) của Lại Du (賴瑜), Bí Tạng Bảo Thược Sao (秘藏寶鑰鈔, 6 quyển) của Cảo Bảo (杲寶), Bí Tạng Bảo Thược Sao (秘藏寶鑰鈔, 40 quyển) của Hựu Khoái (宥快), Khai Tông Ký (開宗記, 10 quyển) của Huệ Hi (慧曦), v.v.
(高野山, Kōyasan): linh địa của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, được bao bọc bởi ngọn núi cao trên dưới 1000 mét, nằm phía đông bắc Wakayama-ken (和歌山縣), tọa lạc tại Kōya-chō (高野町), Ito-gun (伊都郡). Vào năm 816 (niên hiệu Hoằng Nhân [弘仁] thứ 7), Không Hải Đại Sư (空海大師, Kūkai Daishi) thọ ân tứ của triều đình, lấy nơi đây làm đất nhập định cho bản thân mình và sáng lập ra ngôi Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji), ngôi chùa trung tâm của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản. Cao Dã Sơn còn là tên gọi thông thường của Kim Cang Phong Tự. Không Hải Đại Sư đã nhập diệt tại thánh địa này. Ngôi già lam được hình thành theo dạng thức độc đáo của Mật Giáo, phối trí ở hậu phương đông tây lấy Giảng Đường và Trung Môn làm trục, có ngôi Đại Tháp (tức Căn Bổn Đại Tháp) và Tây Tháp, tượng trưng cho vũ trụ theo hai bộ Thai Tạng Giới (胎藏界, Taizōkai) và Kim Cang Giới (金剛界, Kongōkai). Sau khi Không Hải qua đời, thánh địa này đi đến tình trạng suy vong vì quá cách xa với kinh đô; nhưng từ khoảng giữa thế kỷ thứ 10 trở đi, tín ngưỡng cho rằng Không Hải chỉ nhập định thôi, vẫn còn sống và cứu độ chúng sanh, bắt đầu xuất hiện, cho nên tầng lớp quý tộc cũng như hoàng tộc liên tục lên núi tham bái, nhờ vậy nơi đây hưng thịnh trở lại. Vào khoảng đầu thế ký 15, nhờ sự xuất hiện của các bậc học tượng như Hựu Khoái (宥快, Yūkai), Trường Giác (長覺, Chōkaku), v.v., giáo học của Cao Dã Sơn được hình thành có hệ thống và truyền thống đó vẫn được kế thừa cho đến ngày nay. Vào năm 1872 (niên hiệu Minh Trị [明治] thứ 5), luật cấm không cho người nữ lên núi được giải bỏ, dần dần các cư sĩ tại gia lên núi lập nghiệp. Hiện tại nơi đây hình thành một thị trấn tên Môn Tiền Đinh (門前町, Monzen-machi) có 117 ngôi tự viện, các cơ quan giáo dục như trường Đại Học, Trung Học và rất nhiều hiệu buôn. Mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu người đến tham bái thánh địa này.
(興雅, Kōga, ?-1387): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nam Bắc Triều, húy là Hưng Nhã (興雅), hiệu Thiếu Tướng Tăng Chánh (少將僧正), Tể Tướng A Xà Lê (宰相阿闍黎); con của Đằng Nguyên Thật Bác (藤原實博). Ông thọ pháp Quán Đảnh với Long Nhã (隆雅) ở An Tường Tự (安祥寺, Anjō-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro); đến năm 1351 thì làm Quyền Luật Sư (權律師), năm 1357 là Quyền Thiếu Tăng Đô (權少僧都). Vào năm 1361, ông được thăng chức lên Đại Tăng Đô (大僧都) và trở thành trú trì đời thứ 24 của An Tường Tự. Năm 1370, ông được tiến cử chức Quyền Tăng Chánh (權僧正), rồi năm sau ông dâng lời tấu thỉnh xin truy tặng chức Đại Tăng Chánh (大僧正) cho Long Nhã và được hứa khả. Vào năm 1377, ông trao truyền dòng pháp cho Hựu Khoái (宥快) của Bảo Tánh Viện (寶性院) trên Cao Dã Sơn; từ đó trở về sau, Dòng An Tường Tự (安祥寺) được lưu bố rộng rãi trên Thánh địa này.
(長覺, Chōkaku, 1340-1416): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ của Thọ Môn Học Phái (壽門學派) thuộc Cao Dã Sơn, húy là Trường Giác (長覺), tên lúc nhỏ là Phạm Thiên Hoàn (梵天丸), tự là Bổn Trí Phòng (本智房); xuất thân vùng Xuất Vũ (出羽, Dewa), con của An Đạt Thời Trọng (安達時重). Năm 1352, ông theo xuất gia với Trường Tuyên (長宣) ở vùng Xuất Vũ, rồi đến năm 1356 thì theo nhập chúng ở Đông Thiền Viện (東禪院) trên Cao Dã Sơn; học Tất Đàm với Nghĩa Tuyên (義宣), cũng như giáo nghĩa của các dòng phái khác như Dòng Trung Viện với Lại Viên (賴圓), Dòng Quảng Trạch với Tuyên Hựu (賴祐), v.v. Sau đó, ông còn học cả Thiền, thần đạo và kế thừa Dòng Tây Viện từ Tuấn Dự (俊譽) ở Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院) của vùng Liêm Thương. Vào năm 1403, ông làm Thủ Tòa của Vô Lượng Thọ Viện, hình thành nên Thọ Môn Học Phái (tức Bất Nhị Môn Phái [不二門派]), cùng sánh đôi với Bảo Môn Học Phái (寶門學派, tức Nhi Nhị Môn Phái [而二門派]) của Hựu Khoái (宥快) ở Bảo Tánh Viện (寶性院). Như vậy, lúc bấy giờ tăng lữ trong sơn môn phân chia thành hai phái rõ rệt, và chính ông đã tạo nên một thời kỳ hưng thịnh tột độ cho Cao Dã Sơn. Tương truyền ông là phân thân của Không Hải Đại Sư. Đệ tử phú pháp của ông có Trường Dự (長譽), Trường Nhiệm (長任), Thắng Nghĩa (勝義), v.v. Trước tác của ông lưu lại cho hậu thế có Đại Sớ Chỉ Nam Sao (大疏指南鈔) 9 quyển, Thích Luận Thập Nhị Sao Tư Ký (釋論十二鈔私記) 10 quyển, Tất Đàm Quyết Trạch Sao (悉曇決擇鈔) 5 quyển, Tất Đàm Tự Ký Sao (悉曇字記鈔) 5 quyển, Phàm Thánh Lục Đại Nguyên Sự (凡聖六大元事), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập