Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hùng bi »»

(楊傑, Yōketsu, hậu bán thế kỷ 11): xuất thân vùng Vô Vi (無爲, Tỉnh An Huy), sống dưới thời Bắc Tống, tự là Thứ Công (次公), hiệu Vô Vi Tử (無爲子). Ông có tài Hùng biện, tuổi trẻ đậu cao, nhưng rất thích về Thiền, đã từng đến tham vấn chư vị tôn túc các nơi, rồi theo học pháp với Thiên Y Nghĩa Hoài (天衣義懷). Mỗi lần Nghĩa Hoài dẫn dụ Thiền ngữ của Bàng Cư Sĩ (廊居士) ông đều chăm chú lắng nghe. Có hôm nọ nhân khi thấy mặt trời như tuôn vọt ra, ông đại ngộ, đem trình kệ lên cho thầy và được ấn khả. Sau đó, ông lại gặp Phù Dung Đạo Giai (芙蓉道楷), cả hai rất tâm đắc với nhau. Vào năm cuối niên hiệu Hy Ninh (熙寧, 1068-1077) đời vua Thần Tông nhà Tống, ông trở về quê nuôi dưỡng mẹ, chuyên tâm đọc kinh tạng và quay về với Tịnh Độ. Do vì ông đã từng nhậm chức trông coi ngục hình nên có tên gọi là Dương Đề Hình (楊提刑). Lúc bấy giờ ông viếng thăm Bạch Liên Tự (白蓮寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), theo hầu Chơn Hàm (眞咸), đảnh lễ tháp của Trí Giả Đại Sư. Đến cuối đời ông chỉ chuyên tâm tu pháp môn Tịnh Độ, từng vẽ bức tranh A Di Đà Phật. Khi lâm chung, ông cảm đắc Phật đến đón rước, ngồi ngay ngắn mà ra đi, hưởng thọ 70 tuổi. Trước tác của ông có Thích Thị Biệt Tập (釋氏別集), Phụ Đạo Tập (輔道集), v.v.
(顯眞, Genshin, 1131-1192): vị Tăng của Thiên Thai Tông sống vào khoảng cuối thời Bình An và đầu thời Liêm Thương, vị Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 61, húy là Hiển Chơn (顯眞), hiệu là Tuyên Dương Phòng (宣陽房), con trai của vị Trưởng Quan Kami vùng Mỹ Tác (美作, Mimasaka) là Đằng Nguyên Hiển Năng (藤原顯能). Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã lên Tỷ Duệ Sơn học của Hiển và Mật Giáo với Minh Vân (明雲) và Tướng Thật (相實). Sau đó theo lời yêu cầu của triều đình, ông ra làm Phật sự và làm chức Biệt Đương của ngôi đền Kỳ Viên Xã (祇園社, Gionsha). Đến năm 1173, ông từ quan, đến dựng thảo am ở vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara), Lạc Bắc và chuyên tâm tu niệm. Năm 1186, ông được Nguyên Không (源空) mời đến Thắng Lâm Tự (勝林寺), và rất nổi tiếng với tài năng Hùng biện Phật pháp nơi đây. Năm 1190, thể theo mệnh của Hậu Bạch Hà Pháp Hoàng (後白河法皇), ông được bổ nhiệm làm Thiên Thai Tọa Chủ. Trước tác của ông có Sơn Gia Yếu Lược Ký (山家要略記) 1 quyển.
(火德星君):
(1) Dân gian thường gọi là Hỏa Thần Da (火神爺, Ông Thần Lửa), hay Hỏa Thiên Kim Cang (火天金剛), Xích Đế (赤帝), là con của vị trưởng bộ tộc thời cổ đại xa xưa. Ông là người phát hiện ra phương pháp khẻ đá châm lửa. Hoàng Đế (黃帝) biết được bèn phong cho ông làm quan chưởng quản về lửa, cũng ban cho tên là Chúc Dung (祝融). Dưới thời đại của Hoàng Đế, ở phương nam có một thị tộc tên Xí Vưu (蚩尤), thường vào gây rối ở Trung Nguyên; nhân đó, Hoàng Đế hạ lệnh cho Chúc Dung đem binh mã thảo phạt. Tuy nhiên Xí Vưu người nhiều thế mạnh, anh em lại rất đông, mỗi người đều mang áo da thú, đầu đội sừng trâu, trông rất hùng mạnh và ghê tợn. Chúc Dung chỉ biết dùng lửa làm vũ khí, đốt cháy quân đội của Xí Vưu. Địch quân tháo chạy, Chúc Dung đuổi đến tận Hoàng Hà (黃河), Trường Giang (長江) và cuối cùng đánh bại Xí Vưu. Sau khi trở về triều, Chúc Dung được Hoàng Đế ban cho chưởng quan phương Nam, cho nên tại đây ông đã giáo hóa dân chúng biết cách dùng lửa trong sinh hoạt hằng ngày, như dùng lửa để xua đuổi dã thú, muỗi, để chế tạo các đồ dùng kim thuộc; nhờ vậy cuộc sống của người dân được cải thiện hơn nhiều. Cảm kích trước ân đức đó, người dân tôn xưng ông là Xích Thần (赤帝, xích là màu đỏ, cũng có ý là lửa). Ông sống được hơn trăm tuổi, và sau khi qua đời, bá tánh lập Xích Đế Điện để tôn thờ và tưởng nhớ đến ân đức cao dày của ông. Lịch đại chư vị đế vương đều phong hiệu cho ông như Hỏa Thần (火神), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君). Như trong Thần Đản Phổ (神誕譜) có giải thích rằng: “Hỏa Đức Tinh Quân, vi Viêm Đế Thần Nông thị chi linh, tự chi vi Hỏa Thần, dĩ nhương hỏa tai (火德星君、爲炎帝神農氏之靈、祀之爲火神、以禳火災, Hỏa Đức Tinh Quân là linh của Viêm Đế Thần Nông, thờ làm Hỏa Thần để giải trừ hỏa tai).” Sử Ký (史記) ghi rõ rằng: “Hỏa Thần vi Chúc Dung, Chuyên Húc chi tử, danh Lê (火神爲祝融、顓頊之子、名黎, Thần Lửa là Chúc Dung, con của Chuyên Húc, tên là Lê).” Trong khi đó, Quốc Ngữ (國語) lại cho hay một thông tin thú vị khác: “Hỏa Thần vi Hồi Lộc (火神爲回祿, Thần Lửa là Hồi Lộc).” Hồi Lộc hay Hồi Lục (回陸), do vì xưa kia tại nước Sở có một người tên Ngô Hồi (吳回), làm quan trông coi về lửa, nên có thuyết cho rằng ông là Hồi Lộc. Vì vậy trong Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Trịnh nhương hỏa vu Hồi Lộc (鄭禳火于回祿, Trịnh cầu nguyện lửa nơi Hồi Lộc).” Và người thời nay gọi hỏa hoạn là “Hồi Lộc chi tai (回祿之災, tai họa Hồi Lộc).”
(2) Là tên gọi khác của Táo Quân (竈君), vị thần chưởng quản Nhà Bếp.
(3) Là tên gọi của một trong Ngũ Đức Tinh Quân (五德星君), gồm Đông Phương Mộc Đức Tinh Quân (東方木德星君), húy Trọng Hoa (重華); Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân (南方火德星君), húy Huỳnh Hoặc (熒惑); Tây Phương Kim Đức Tinh Quân (金德星君), húy Thái Bạch (太白); Bắc Phương Thủy Đức Tinh Quân (水德星君), húy Tứ Thần (伺晨); Trung Ương Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), húy Địa Nhật Hầu (地日侯).
(4) Là tên gọi của một trong Cửu Diệu (九曜), gồm Kế Đô Tinh Quân (計都星君), Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君), Mộc Đức Tinh Quân (木德星君), Thái Âm Tinh Quân (太陰星君), Thổ Đức Tinh Quân (土德星君), La Hầu Tinh Quân (羅睺星君), Thái Dương Tinh Quân (太陽星君), Kim Đức Tinh Quân (金德星君), và Thủy Đức Tinh Quân (水德星君).
Hằng năm vào ngày 23 tháng 6 Âm Lịch, dân gian vẫn thường hành lễ kỷ niệm Thánh đản của Hỏa Đức Tinh Quân. Trong Phật Giáo vẫn công nhận Hỏa Đức Tinh Quân là một vị thần. Từ thời nhà Tống (宋, 960-1279) trở đi, trước tượng thờ chính trong Chánh Điện của các Thiền viện đều có treo bài vị “Nam Phương Hỏa Đức Tinh Quân Thần (南方火德星君神).” Mỗi tháng vào ngày mồng 4 và 18, chư tăng tụng kinh hồi hướng để cầu nguyện cho già lam hưng thạnh, yên ổn, không bị hỏa hoạn. Tương truyền Hòa Thượng Đạo Tế (道濟, tức Tế Công [濟公]) của Linh Ẩn Tự (靈隱寺) đã từng thấy Hỏa Đức Tinh Quân hóa hiện người nữ vào chùa, bèn chạy đến trước mặt cô ta chận đường, liền bị quở trách là đùa giỡn với nữ nhân. Tế Công trở về phòng nhập định và kết quả chùa bị hỏa hoạn thảm khốc. Có hôm nọ Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) ăn bánh nướng ở trong điện, ăn ngụm đầy cả miệng. Quan Nội Giám thấy vậy bèn chạy đi báo cho Quốc Sư Lưu Cơ (劉基) biết, nhân đó Quốc Sư có làm bài Thiêu Bính Ca (燒餠歌), trong đó có đề cập đến Hỏa Đức Tinh Quân rằng: “Hỏa phong đỉnh, lưỡng hỏa sơ hưng định thái bình; hỏa sơn lữ, Ngân Hà Chức Nữ nhượng Ngưu Tinh, Hỏa Đức Tinh Quân lai hạ giới, kim điện lâu đài tận Bính Đinh, nhất cá hồ tử Đại Tướng Quân (火風鼎,兩火初興定太平,火山旅,銀河織女讓牛星,火德星君來下界,金殿樓臺盡丙丁,一個鬍子大將軍, đỉnh gió lửa, hai lửa mới thành định thái bình; núi lửa chơi, Ngân Hà Chức Nữ nhường Sao Ngưu, Hỏa Đức Tinh Quân xuống hạ giới, điện vàng lâu đài thảy tiêu tan, còn một chòm râu Đại Tướng Quân).”
(日經, Nichikyō, 1551-1620): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, vị Tổ đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺), húy là Nhật Kinh (日經); tự Thiện Hải (善海), hiệu là Thường Lạc Viện (常樂院), Thường Đàm Nghĩa Viện (常談義院); xuất thân vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Ông từng tham học ở Thượng Tổng, có tài Hùng biện và đi truyền đạo khắp nơi trong nước. Năm 1600, ông làm trú trì đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự. Đến năm 1608, ông có luận tranh Tông nghĩa với Quách Sơn (廓山, Kakuzan) của Tịnh Độ Tông ở Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō); nhưng do vì sự đàn áp có kế hoạch của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), nên ông bại luận. Ông bị bắt buộc phải gởi thư đến các ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông để chứng minh về việc ông phản đối cho rằng niệm Phật là đọa Địa Ngục, và nhóm nhật kinh đã bị xử hình hay đuổi ra khỏi tông môn. Trước tác của ông có Tịnh Độ Nhật Liên Tông Luận Ký Lục (淨土日蓮宗論記錄) 1 quyển, Tịnh Độ Tông Nan Cật Nhị Thập Tam Điều (淨土宗難詰二十三條) 1 quyển, Bổn Tích Thắng Liệt Hiện Văn Sự (本迹勝劣現文事) 1 quyển, v.v.
(十六阿羅漢): còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Đến thời nhà Đường (618-907), khi nhà dịch kinh nổi tiếng Huyền Tráng (玄奘, 602-664) dịch tác phẩm Pháp Trú Ký, tên gọi của 16 vị này được biết đến bằng Hán ngữ, từ đó tín ngưỡng về Thập Lục La Hán cũng bắt đầu thịnh hành dưới thời này. Từ cuối thời nhà Đường cho đến thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-979), các tác phẩm hội họa cũng như điêu khắc về 16 vị La Hán này bắt đầu xuất hiện. Một số danh gia như Lô Lăng Già (盧楞伽), Vương Duy (王維, 701-761), Đào Thủ Lập (陶守立), Quán Hưu (貫休, 832-912). Theo Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trú Ký (大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記, bản Hán ngữ là Pháp Trú Ký), danh xưng của 16 vị này là:
(1) Tân Độ La Bạt Ra Nọa Xà (s: Piṇḍolabharadvāja, 賓度羅跋囉惰闍) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲).
(2) Ca Nặc Ca Phạt Sa (s: Kanakavatsa, 迦諾迦伐蹉) cùng với 500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại phương bắc nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅).
(3) Ca Nặc Ca Bạt Li Nọa Xà (s: Kanakabharadvāja, 迦諾迦跋厘惰闍) cùng với 600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲).
(4) Tô Tần Đà (s: Subinda, 蘇頻陀) cùng với 700 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲).
(5) Nặc Cự La (s: Nakula, 諾距羅) cùng với 800 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲).
(6) Bạt Đà La (s: Bhadra, 跋陀羅) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đam Một La Châu (耽沒羅洲).
(7) Ca Lí Ca (s: Kālika, 迦理迦) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tăng Già Trà Châu (僧伽荼洲).
(8) Phạt Già La Phất Đa La (s: Vajraputra, 伐闍羅弗多羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bát Thích Noa Châu (缽刺拏洲).
(9) Thú Bác Ca (s: Jīvaka, 戍博迦) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú trong Hương Túy Sơn (香醉山).
(10) Bán Thác Ca (s: Panthaka, 半託迦) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại cõi trời thứ 33.
(11) La Hỗ La (s: Rāhula, 羅怙羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tất Lợi Dương Cù Châu (畢利颺瞿洲).
(12) Na Già Tê Na (s: Nāgasena, 那伽犀那) cùng với 1.200 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bán Độ Ba Sơn (半度波山).
(13) Nhân Yết Đà (s: Aṅgaja, 因揭陀) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Quảng Hiếp Sơn (廣脅山).
(14) Phạt Na Ba Tư (s: Vanavāsin, 伐那婆斯) cùng với 1.400 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Khả Trú Sơn (可住山).
(15) A Thị Đa (s: Ajita, 阿氏多) cùng với 1.500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Thứu Phong Sơn (鷲峰山).
(16) Chú Đồ Bán Thác Ca (s: Cūḍapanthaka, 注荼半托迦, tức Châu Lợi Bàn Đà Già [周利槃陀伽]) cùng với 1.600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Trì Tụ Sơn (持軸山)
Tại các già lam, tự viện có an trí 16 tôn tượng La Hán này, 18 La Hán hay 500 La Hán. Như vậy 18 La Hán cũng phát xuất từ 16 La Hán nêu trên, sau này dân gian Trung Quốc thêm vào 2 vị nữa, thành ra con số 18. Thuyết Thập Bát La Hán rất thịnh hành tại Trung Quốc cũng như Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam, v.v. Có nhiều nguyên nhân giải thích việc biến thành Thập Bát La Hán, trong đó có thuyết giải thích người dân cổ đại Trung Quốc cho rằng con số 9 là số cát tường, tốt đẹp; vì vậy từ cuối thời nhà Đường người ta thêm 2 vị vào trong Thập Lục La Hán. Đến sau thời nhà Tống, Nguyên, thuyết về Thập Bát La Hán trở thành rất phổ cập trong dân gian cũng như văn học Trung Quốc; như trong tác phẩm Tây Du Ký (西遊記) có câu chuyện 18 vị La Hán đấu với Ngộ Không. Theo Bí Điện Châu Lâm Tục Biên (秘殿珠林續編) được hình thành dưới thời nhà Thanh, vua Càn Long (乾隆) có bài đề tụng 2 vị tôn giả cuối cùng trong 18 vị này là Hàng Long La Hán (降龍羅漢) tức Ca Diếp Tôn Giả (迦葉尊者), Phục Ma La Hán (伏虎羅漢) tức Di Lặc Tôn Giả (彌勒尊者). Ngoài ra, còn có thuyết khác về Thập Bát La Hán như:
(1) Hàng Long La Hán (降龍羅漢), tức Khánh Hữu Tôn Giả (慶友尊者), tương truyền đã từng hàng phục con rồng ác độc.
(2) Tọa Lộc La Hán (坐鹿羅漢), tức Tân La Bạt La Đa Tôn Giả (賓羅跋羅多尊者), từng cỡi hươu vào hoàng cung khuyến dụ quốc vương học Phật, tu hành.
(3) Cử Bát La Hán (舉缽羅漢), tức Ca Nặc Ca Bạt Li Tùy Các (迦諾迦跋厘隋閣), là hành giả từng cầm bình bát đi khất thực hóa duyên.
(4) Quá Giang La Hán (過江羅漢), tức Bạt Đà La Tôn Giả (跋陀羅尊者), tương truyền ông qua sông nhẹ như con chuồn chuồn.
(5) Phục Hổ La Hán (伏虎羅漢), tức Tân Đầu Lô Tôn Giả (賓頭盧尊者), từng hàng phục mãnh hổ.
(6) Tĩnh Tọa La Hán (靜坐羅漢), tức Nặc Cự La Tôn Giả (諾距羅尊者), còn gọi là Đại Lực La Hán (大力羅漢), do vì trong thời quá khứ ông xuất thân là võ sĩ, cho nên sức mạnh vô song.
(7) Trường Mi La Hán (長眉羅漢), tức A Thị Đa Tôn Giả (阿氏多尊者), tương truyền khi ông ra đời có hai sợi lông mi dài.
(8) Bố Đại La Hán (布袋羅漢), tức Nhân Yết Đà Tôn Giả (因揭陀尊者), thường mang trên một túi vải, thường mở miệng là cười.
(9) Khán Môn La Hán (看門羅漢), tức Chú Đồ Bán Thác Ca Tôn Giả (注荼半托迦), hay Châu Lợi Bàn Đà Già (周利槃陀伽), vì người tận trung giữ gìn chức phận mình.
(10) Thám Thủ La Hán (探手羅漢), tức Bán Thác Ca Tôn Giả (半托迦尊者), nhân khi ngồi thường chỉ tay lên không trung nên có tên như vậy.
(11) Trầm Tư La Hán (沉思羅漢), tức La Hỗ La Tôn Giả (羅怙羅尊者), một trong 10 đại đệ tử của Phật, lấy mật hạnh làm đầu.
(12) Kỵ Tượng La Hán (騎象羅漢), tức Ca Lí Ca Tôn Giả (迦理迦尊者), hay Tuần Tượng Sư (馴象師, bậc thầy thuần hóa voi nên thường cỡi voi).
(13) Hoan Hỷ La Hán (歡喜羅漢), tức Ca Nặc Phạt Sa Tôn Giả (迦諾伐蹉尊者), nguyên là một nhà Hùng biện thời cổ đại Ấn Độ.
(14) Tiếu Sư La Hán (笑獅羅漢), tức La Phất Đa Tôn Giả (羅弗多尊者), nguyên là thợ săn, nhân học Phật nên từ bỏ sát sanh, sư tử đến tạ ơn, nên có tên như vậy.
(15) Khai Tâm La Hán (開心羅漢), tức Thú Bác Ca Tôn Giả (戍博迦尊者), giúp người hiểu được Phật trong tâm mình.
(16) Thác Tháp La Hán (托塔羅漢), tức Tô Tần Đà (蘇頻陀), là đệ tử được đức Phật thâu nhận cuối cùng; ông nhớ đến đức Phật nên thường mang theo tháp Phật trên tay.
(17) Ba Tiêu La Hán (芭蕉羅漢), tức Phạt Na Bà Tư Tôn Giả (伐那婆斯尊者), sau khi xuất gia ông thường ngồi tu hành công phu dưới gốc cây chuối, nên có tên như vậy.
(18) Oạt Nhĩ La Hán (挖耳羅漢), tức Na Ca Tê Na Tôn Giả (那迦犀那尊者), do ông nổi tiếng là nhĩ căn thanh tịnh nên thường được gọi là La Hán Móc Tai.
(淳祐, Shunnyū, 890-953): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, húy là Thuần Hựu (淳祐), thông xưng là Thạch Sơn Nội Cúng (石山內供), Phổ Hiền Viện Nội Cúng (普賢院內供); xuất thân kinh đô Kyoto, con của quan Hữu Trung Biện Quản Nguyên Thuần Mậu (右中辯菅原淳茂). Ông theo xuất gia với Quán Hiền (觀賢) ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), thọ giới ở Giới Đàn của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), và đến năm 925 thì nhận Truyền Pháp Quán Đảnh của Quán Hiền. Ông được suy cử chức Tọa Chủ Đề Hồ Tự, nhưng vì biết thân mang nhiều bệnh tật, không thể làm việc được nhiều, nên khước từ và lui về ẩn cư ở Thạch Sơn Tự (石山寺), trú tại Phổ Hiền Viện. Tương truyền ông theo hầu Quán Hiền lên Cao Dã Sơn để thông báo cho đại chúng biết việc triều đình hứa khả ban thụy hiệu cho Không Hải Đại Sư vào năm 921, khi ấy ông chạm tay vào đùi gối của Không Hải, đến lúc thả tay ra thì mùi hương thơm vẫn tỏa ngát mãi cho đến suốt đời. Ông đã cho tiến hành nghiên cứu kinh điển và hoàn thành vai trò rất lớn trong việc làm cho Đông Mật phát triển. Đệ tử phú pháp của ông có Nguyên Cảo (元杲), Cứu Thế (救世), Khoan Trung (寬忠), v.v. Trước tác ông để lại có Thai Tạng Tập Ký (胎藏集記) 10 quyển, Thai Tạng Thất Tập (胎藏七集) 3 quyển, Kim Cang Giới Thất Tập (金剛界七集) 2 quyển, Kim Cang Giới Thứ Đệ Pháp (金剛界次第法) 4 quyển, v.v.
(子貢, 520-? ttl.): đệ tử của Trọng Ni (仲尼, tức Khổng Tử), họ Đoan Mộc (端木), tên là Tứ (賜), tự là Tử Cống, sinh năm thứ 25 (520) đời Chu Cảnh Vương (周景王). Ông có tài Hùng biện và bên cạnh đó còn có tài làm ra tiền, được Khổng tử gọi là “hồ liễn chi khí (瑚璉之器).” Hồ liễn (瑚璉) là một loại bát đĩa tôn quý đặc biệt chỉ dùng đựng đồ cúng tế thời cổ đại; nhà Hạ gọi nó là “hồ (瑚)”, nhà Ân gọi là “liễn (璉)”. Từ này được dùng để chỉ cho người có tài năng đặc biệt, có thể đảm đương đại sự, giống như Tử Cống. Ông được tôn sùng như là Thần Tài.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập