Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hưng Thánh Tự »»
(s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇa-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga,八正道 hay 八聖道): là 8 con đường chân chánh, đúng đắn để cầu về cõi Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃), còn gọi là Bát Thánh Đạo (八聖道), Bát Chi Chánh Đạo (八支正道), Bát Thánh Đạo Phần (八正道分), Bát Đạo Hạnh (八道行), Bát Trực Hạnh (八直行), Bát Chánh (八正), Bát Đạo (八道), Bát Chi (八支), Bát Pháp (八法), Bát Lộ (八路). Đây là pháp môn thật tiễn, tiêu biểu nhất của Phật Giáo, là phương pháp hay con đường tắt chính xác để hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Khi đức Phật tuyên thuyết bài pháp đầu tiên, ngài đã dạy nên xa lìa hai thái cực thọ hưởng dục lạc và tu khổ hạnh, nên hướng về con đường Trung Đạo, tức ám chỉ pháp môn Bát Chánh Đạo này, gồm:
(1) Chánh Kiến (s: samyag-dṛṣṭi, p: sammā-diṭṭhi, 正見): hay còn gọi là Đế Kiến (諦見), tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo (Tứ Đế), có nghiệp thiện ác thì có quả báo của nghiệp thiện ác ấy, có đời này đời kia, có cha mẹ, trên đời có bậc chân nhân đến chỗ an lành, bỏ điều thiện cũng như hướng đến điều thiện, nơi đời này và đời kia tự giác ngộ và tự chứng thành tựu.
(2) Chánh Tư Duy (s: samyak-saṃkalpa, p: sammā-saṅkappa, 正思惟): hay còn gọi là Chánh Chí (正志) Chánh Phân Biệt (正分別), Chánh Giác (正覺), nghĩa là suy nghĩ đúng đắn, chân chánh. Khi đã thấy được lý của Tứ Đế, hành giả tư duy để làm cho tăng trưởng trí tuệ chân thật. Nó lấy tâm vô lậu làm thể.
(3) Chánh Ngữ (s: samyag-vāc, p: sammā-vācā, 正語): còn gọi là Chánh Ngôn (正言), Đế Ngôn (諦言), tức xa lìa nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, dùng trí tuệ để sửa đổi khẩu nghiệp, không nói những lời phi lý. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(4) Chánh Nghiệp (s: samyakkarmanta, p: sammā-kammanta, 正業): còn gọi là Chánh Hạnh (正行), Đế Hạnh (諦行), tức xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, v.v., dùng trí tuệ đúng đắn để trừ tất cả những việc làm không đúng của thân và sống với thân trong sạch. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(5) Chánh Mạng (s: samyag-ājīva, p: sammā-ājīva, 正命): còn gọi là Đế Thọ (諦 受), tức xả bỏ cuộc sống không đúng như dùng chú thuật, v.v., và mong cầu đúng pháp những vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày như áo quần, thức ăn uống, giường ghế, thuốc men, v.v. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(6) Chánh Tinh Tấn (s: samyag-vyāyāma, p: sammā-vāyāma, 正精進): còn gọi là Chánh Phương Tiện (正方便), Chánh Trị (正治), Đế Pháp (諦法), Đế Trị (諦法), tức phát nguyện đoạn trừ các điều ác mình đã tạo, làm cho không sinh khởi những điều ác mà mình chưa làm, làm cho sinh khởi những điều thiện mà mình chưa làm, và làm cho tăng trưởng những điều thiện mà mình đã từng làm. Nó lấy sự siêng năng vô lậu làm thể.
(7) Chánh Niệm (s: samyak-smṛti, p: sammā-sati, 正念): còn gọi là Đế Ý (諦意), tức quán 4 đối tượng thân, thọ, tâm và pháp, lấy trí tuệ chân chánh nghĩ nhớ đến chánh đạo để dẹp trừ các suy nghĩ không đúng. Nó lấy niệm vô lậu làm thể.
(8) Chánh Định (s: samyak-samādhi, p: sammā-samādhi, 正定): còn gọi là Đế Định (諦定), dùng trí tuệ chân chánh để nhập vào Thiền định thanh tịnh vô lậu, xa lìa các pháp bất thiện, thành tựu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.
Bát Chánh đạo này có công lực làm cho chúng sanh từ bờ bên này của cõi mê sang qua được bờ bên kia của giác ngộ. Cho nên nó lấy thuyền, bè làm lời thệ nguyện. Ngược lại, Tà Kiến (邪見, thấy không đúng), Tà Tư (邪思, suy nghĩ không đúng), Tà Ngữ (邪語, nói lời không đúng), Tà Nghiệp (邪業, làm việc không đúng), Tà Mạng (邪命, sống không đúng), Tà Tinh Tấn (邪精進, tinh tấn không đúng), Tà Niệm (邪念, nghĩ nhớ không đúng), Tà Định (邪定, định không đúng) được gọi là Bát Tà (八邪, tám pháp không đúng).
(秉拂, himpotsu): nghĩa là vị Trú Trì cầm cây Phất Trần; về sau nó có nghĩa là thay thế vị Trú Trì lên Pháp Tòa thuyết pháp cho đại chúng. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) 7 có ghi rằng vào 4 tiết Kiết Hạ, Giải Hạ, Đông Chí và Nguyên Đán thì hành lễ Bỉnh Phất (thăng tòa thuyết pháp). Khi ấy, 5 vị Tiền Đường Thủ Tòa (前堂首座), Hậu Đường Thủ Tòa (後堂首座), Thư Ký (書記), Đông Tạng Chủ (東藏主), Tây Tạng Chủ (西藏主) sẽ thay nhau làm việc này. Đối với Tào Động Tông Nhật Bản, vào đêm Trừ Dạ năm thứ 2 (1236) niên hiệu Gia Trinh (嘉禎), Hoài Trang (懷弉, Ejō) đã thay thế Đạo Nguyên (道元, Dōgen) hành nghi lễ Bỉnh Phất này tại Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji). Khi ấy không có 5 vị đứng đầu, mà chỉ có vị Thủ Tòa thôi. Có lẽ đây cũng là nguồn gốc của lễ Thủ Tòa Pháp Chiến (首座法戰, cuộc luận tranh về pháp giữa các vị Thủ Tòa) và lúc Kết Chế An Cư. Như trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, CBETA No. 1524) quyển 10, Tổ Trân Truyện (祖珍傳), có câu: “Thị dạ Thủ Tòa bỉnh phất, tùy cơ ứng đáp, khấu kích bất cùng (是夜首座秉拂、隨機應答、叩擊不窮, đêm ấy Thủ Tòa lên tòa thuyết pháp, tùy cơ mà ứng đáp, cảm kích không cùng).”
(正果): có hai nghĩa khác nhau:
(1) Chỉ cho sự chứng ngộ nhờ tu tập đúng chánh pháp; còn gọi chứng quả (證果). Sở dĩ gọi là chánh quả, vì đó là quả nhờ học Phật chứng đắc được; khác với ngoại đạo tu luyện mù lòa, sai lầm.
(2) Đặc biệt chỉ cho thân của hữu tình, là quả báo chánh thể cảm đắc nhờ nghiệp nhân quá khứ; còn gọi là chánh báo (正報). Như trong Lăng Nghiêm Kinh Yếu Giải (楞嚴經要解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 11, No. 270) quyển 2 có câu: “Chúng sanh nghiệp chủng thành tụ, hành nhân bất thành chánh quả, giai do bất tri nhị bổn thác loạn tu tập (眾生業種成聚、行人不成正果、皆由不知二本錯亂修習, chúng sanh giống nghiệp tích tụ, người hành trì không thành chánh quả, đều vì chẳng biết hai gốc rễ tu tập thác loạn).” Hay như trong Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa (沙彌律儀要略述義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1119) lại có câu: “Dĩ thành chánh quả viết Thánh, linh siêu vạn vật viết nhân, mô phạm hậu học viết sư, Lục Hòa thanh tịnh viết Tăng (已成正果曰聖、靈超萬物曰人、模範後學曰師、六和清淨曰僧, đã thành chánh quả gọi là Thánh, linh ứng vượt qua vạn vật gọi là người, làm mô phạm cho học đồ đi sau gọi là thầy, sống Lục Hòa thanh tịnh gọi là Tăng).”
(行持, Gyōji): quyển thứ 30 trong bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏), là phần Thị Chúng (示眾) tại Hưng Thánh Tự (興聖寺) vùng Vũ Trị (宇治, Uji) vào năm 1241. Nội dung của thiên này trước hết nói về việc trong đời tận thế này, chúng ta cần phải hành trì mới tu chứng được; kế đến ghi cụ thể sự tích của chư vị Tổ sư ở Ấn Độ, Trung Quốc từ thời đức Thích Ca trở về sau, và cuối cùng là khuyên người học đạo nên thâm nhập pháp môn hành trì của chư vị Tổ sư.
(學道用心集, Gakudōyōjinshū): 1 quyển, do Đạo Nguyên viết vào năm 1234 tại Hưng Thánh Tự (興聖寺), về những vấn đề cần phải lưu tâm khi tu hành. Nó còn được gọi là Vĩnh Bình Sơ Tổ Học Đạo Dụng Tâm Tập (永平初祖學道用心集), được san hành ấn bản đầu tiên vào năm 1357.
(虛堂智愚, Kidō Chigu, 1185-1269): vị tăng của Phái Dương Kì và Phái Tùng Nguyên thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Hư Đường (虛堂) hay Tức Canh Tẩu (息耕叟), người Tứ Minh Tượng Sơn (四明象山). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Sư Uẩn (師蘊) ở Phổ Minh Tự (普明寺). Sau đó ông đi du phương tham học, gặp được Vận Am Phổ Nham (運庵普巖), có chỗ sở đắc và kế thừa dòng pháp của vị này. Tiếp theo ông còn đi tham vấn chư vị tôn túc khác, đến năm thứ 2 (1228) niên hiệu Thiệu Định (紹定), ông đến sống tại Hưng Thánh Tự (興聖寺). Về sau, ông được hai vua Lý Tông và Độ Tông nhà Tống quy y theo, vì vậy ông càng bố giáo mạnh mẽ hơn. Vào năm thứ 5 (1269) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳), ông thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi. Trước tác của ông có Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục (虛堂和尚語錄) 10 quyển.
(靈石如芝, Rinshii Nyoshi, ?-?): vị tăng sống dưới thời nhà Nguyên, thuộc Phái Dương Kì của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Linh Thạch (靈石), pháp từ của Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚). Ông khai mở đạo tràng bố giáo ở Hưng Thánh Tự (興聖寺) thuộc Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), rồi chuyển đến Dũng Tuyền Tự (湧泉寺) ở Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang) cũng như Bổn Giác Tự (本覺寺) ở Phủ Gia Hưng.
(五家七宗, Gokeshichishū): Thiền Tông của Trung Quốc từ vị Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨), kinh qua Nhị Tổ Huệ Khả (慧可), Tam Tổ Tăng Xán (僧燦), Tứ Tổ Đạo Tín (道信), và Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (弘忍); sau đó thì phân ra thành Bắc Tông Thiền của Thần Tú (神秀) và Nam Tông Thiền của Huệ Năng (慧能). Nam Tông Thiền thì hưng thạnh từ cuối thời Trung Đường. Đặc biệt hệ thống của hai vị đệ tử của Huệ Năng là Nam Nhạc Hoài Nhượng (南岳懷讓) và Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思) thì trở thành chủ lưu Thiền Tông từ cuối thời nhà Đường trở đi; về sau hệ thống này lại phân phái ra thành Ngũ Gia Thất Tông vốn cao xướng Tông phong đặc dị của họ. Cuối thời nhà Đường, Tông Quy Ngưỡng (潙仰宗) phát xuất từ dòng Thiền của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海), môn hạ của Nam Nhạc, càng lúc càng phát triển mạnh mẽ; rồi tiếp theo thì Tông Lâm Tế vốn chủ trương Thiền phong đại cơ đại dụng cũng bắt đầu hình thành, và sau đó thì Hoàng Long Phái (黃龍派) và Dương Kì Phái (楊岐派) do người sáng lập ra là môn hạ của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓) cũng ra đời. Đối với việc thành lập Ngữ Lục Thiền vào thời Bắc Tống vốn đại biểu là hai bộ Mã Tổ Tứ Gia Lục (馬祖四家錄) và Hoàng Long Tứ Gia Lục (黃龍四家錄), những người của Phái Hoàng Long đã đóng góp rất nhiều; tuy nhiên phái này thì lại sớm bị suy vong. Mặt khác, Phái Dương Kì thì được rất nhiều vị thuộc tầng lớp sĩ phu thời Bắc Tông quy y theo, nên từ cuối thời nhà Minh cho đến đầu thời nhà Thanh thì hưng long rực rỡ. Còn Tào Động Tông thì chủ trương Thiền phong chuyên ngồi Thiền và tu Ngũ Vị (五位), nên không phát triển mạnh như Lâm Tế Tông được. Pháp Nhãn Tông thì vào đầu thời nhà Tống nhân có nhà họ Tiền (錢) ở Giang Nam quy y theo, đã thể hiện hưng thạnh rất rõ ràng đến nỗi đã thành lập nên được Tổ Đường Tập (祖堂集) và Truyền Đăng Lục (傳燈錄) với tính cách là tập đoàn chuyên tu theo lối công án niệm tụng. Bộ Tông Môn Thập Quy Luận (宗門十規論) của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), tác phẩm nói lên hết tất cả đặc sắc của bốn Tông kia, lần đầu tiên xuất hiện. Vân Môn Tông (雲門宗) thì chiếm cứ vùng Quảng Đông, rồi sau đó thì kế thừa bước chân của Pháp Nhãn Tông và phát triển mạnh ở vùng đất Giang Nam, song đến cuối thời Nam Tống thì tiêu mất bóng dáng. Sự khác nhau của Ngũ Gia là sự khác nhau về Tông phong, còn Tông chỉ thì chẳng có gì khác nhau cả. Chính Đạo Nguyên (道元, Dogen) cũng cho rằng: “Cho dầu là Ngũ Gia đi nữa thì cũng chỉ Một Phật Tâm Ấn mà thôi.”
(攝論宗, Setsuron-shū): tên gọi của học phái lấy bộ Nhiếp Đại Thừa Luận (攝大乘論) của Vô Trước (s: Asaṅga, 無著) làm đối tượng nghiên cứu. Bộ luận này do Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) dịch vào năm 563. Đây là một trong 13 học phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc. Bên cạnh bộ luận trên, tông này còn lấy bộ Nhiếp Đại Thừa Luận Thích (攝大乘論釋) của Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) và được hình thành ở phương Nam do môn hạ của Chơn Đế là Huệ Khải (慧愷), Pháp Thái (法泰). Còn ở phương Bắc thì những môn đồ của Địa Luận Tông chạy qua lánh nạn phế Phật thời Bắc Chu, rồi chuyển qua Nhiếp Luận Tông và chính những người này đã truyền bá ở đây. Nhiếp Luận Tông ở phương Bắc do Đàm Thiên (曇遷) lập nên và hưng thạnh từ thời nhà Tùy cho đến đầu thời nhà Đường. Còn Tĩnh Tung (靖嵩) thì học giáo học Duy Thức với Pháp Thái (法泰) ở phía Nam, rồi sau đó truyền sang phương Bắc. Sau này khi giáo học Duy Thức tân dịch của Huyền Trang (玄奘, 602-664) được truyền bá, pháp hệ của Nhiếp Luận Tông bắt đầu đi đến diệt vong.
(觀音導利院興聖寶林寺): còn gọi là Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji), đạo tràng sơ khai của Tào Động Tông Nhật Bản, hiện tọa lạc tại số 27 Yamada (山田), Uji-shi (宇治市), Kyoto-fu (京都府); hiệu núi là Phật Đức Sơn (佛德山); gọi đủ là Phật Đức Sơn Quan Âm Đạo Lợi Viện Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (佛德山觀音導利院興聖寶林寺). Tượng thờ chính là Thích Ca Tam Tôn. Vị Khai Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản là Đạo Nguyên (道元, Dōgen) đã từng sang Trung Quốc cầu pháp, rồi trở về nước vào năm 1232 (Trinh Vĩnh [貞永] nguyên niên), lúc ông 33 tuổi. Năm sau 1233 (Thiên Phước [天福] nguyên niên), ông kiến lập một ngôi chùa trên nền đất cũ của Cực Lạc Tự (極樂寺, Gokuraku-ji), ở vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa), Quận Vũ Trị (宇治郡, Uji-gun); và ban đầu chùa có tên là Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (興聖寶林寺). Khi ấy Chánh Giác Thiền Ni (正覺禪尼) cúng dường tiền xây dựng Pháp Đường, rồi tiếp theo Đằng Nguyên Giáo Gia (藤原敎家) cũng phát tâm cúng dường Đàn Tu Di để phụng nạp trong Pháp Đường này. Trong suốt 11 năm trường cho đến khí dời về Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) ở Fukui-ken (福井懸), chính Đạo Nguyên đã từng thuyết giáo, cao xướng chánh pháp tại đây. Phần lớn các đệ tử nổi danh của ông đều đã từng tu tập tại Thánh địa này. Tuy nhiên, sau khi Đạo Nguyên dời về Vĩnh Bình Tự, cũng như sau khi ông qua đời, ngôi chùa đã bị đốt cháy tan tành, dần lụi tàn theo năm tháng và không còn thấy bóng dáng nữa. Kiến trúc hiện tại của chùa nằm ở vị trí khác với vị trí chùa trước. Vào năm 1648 (Khánh An [慶安] nguyên niên) dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), thể theo lời nguyện ước của vị Thành chủ Thủy Tỉnh Thượng Chính (水井尚政, Nagai Naomasa), ngôi chùa được tái kiến lại. Trong Khai Sơn Đường có thờ tôn tượng của Thiền Sư Đạo Nguyên, và nơi ngôi tháp khai sơn có hài cốt của Thiền Sư.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập