Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Hãy cống hiến cho cuộc đời những gì tốt nhất bạn có và điều tốt nhất sẽ đến với bạn. (Give the world the best you have, and the best will come to you. )Madeline Bridge
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hưng Viên »»
(近衛政家, Konoe Masaie, 1444-1505): nhà công khanh, Quan Bạch và Thái Chính Đại Thần từ giữa thời đại Thất Đinh cho đến đầu thời đại Chiến Quốc; tên là Hà (霞); hiệu Hậu Pháp Hưng Viện (後法興院); là con trai thứ của Cận Vệ Phòng Tự (近衛房嗣, Konoe Fusatsugu). Anh là Cận Vệ Giáo Cơ (近衛敎基, Konoe Norimoto); các em trai đều là Tăng sĩ như Đạo Hưng (道興), Tăng Vận (增運), Chính Thâm (政深), Chính Biện (政辨). Vào năm 1462 (Khoan Chánh [寛正] 3), nhân khi người anh Giáo Cơ qua đời, ông kế thừa dòng họ Cận Vệ. Từ đó về sau, ông được bổ nhiệm làm các chức quan như Tùng Tam Vị (從三位), Hữu Cận Vệ Trung Tướng (右近衛中將). Đến năm 1467 (Ứng Nhân [應仁] nguyên niên), ông làm chức Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言); năm 1472 (Văn Minh [文明] 4) thì làm Chánh Nhị Vị Nội Đại Thần (正一位內大臣). Vào năm 1479 (Văn Minh 11), sau khi vụ Loạn Ứng Nhân chấm dứt, ông được bổ nhiệm làm Quan Bạch Tả Đại Thần (關白左大臣). Bốn năm sau, ông từ chức Quan Bạch và được thăng chức Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Sau đó, ông lại từ quan và qua đời ở độ tuổi 62. Ông có để lại bộ nhật ký Hậu Pháp Hưng Viện Ký (後法興院記), rất có giá trị về mặt sử liệu để biết được những thông tin về triều đình vào giữa thời Thất Đinh như thế nào.
(鐘、鍾): chuông; tên một loại pháp khí được dùng trong các tự viện Phật Giáo để báo thì giờ, tập trung tăng chúng. Tại Ấn Độ, khi triệu tập tăng chúng, người ta thường đánh loại Kiền Chùy (s: ghaṇṭā, 揵椎) bằng gỗ. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 24 có ghi lại việc đức Phật dạy tôn giả a nan đánh Kiền Chùy để tập trung đại chúng: “Nhữ kim ư lộ địa tốc kích Kiền Chùy, sở dĩ nhiên giả ? Kim thất nguyệt thập ngũ nhật thị thọ tuế chi nhật (汝今於露地速擊揵椎、所以然者、今七月十五日是受歲之日, các ngươi nay ở nơi đất trống mau đánh Kiền Chùy, vì cớ sao vậy ? Vì hôm nay ngày 15 tháng 7 là ngày nhận thêm tuổi).” Chuông có hai loại chính: Phạn Chung (梵鐘) và Hoán Chung (喚鐘). (1) Phạn Chung, còn gọi là Đại Chung (大鐘, chuông lớn), Điếu Chung (釣鐘), Chàng Chung (撞鐘), Hồng Chung (洪鐘), Kình Chung (鯨鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), v.v.; thông thường cao khoảng 150 cm, đường kính khoảng 60 cm; được treo trên lầu chuông, dùng để triệu tập đại chúng, hay để báo thời khắc sáng tối. Phần trên của Phạn Chung có đầu rồng, được gọi là điếu thủ (釣手, tay câu). Phần bên dưới có hình hai tòa hoa sen tương đối, được gọi là bát diệp (八葉, tám cánh). Trong Thiền lâm, chuông này được dùng để thông báo thời gian Tọa Thiền vào đầu đêm, nên có tên là Định Chung (定鐘); hay để thông báo đại chúng vào Tăng Đường, được gọi là Nhập Đường Chung (入堂鐘). Về ngữ nghĩa Bồ Lao, Lý Thiện (李善, 630-689), học giả thời nhà Đường, có chú dẫn lời của Tiết Tông (薛綜, ?-243) nhà Ngô thời Tam Quốc rằng: “Hải trung hữu đại ngư viết Kình, hải biên hựu hữu thú danh Bồ Lao; Bồ Lao tố úy Kình, Kình ngư kích Bồ Lao, triếp dại minh; phàm chung dục linh thanh đại giả, cố tác Bồ Lao ư thượng, sở dĩ chàng chi giả vi Kình ngư (海中有大魚曰鯨、海邊又有獸名蒲牢、蒲牢素畏鯨、鯨魚擊蒲牢、輒大鳴、凡鐘欲令聲大者、故作蒲牢於上、所以撞之者爲鯨魚, trong biển có con cá lớn gọi là Kình, ven biển lại có con thú tên là Bồ Lao; Bồ Lao chẳng sợ cá Kình, cá Kình đánh Bồ Lao, thường tạo ra tiếng vang lớn; hễ chuông muốn có âm thanh lớn thì nên tạc hình con Bồ Lao lên trên, vì vậy vật để đánh chuông là cá Kình).” Cho nên, đùi đánh chuông thường được khắc hình con cá Kình. Theo Thăng Am Ngoại Tập (升庵外集) quyển 95 của Dương Thận (楊愼, 1488-1559) nhà Minh cho biết rằng tục truyền rồng sinh ra chín con, con thứ ba tên là Bồ Lao, hình như con rồng nhưng nhỏ; và nay chính là hình con rồng trên đầu chuông. (2) Hoán Chung, còn gọi là Bán Chung (半鐘, chuông bằng một nữa), Tiểu Chung (小鐘, chuông nhỏ); thông thường cao khoảng 60 đến 80 cm, dùng để thông báo bắt đầu tiến hành pháp hội, v.v., nên được gọi là Hành Sự Chung (行事鐘). Tại Trung Quốc, từ xưa đã có chế tạo chuông bằng đồng, nhưng không rõ nguồn gốc. Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 28 cho biết rằng vào năm 566 (Thiên Hòa [天和] thứ 5) nhà Bắc Chu, có bài Chu Võ Đế Nhị Giáo Chung Minh (周武帝二敎鐘銘); Đường Thái Tông Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh (唐太宗大興善寺鐘銘); Đường Đông Cung Hoàng Thái Tử Tây Minh Tự Chung Minh (唐東宮皇太子西明寺鐘銘), v.v. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, Truyện Trí Hưng (智興傳), vào năm 609 (Đại Nghiệp [大業] thứ 5) nhà Tùy, trong khi trú tại Thiền Định Tự (禪定寺) ở Kinh Sư, Trí Hưng đã từng giữ chức Thời Chung. Theo thông tin trên, việc tạo lập Phạn Chung từ thời Bắc Chu trở đi đã bắt đầu thịnh hành. Ngoài ra, chuông ở Hàn Sơn Tự (寒山寺), Tô Châu (蘇州), nhờ bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) của thi nhân Trương Kế (張繼, ?-779) nhà Đường mà trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào tác phẩm Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký (入唐求法巡禮記) quyển 3 của Viên Nhân (圓仁, Ennin, 794-864), vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường cầu pháp, tại Ngũ Đài Sơn (五臺山) có hang lầu chuông với chuông vàng, lầu báu, là nơi Bồ Tát Văn Thù thường thị hiện. Tại Nhật Bản, hiện còn lưu lại một số chuông được đưa từ Trung Quốc vào, như chuông ở Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) vùng Phong Tiền (豐前, Buzen); ở Ba Thượng Cung (波上宮, Nami-no-uegū) vùng Lưu Cầu (琉球, Ryūkyū); ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), v.v.; chuông hiện tồn tối cổ được đúc vào năm 698 (Văn Võ Thiên Hoàng [文武天皇] thứ 2), và bảo lưu tại Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Kyoto. Chuông đối với việc tu hành có công đức rất lớn và đóng vài trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của tín đồ Phật Giáo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, phần Chuông, có giải thích rằng: “Đại Chung, tùng lâm hiệu lịnh tư thỉ dã, hiểu kích tắc phá trường dạ cảnh thùy miên, mộ kích tắc giác hôn cù sơ minh muội (大鍾、叢林號令資始也、曉擊則破長夜警睡眠、慕擊則覺昏衢疏冥昧, chuông lớn là vật khởi đầu hiệu lịnh trong tùng lâm; đánh buổi sáng thì phá tan sự đêm dài, đánh thức ngủ say; đánh buổi tối thì làm tỉnh thức con đường mê muội, tối tăm).” Trong Sa Di Luật Nghi Tỳ Ni Nhật Dụng Hợp Tham (沙彌律儀毗尼日用合參, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1120) lại dạy rằng: “Hồng chung chấn hưởng giác quần mê, thanh biến thập phương vô lượng độ, hàm thức quần sanh phổ văn tri, bạt trừ chúng sanh trường dạ khổ, Lục Thức thường hôn chung dạ khổ, vô minh bị phú thức mê tình, tĩnh dạ văn chung khai giác ngộ, di thần tịnh sát đắc thần thông (洪鐘震響覺群迷、聲遍十方無量土、含識群生普聞知、拔除眾生長夜苦、六識常昏終夜苦、無明被覆識迷情、靜夜聞鐘開覺悟、怡神淨剎得神通, Hồng chung vang vọng tỉnh quần mê, tiếng khắp mười phương vô lượng cõi, nhận thức quần sanh khắp nghe biết, đoạn trừ chúng sanh đêm dài khổ, Sáu Thức thường mờ suốt đêm khổ, vô minh che lấp cõi mê tình, đêm lắng nghe chuông bày giác ngộ, hân hoan trong sạch chứng thần thông).” Lại nữa, trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 4 có dẫn lời dạy của Kinh Tăng Nhất A Hàm rằng: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tinh đắc đình chỉ (若打鐘時、一切惡道諸苦、幷得停止, nếu khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ của đường ác, đều được dừng lại).” Trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳, Taishō Vol. 50, No. 2058) quyển 5 có ghi lại câu chuyện quốc vương nước Nguyệt Chi (月支) là Chiên Đàn Kế Nặc Tra (栴檀罽昵吒) cùng giao chiến với nước An Tức (安息), sát hại 9 ức người. Do vì nhân ác đó, nhà vua sau khi chết bị đọa làm thân con cá có ngàn cái đầu, vòng kiếm quay quanh thân chém đứt từng đầu, nhưng rồi lại sanh ra đầu khác; đau đớn vô cùng, không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, mỗi khi nghe tiếng chuông thì vòng kiếm kia dừng lại; cho nên nhà vua cầu xin vị La Hán thường xuyên đánh chuông. Vị này thương xót, đánh chuông liên tục trong vòng 7 ngày thì không còn chịu khổ nữa. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, phần Đường Kinh Sư Đại Trang Nghiêm Tự Thích Trí Hưng Truyện (唐京師大莊嚴寺釋智興傳) có đề cập đến câu chuyện người anh của sư trên đường cùng với nhà vua đến Bành Thành (彭城) thì đột nhiên qua đời giữa đường. Người này về báo mộng cho vợ biết rằng mình đã chết, nay đọa xuống Địa Ngục, chịu khổ báo vô cùng, nên bảo rằng: “Lại dĩ kim nguyệt sơ nhật mông Thiền Định Tự tăng Trí Hưng minh chung phát thanh hưởng chấn Địa Ngục, đồng thọ khổ giả nhất thời giải thoát (賴以今月初日蒙禪定寺僧智興鳴鍾發聲響振地獄、同受苦者一時解脫, vào ngày mồng một tháng này, nhờ tăng sĩ Trí Hưng ở Thiền Định Tự đánh chuông phát ra tiếng vang chấn động Địa Ngục, khiến cho người chịu khổ nhất thời được giải thoát).” Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 ghi lại câu chuyện vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅) nhận lời thỉnh cầu của con rồng ác, kiến lập chùa chiền, đánh chuông và nhờ đó mà tâm sân hận của rồng được tiêu tan. Vì tầm quan trọng của tiếng chuông như vậy, trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) trích dẫn lời dạy của Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喻經) về thái độ của người nghe chuông: “Sở tại văn chung thanh, ngọa giả tất tu khởi, hiệp chưởng phát thiện tâm, hiền thánh giai hoan hỷ (所在聞鐘聲、臥者必須起、合掌發善心、賢聖皆歡喜, nơi mình nghe tiếng chuông, người nằm phải nên dậy, chấp tay phát thiện tâm, hiền thánh đều hoan hỷ).” Cũng điển tịch này có dẫn lời của cổ đức rằng: “Văn chung ngọa bất khởi, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, hậu thế đọa xà thân (聞鐘臥不起、護法善神嗔、現前減福慧、後世墮蛇身, nghe chuông nằm không dậy, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, đời sau đọa rắn thân).” Trong Thiền môn có các bài kệ nguyện chuông rất phổ biến như: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽暗悉皆聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, nghiệp trần trong sạch chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác).”; hay “Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sinh, ly Địa Ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sinh (聞鐘聲煩惱輕、智慧長菩提生、離地獄出火坑、願成佛度眾生, nghe tiếng chuông phiền não tan, trí huệ lớn bồ đề sanh, lìa Địa Ngục ra hỏa than, nguyện thành Phật độ chúng sanh).” Theo nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có đoạn: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來往久、露井每同觀、白石抱新甃、蒼苔依舊欄、空瓶宛轉下、長綆轆轤盤、境界因心淨、泉源見底寒、鐘鳴時灌頂、對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊): “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天、江楓漁火對愁眠、姑蘇城外寒山寺、夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊、更宿招提境、陰壑生虛籟、月林散清影、天闕象緯逼、雲臥衣裳冷、欲覺聞晨鐘、令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟、入林濯幽泉、鳴鐘生道心、暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰、亂藤高竹水聲深、田夫就餉還依草、野雉驚飛不過林、齋沐暫思同靜室、清羸已覺助禪心、寂寞日長誰問疾、料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去、鐘撞大夢醒、茫茫山下事、滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) cũng có đề cập đến tiếng chuông: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆、花自飄零日自曛、空有慈悲隨物念、已無蹤跡在人群、迎秋日色簷前見、入夜鐘聲竹外聞、笑指白蓮心自得、世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, ?-761) cũng vậy: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺、數里入雲峰、古木無人逕、深山何處鐘、泉聲咽危石、日色冷青松、薄暮空潭曲、安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một đại hồng chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại (張岱, ?-?) nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛、紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông, như trong bài Cảnh Chùa Đọi của Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835-1909) có đoạn: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, sư cụ nằm chung với khói mây, chuông trưa vẳng tiếng người không biết, trâu thả sườn non ngủ gốc cây.” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) cũng có đoạn diễn tả như sau: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không (綠柳垂垂隠梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng).” Tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”; hay “Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.” Hòa Thượng Giác Tiên (1880-1936), Tổ khai sáng Chùa Trúc Lâm (竹林寺), Huế, có câu thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月、繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.”
(大瀛, Daiei, 1760-1804): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Đại Doanh (大瀛), Quách Lượng (廓亮); tên lúc nhỏ là Ki Chi Tấn (幾之進), Thị Đại (示大); tự là Tử Dung (子容); thụy hiệu Chơn Thật Viện (眞實院), hiệu là NHưng Viên (芿園), Thiên Thành (天城), Kim Cang Am (金剛庵), Thoại Hoa (瑞華), Tịch Nhẫn (寂忍), Bảo Chơn (葆眞), Lãng Nhiên (朗然), Viên Hải (圓海), Bảo Lương (寶梁); xuất thân Trung Đồng Hạ (中筒賀, Nagatsutsuga), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima [廣島]); con trai thứ 3 của Lâm Dưỡng Triết (林養哲). Ông theo hầu Tuệ Vân (慧雲) ở Báo Chuyên Phường (報專坊), vùng An Nghệ, tu học giáo thuyết Chơn Tông và kiêm học cả ngoại điển. Sau ông từ bỏ việc thế tục, chuyển đến trú tại Thắng Viên Tự (勝圓寺) ở trong vùng, mở trường Tư Thục ở vùng Quảng Đảo (廣島, Hiroshima) và tận lực giáo dục chúng môn đệ. Vào năm 1797, ông đề xuất thư chất vấn lên trường Học Lâm về việc Năng Hóa Trí Động (能化智洞) chủ trương thuyết Dục Sanh Quy Mạng (欲生歸命), rồi viết cuốn Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍), Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) để làm sáng tỏ Tông nghĩa chánh thống. Năm 1804, vâng mệnh chính quyền Mạc Phủ, ông cùng với nhóm Đạo Ẩn (道隱) xuống Giang Hộ, tiến hành đối luận với Trí Động. Trước tác của ông có Chơn Tông An Tâm Thập Luận (眞宗安心十論) 2 quyển, Hoành Siêu Trực Đạo Kim Cang Phê (橫超直道金剛錍) 3 quyển, Luận Hành Thiên (論衡篇) 2 quyển, Vãng Sanh Luận Chú Nguyên Yếu (徃生論註原要) 6 quyển, v.v.
(s, p: saṅghārāma, j: garan, 伽藍): âm dịch là Tăng Già Lam Ma (僧伽藍摩), gọi tắt là Tăng Già Lam (僧伽藍); ý dịch là Tăng Viên (僧園), Chúng Viên (眾園), Tăng Viện (僧院), v.v., là nơi thanh tịnh, vắng vẻ phù hợp cho chư tăng tập trung tu hành. Về sau, từ này được dùng để ám chỉ kiến trúc tự viện; mỗi khi tự viện nào hoàn thành đều có đủ 7 kiến trúc chính; từ đó có tên gọi Thất Đường Già Lam (七堂伽藍). Tên gọi cũng như tổ chức của Thất Đường Già Lam này có khác nhau ít nhiều tùy theo tông phái hay thời đại. Trong Thiền Tông, có 7 kiến trúc chính, gồm: (1) Điện Phật (佛殿, nơi an trí tượng thờ chính, cùng với tháp là kiến trúc trung tâm của Già Lam); (2) Pháp Đường (法堂, hay Thuyết Pháp Đường [說法堂, Nhà Thuyết Pháp, tương đương với Giảng Đường, nằm sau Điện Phật]); (3) Tăng Đường (僧堂, còn gọi là Thiền Đường [禪堂], Vân Đường [雲堂], Tuyển Phật Trường [選佛塲], là nơi tăng chúng ngồi Thiền, sinh hoạt, ở giữa an trí tượng Bồ Tát Văn Thù), (4) Khố Phòng (庫房, Nhà Kho, còn gọi là Khố Viện [庫院], nơi điều phối thực vật); (5) Sơn Môn (山門, còn gọi là Tam Môn [三門], tức cửa lầu có đủ 3 cánh cửa lớn, là ba cánh cửa giải thoát, biểu hiện cho Không [空], Vô Tướng [無相] và Vô Nguyện [無願]); (6) Tây Tịnh (西淨, còn gọi là Đông Ty Tịnh Phòng [東司淨房], tức Nhà Vệ Sinh, Nhà Xí) và (7) Hòa Dục Thất (和浴室, còn gọi là Ôn Thất [溫室], là nhà tắm nước nóng). Trong đó, Tăng Đường, Tây Tịnh và Hòa Dục Thất là ba nơi cấm không được nói chuyện, nên có tên là Tam Mặc Đường (三默堂, ba nhà giữ im lặng). Nếu theo quan điểm học vấn mà nói, kiến trúc của Thất Đường Già Lam gồm: (1) Tu Bối Hữu Tháp (須具有塔, để an trí Xá Lợi Phật); (2) Kim Đường (金堂, còn gọi là Phật Điện [佛殿]); (3) Giảng Đường (講堂, nơi giảng thuyết kinh luận); (4) Chung Lâu (鐘樓, Lầu Chuông, tục gọi là Chung Chàng Đường [鐘撞堂], nơi treo Hồng Chung [洪鐘]); (5) Tàng Kinh Lâu (藏經樓, còn gọi là Kinh Đường [經堂], là lầu tàng trữ hết thảy kinh sách); (6) Tăng Phòng (僧房, hay Tăng Phường [僧坊], là nơi tăng chúng sinh sống, phân bố ở 3 hướng Đông, Tây, Bắc của Giảng Đường); và (7) Hòa Thực Đường (和食堂, hay Trai Đường [齋堂], là nơi chúng tăng cùng thọ trai). Như trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 2 có đoạn: “Thập đại thần vương thừa Phật sắc, thường ư biến giới hộ Già Lam, duy tư thanh tịnh pháp vương cung, tất hữu thần minh lai túc vệ (十大神王承佛勅、常於遍界護伽藍、唯茲清淨法王宮、必有神明來宿衛, mười vị thần vương vâng Phật dạy, thường biến khắp nơi hộ Già Lam, hôm nay thanh tịnh pháp vương cung, tất có thần minh đến bảo vệ).” Hay trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 7, phần Ni Ba La Quốc (尼波羅國), lại có đoạn: “Già Lam Bắc tam tứ lí hữu Tốt Đổ Ba, thị Như Lai tương vãng Câu Thi Na quốc nhập bát Niết Bàn, nhân dữ phi nhân tùy tùng Thế Tôn, chí thử trữ lập (伽藍北三四里有窣堵波、是如來將往拘尸那國入般涅槃、人與非人隨從世尊、至此佇立, phía Bắc Già Lam khoảng ba bốn dặm có ngôi tháp, là do khi đức Như Lai trên đường đi đến nước Câu Thi Na để nhập Niết Bàn, người và phi nhân cùng đi theo Thế Tôn, đến đây thì dựng lên).”
(皇慶, Kōgei, 977-1049): vị học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, tổ của Dòng Cốc (谷流), húy Hoàng Khánh (皇慶), thông xưng là Cốc A Xà Lê (谷阿闍梨), Đơn Ba A Xà Lê (丹波阿闍梨), Trì Thượng A Xà Lê (池上阿闍梨), hiệu Biến Chiếu Kim Cang (遍照金剛), thụy hiệu là Từ Ứng (慈應), xuất thân kinh đô Kyōto. Năm 983, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), theo học Thai Mật với Tĩnh Chơn (靜眞) của Pháp Hưng Viện (興法院) ở Đông Tháp, rồi đi du hóa khắp các tiểu quốc và trong khoảng thời gian niên hiệu Trường Đức (長德, 995-999), tiến hành pháp Phổ Hiền Diên Mạng (普賢延命) tại vùng Y Do (伊予, Iyo) cho vị quan Kami là Đằng Nguyên Tri Chương (藤原智章). Sau ông theo học Đông Mật với Cảnh Vân (景雲) ở Bối Chấn Sơn (背振山), Trúc Tiền (筑前, Chikuzen). Trong khoảng thời gian niên hiệu Vạn Thọ (萬壽, 1024-1028), ông đến trú trì Đại Nhật Tự (大日寺) ở vùng Trì Thượng (池上, Ikegami), Đơn Ba (丹波, Tamba), được vị quan Kami là Đằng Nguyên Nguyên Chương (藤原源章) trọng dụng và trở thành A Xà Lê (阿闍梨). Pháp lưu của ông được gọi là Dòng Cốc, đời sau rất hưng thạnh. Trước tác của ông có Quán Đảnh Tùy Yếu Ký (灌頂隨要記) 2 quyển, Thai Tạng Đạo Tràng Quán Tư Ký (胎藏道塲觀私記) 1 quyển, v.v.
(蓮如, Rennyo, 1415-1499): con đầu của Tồn Như (存如, Zonnyo) đời thứ 7 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Kiêm Thọ (兼壽), hiệu là Tín Chứng Viện (信証院). Sống trong khoảng thời kỳ Bổn Nguyện Tự đang bị suy vi và trưởng thành lên trong khổ nạn, ông đã theo cha tận lực giáo hóa ở các địa phương phía Nam vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Đến năm 1457, ông kế thừa cha mình và trở thành vị tổ đời thứ 8 của Bổn Nguyện Tự. Do vì đứng trên truyền thống của Tịnh Độ Chơn Tông mà tiến hành cải cách, nên vào năm 1471 ông bị đồ chúng của Tỷ Duệ Sơn phá tan Đại Cốc Bổn Nguyện Tự ở vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani); khiến ông phải lánh nạn đến biệt sở phía Nam của Tam Tỉnh Tự (三井寺) vùng Đại Tân (大津), rồi xây dựng nhà riêng ở Cát Khi (吉崎, Yoshizaki) thuộc vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]) và chuyển đến đó ở. Ông đã tác thành rất nhiều văn bản, cho xuất bản các bài Hòa Tán cũng như Chánh Tín Kệ (正信偈) của Thân Loan, và tiến hành những hoạt động giáo hóa khắp nơi từ vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) cho đến Đông Hải (東海, Tōkai), Đông Quốc (東國, Tōgoku) và Áo Châu (奥州, Ōshu). Tuy nhiên, do vì sự đối lập trong mối quan hệ lợi hại phát sanh giữa các môn đồ thọ nhận sự giáo hóa của ông với những lãnh chúa địa phương, nên ông lại phải rời khỏi địa phương Cát Khi và đến bố giáo ở các vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu), Hà Nội (河內, Kawauchi), Hòa Tuyền (和泉, Izumi) thuộc Osaka (大阪) ngày nay. Vào năm 1480, ông bắt đầu tái kiến Bổn Nguyện Tự ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina), mở rộng giáo hóa, cho nên người ta quy y theo phái ông nhiều hơn các phái khác. Vào độ tuổi 75, ông nhường lại mọi hậu sự cho người con trai thứ 5 là Thật Như (實如, Jitsunyo) và sống ẩn cư; nhưng sau đó ông vẫn tiếp tục bố giáo. Đến năm 1496, ông lại xây dựng nhà riêng ở vùng Thạch Sơn (石山, Ishiyama), Osaka và tiếp tục hoạt động truyền giáo cho đến 85 tuổi thì qua đời.
(法名): tên gọi do người Phật tử thọ trì sau khi quy y Phật Giáo, còn gọi là Pháp Hiệu (法號), Pháp Húy (法諱), Giới Danh (戒名). Đối với tăng lữ, đây là tên gọi do vị thầy ban cho sau khi cử hành lễ xuất gia. Đối với người Phật tử tại gia, đây là tên gọi được ban cho sau khi quy y, thọ giới, hay khi tiến hành tang lễ. Pháp Danh còn là biểu tượng thiêng liêng đánh dấu bước thay đổi cuộc sống tâm linh của người Phật tử khi thật sự bước chân vào Đạo. Đối với thế tục, khi con người mới sinh ra được cha mẹ đặt cho cái tên, đó là Tục Danh (俗名); khi vị ấy chuyển hóa tâm thức, quyết định quy y theo Phật Giáo, có nghĩa là được sanh ra lần thứ hai; tên gọi lúc này là Pháp Danh. Nó thể hiện việc xuất gia hay quy y trở thành đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni, p: Sakyamuni,釋迦牟尼); cho nên đối với người xuất gia, thường có chữ “Thích (釋)” đi theo với Pháp Danh như Thích Từ Thiện (釋慈善), v.v. Về phía Phật tử tại gia, do có khác nhau về giới tính, tuổi tác; vì vậy sau Pháp Danh thường có thêm các danh hiệu khác như Cư Sĩ (居士), Tín Sĩ (信士), Đại Tỷ (大姉), Tín Nữ (信女), Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女), v.v.; như Thanh Liên Cư Sĩ (青蓮居士), Chân Tâm Tín Nữ (眞心信女), v.v. Đối với truyền thống đang hiện hành của Việt Nam, Pháp Danh có 2 chữ; chư Tăng xuất gia thường có chữ “Thích” trước Pháp Danh, như Thích Huệ Học (釋惠學), v.v.; chư Ni xuất gia thường có chữ “Thích Nữ (釋女)” trước Pháp Danh, như Thích Nữ Huệ Học (釋女惠學), v.v. Cách đặt Pháp Danh được tuân theo thứ tự của các chữ trong các bài kệ do chư vị tổ đức thuộc dòng phái đặt ra. Như Môn Phái Thập Tháp Di Đà ở Bình Định dùng bài kệ của Thiền Sư Vạn Phong Thời Ủy: “Tổ đạo giới định tông, phương quảng chứng viên thông, hành siêu minh thật tế, liễu đạt ngộ chơn không, như nhật quang thường chiếu, phổ châu lợi nhân thiên, tín hương sanh phước tuệ, tương kế chấn từ phong (祖道戒定宗、方廣證圓通、行超明寔際、了達悟眞空、如日光常照、普周利人天、信香生福慧、相繼振慈風).” Trong khi đó, Môn Phái Liễu Quán tại Huế thì đặt Pháp Danh theo bài kệ của Tổ Sư Thật Diệu Liễu Quán (實妙了觀, 1670-1742): “Thật tế đại đạo, tánh hải thanh trừng, tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong, giới định phước tuệ, thể dụng viên thông, vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công, truyền trì diệu lý, diễn sướng chánh tông, hành giải tương ưng, đạt ngộ chơn không (實際大道、性海清澄、心源廣潤、德本慈風、戒定福慧、體用圓通、永超智果、密契成功、傳持妙里、演暢正宗、行解相應、達悟眞空).” Môn Phái Quốc Ân có bài kệ của Tổ Đạo Mân rằng: “Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên, minh như hồng nhật lệ trung thiên, linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ, chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền (道本原成佛祖先、明如紅日麗中天、靈源廣潤慈風溥、照世眞燈萬古懸).” Tại Quảng Nam, Dòng Chúc Thánh thì dùng bài kệ truyền thừa pháp phái của Tổ Minh Hải Pháp Bảo: “Minh thật pháp toàn chương, ấn chơn như thị đồng, chúc thánh thọ thiên cữu, kỳ quốc tộ địa trường, đắc chánh luật vi tuyên, tổ đạo hành giải thông, giác hoa Bồ Ðề thọ, sung mãn nhân thiên trung (明寔法全章、印眞如是同、祝聖壽天久、祈國祚地長、得正律爲宣、祖道行解通、覺花菩提樹、充滿人天中).” Ngoài ra, còn một số bài kệ khác như bài của ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc: “Minh chân như bảo hải, kim tường phổ chiếu thông, chí đạo thành chánh quả, giác ngộ chứng chơn không (明眞如寶海、金祥普照通、至道成正果、覺悟證眞空).” Hay bài kệ của ngài Tri Giáo Nhất Cú: “Tịnh trí viên thông tông từ tánh, khoan giác đạo sanh thị chánh tâm, mật hạnh nhân đức xưng lương tuệ, đăng phổ chiếu hoằng pháp vĩnh trường (淨智圓通宗慈性、寬覺道生是正心、密行仁德稱良慧、燈普照宏法永長)”, v.v. Đặc biệt, việc đặt Pháp Danh ở Nhật Bản có nét đặc trưng hoàn toàn khác với các nước Phật Giáo Đại Thừa. Tùy theo tông phái khác nhau mà Pháp Danh cũng được đặt dưới nhiều hình thức khác nhau, dưới tên gọi là Giới Danh (戒名, kaimyō). Nhìn chung, Giới Danh của Nhật Bản được kết cấu bởi ít nhất 3 yếu tố: Viện Hiệu (院號, ingō) hay Viện Điện Hiệu (院殿號, indonogō), Đạo Hiệu (道號, dōgō) và Vị Hiệu (位號, igō). Viện Hiệu được dùng cho những người trong lúc sanh tiền có cống hiến to lớn đối với tự viện, Phật Giáo, xã hội. Tỷ dụ như lịch đại chư vị Tướng Quân dưới thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi, 1392~1573) và Giang Hộ (江戸, Edo, 1600~1867) đều được đặt cho Viện Hiệu hay Viện Điện Hiệu; như trường hợp Tướng Quân Chức Điền Tín Tú (織田信秀, Oda Nobuhide, 1510-1551) có Giới Danh là Vạn Tùng Tự Đào Nham Đạo Kiến (萬松寺桃巖道見); Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Tình (足利義晴, Ashikaga Yoshiharu, 1511-1550) là Vạn Tùng Viện Hoa Sơn Đạo Chiếu (萬松院曄山道照), hay Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga, 1534-1582) có Giới Danh đặc biệt là Tổng Kiến Viện Điện Tặng Đại Tướng Quốc Nhất Phẩm Thái Nham Tôn Nghi (總見院殿贈大相國一品泰巖尊儀), v.v. Vốn phát xuất từ Trung Quốc, được chư vị Thiền tăng truyền vào Nhật, Đạo Hiệu là một tên khác được đặt trước Pháp Danh; như Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) có Đạo Hiệu là Nhất Hưu. Trừ Luật Tông, Tịnh Độ Chơn Tông ra, các tông phái như Chơn Ngôn Tông, Thiên Thai Tông, Tịnh Độ Tông, Lâm Tế Tông, Tào Động Tông, Nhật Liên Tông đều dùng đến Đạo Hiệu này. Vị Hiệu là tên gọi được đặt sau cùng của Giới Danh để phân biệt về giới tính, tuổi tác, v.v. Đối với trường hợp thành nhân (người lớn), một số Vị Hiệu được dùng như Tín Sĩ (信士), Tín Nữ (信女), Thanh Tín Sĩ (清信士), Thanh Tín Nữ (清信女), Cư Sĩ (居士), Đại Tỷ (大姉), Đại Cư Sĩ (大居士), Thanh Đại Tỷ (清大姉), Thiền Định Môn (禪定門, dành cho chư Tăng), Thiền Định Ni (禪定尼, dành cho chư Ni). Đối với trường hợp các em nhỏ thì có Thủy Tử (水子, dùng cho các thai nhi bị lưu sản, sút sảo tảo sa); Anh Nhi (嬰兒) Anh Tử (嬰子), Anh Nữ (嬰女) dùng cho các trẻ nhỏ đang còn bú mẹ; Hài Tử (孩子), Hài Nữ (孩女) dùng cho các em nhỏ khoảng 2-3 tuổi; Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女) dùng cho các em từ 4-14 tuổi, v.v.
(幽冥): tối tăm, u ám; do đó từ này dược dùng để chỉ cho cõi Địa Phủ (地府), Địa Ngục (地獄), nơi tối tăm, u ám. Đạo giáo cho rằng người quản chưởng U Minh thế giới là Phong Đô Đại Đế (酆都大帝). Theo Phật Giáo, Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) được xem như là giáo chủ cõi U Minh, là người thệ nguyện vào cõi Địa Ngục để cứu dộ chúng sanh như trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō No. 412) có dạy rằng: “Địa Ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề (地獄未空誓不成佛,眾生度盡方證菩提, Địa Ngục chưa hết thề không thành Phật, chúng sanh độ tận mới chứng Bồ Đề).” Trong Thiền môn, thỉnh chuông buổi khuya, sáng sớm được gọi là “Thỉnh Chuông U Minh”, nghĩa là thỉnh chuông để cho các chúng sanh trong cõi tối tăm của Địa Ngục được nghe tiếng chuông mà xa lìa khổ đau, chứng quả giải thoát, như trong bài kệ nguyện chuông có dạy rằng: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽闇悉遙聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này vang pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, phiền não trong sạch chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác)”, và “Văn chung thanh, phiền não khinh, trí huệ trưởng, Bồ Đề sanh, ly Địa Ngục, xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh (聞鐘聲、煩惱輕、智慧長、菩提生、離地獄、出火坑、願成佛、度眾生, nghe tiếng chuông, phiền não buông, trí huệ lớn, Bồ Đề sanh, rời Địa Ngục, thoát lửa than, nguyện thành Phật, độ chúng sanh).”
(院號, Ingō):
(1) Là xưng hiệu của Thái Thượng Hoàng. Vào năm 823 (Hoằng Nhân [弘仁] 14), sau khi Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) nhượng vị, lần đầu tiên ông lấy nơi mình ở mà đặt tên thành Tha Nga Viện (嵯峨院). Trường hợp hai vị Thiên Hoàng Lãnh Tuyền (冷泉, Reizei, tại vị 967-969) và Viên Dung (圓融, Enyū, tại vị 969-984) trong lúc sinh tiền cũng đặt cho mình Viện Hiệu là Lãnh Tuyền Viện (冷泉院) và Châu Tước Viện (朱雀院).
(2) Là truy hiện của Thiên Hoàng. Từ thời Lãnh Tuyền Thiên Hoàng trở đi, sau khi Thiên Hoàng nhường ngôi vị thì thường dùng Viện Hiệu theo tên gọi nơi mình trú ngụ làm truy hiệu của vị Thiên Hoàng đó. Hơn nữa, từ thời Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng (後一條天皇, Goichijō Tennō, tại vị 1016-1036) trở về sau, cũng có thông lệ ban Viện Hiệu cho các Thiên Hoàng đang tại vị mà qua đời.
(3) Là xưng hiệu của Nữ Viện. Trường hợp này được khởi đầu từ thân mẫu của Nhất Điều Thiên Hoàng (一條天皇, Ichijō Tennō, tại vị 986-1011) là Hoàng Thái Hậu Đằng Nguyên Thuyên Tử (藤原詮子, Fujiwara-no-Senshi), được ban cho Viện Hiệu là Đông Tam Điều Viện (東三條院) vào năm 991 (Chánh Lịch [正曆] 2). Tiếp theo, sau thời Thượng Đông Môn Viện (上東門院, tức bà Đằng Nguyên ảnh Tử [藤原彰子, Fujiwara-no-Shōshi]), thường phần nhiều lấy mệnh danh theo môn hiệu Cung Thành (宮城, Miyagi) mà thôi. Còn ở Tiền Đông Cung (前東宮) thì chỉ có một trường hợp duy nhất được ban cho Viện Hiệu là Tiểu Nhất Điều Viện (小一條院), tức Đông Cung Hoàng Tử Đôn Minh Thân Vương (敦明親王, Atsuakira Shinnō), con của Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng.
(4) Là xưng hiệu của Pháp Danh, Giới Danh của những vị quan Nhiếp Chính, Tướng Quân. Tỷ dụ như trường hợp Pháp Hưng Viện (法興院) của quan Nhiếp Chính Đằng Nguyên Kiêm Gia (藤原兼家, Fujiwara-no-Kaneie); hay Đẳng Trì Viện (等持院) của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), v.v. Đây là tên gọi của các ngôi tự viện trong lúc sinh tiền họ đã từng góp công rất lớn trong việc kiến lập, tu tạo. Sau này, dù chẳng liên quan đến việc góp công kiến lập chùa chiền gì cả, hàng thứ dân bình thường cũng bắt đầu thêm chữ Viện vào nơi giới danh của họ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.159 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập