Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hồng danh »»
(興福寺奏狀, Kōfukujisōjō): bản tấu trạng do chúng môn đồ của phía Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) dâng lên triều đình thỉnh cầu cấm chế giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật (專修念佛). Người viết bản thảo là Giải Thoát Phòng Trinh Khánh (貞慶, Jōkei). Bản trạng văn ghi tháng 10 năm 1205 (Nguyên Cửu [元久] nhị niên), nêu lên 9 điều sai trái và phê phán giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật của Pháp Nhiên (法然, Hōnen). Tám tông phái lớn đương thời như Pháp Tướng, Thiên Thai, v.v., tất nhiên đã được sắc hứa của triều đình nên công nhiên hoạt động, riêng Pháp Nhiên thì lập ra một tông phái mới mà vẫn chưa có sự hứa khả (sai lầm thứ nhất), vẽ bức Nhiếp Thủ Bất Xả Mạn Trà La (攝取不捨曼荼羅) với tư tưởng cho rằng ánh quang minh của đức Di Đà không chiếu soi đến các học sinh của Hiển Tông cũng như hành giả của Chơn Ngôn; thể hiện sự khinh miệt trắng trợn đối với những nhà tu hành của Thánh Đạo Môn (sai lầm thứ hai). Phái này chỉ biết trọng thị Phật Di Đà, xem thường đấng giáo chủ Thích Ca (sai lầm thứ ba); bỏ đi các việc làm thiện như đọc tụng kinh điển, kiến lập chùa tháp, v.v. (sai lầm thư tư); rồi không lễ lạy các đền thờ, tông miếu (sai lầm xem thường Ngũ Linh Thần [五靈神] thư năm); phủ nhận đạo đức của thế gian và thiện căn ngoài việc niệm Phật, do đó không công nhận các hạnh vãng sanh (sai lầm thứ sáu). Họ chỉ biết lấy pháp môn miệng niệm Hồng danh mà bỏ qua việc niệm Phật theo hình thứ quán niệm cũng như tâm niệm (sai lầm về quan niệm niệm Phật thứ bảy); thậm chí còn khuyến khích phá giới như phạm nữ sắc, ăn thịt, v.v. (sai lầm làm tổn hại chúng đệ tử Thích Tôn thứ tám); làm phá tan nguyên tắc Vương Pháp Phật Pháp và dấy sinh loạn lạc (sai lầm làm cho quốc gia loạn lạc thứ chín). Bản tấu trạng này đã nêu lên 9 điều sai lầm nghiêm trọng (bằng Hán văn) của giáo đoàn niệm Phật, thỉnh cầu đình chỉ pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật, và xử phạt Pháp Nhiên cũng như chúng đệ tử ông. Khoảng 1, 2 năm sau đó, Pháp Nhiên cùng môn đệ bị lưu đày.
(靈源): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho căn nguyên của tất cả, tức Phật tâm, Phật tánh, chân như bình đẳng tuyệt đối. Như trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 12 có đoạn: “Nhân căn hữu lợi độn, đạo vô Nam Bắc tổ, linh nguyên minh kiểu khiết, chi phái ám lưu chú, chấp sự nguyên thị mê, khế lý diệc phi ngộ (人根有利鈍、道無南北祖、靈源明皎潔、枝派暗流注、執事原是迷、契理亦非悟, căn người có bén lụt, đạo không Nam Bắc tổ, Phật tâm sáng trong suốt, dòng phái tối chảy vào, chấp chặt nguyên là mê, khế lý cũng chẳng ngộ).” Hay trong Vĩnh Minh Trí Giác Thiền Sư Duy Tâm Quyết (永明智覺禪師唯心訣, Taishō Vol. 48, No. 2018) lại có đoạn: “Tam Thừa chi chánh triệt, nhập đạo chi yếu tân, Bát Nhã chi linh nguyên, Niết Bàn chi quật trạch (三乘之正轍、入道之要津、般若之靈源、涅槃之窟宅, Ba Thừa ấy lối chính, vào đạo ấy bến bờ, Bát Nhã ấy nguồn chơn, Niết Bàn ấy nhà động).” Hoặc trong Chứng Đạo Ca Chú (證道歌註, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1293) cũng có đoạn: “Nguyên phù linh nguyên trạm tịch, pháp hải uyên thâm, bổn vô danh tướng chi thù, an hữu thánh phàm chi dị (原夫靈源湛寂、法海淵深、本無名相之殊、安有聖凡之異, nguyên lai nguồn linh vẳng lặng, biển pháp uyên thâm, vốn không danh tướng chia sai, sao có thánh phàm tạo khác).”
(六時懺悔, Rokujizange): Sáu Thời Sám Hối, trong một ngày đêm được chia làm sáu thời rõ rệt để tiến hành sám hối, tụng kinh, làm Phật sự. Ban ngày thì có ba thời vào buổi sáng, giữa ngày, cuối ngày. Ban đêm có ba thời vào đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm. Trong Kinh A Di Đà có dạy rằng ở cõi Tịnh Độ đêm ngày sáu thời mưa hoa Mạn Đà La. Thiện Đạo (善導, 613-681), người sáng lập ra Tịnh Độ Giáo Trung Quốc, có viết ra cuốn Vãng Sanh Lễ Tán (徃生禮讚) gồm những câu kệ văn để cho người cầu vãng sanh về cõi Tịnh Độ ngày đêm sáu thời lễ bái và xưng tán Hồng danh. Đây là thánh điển vô cùng quan trọng về mặt nghi thức của Tịnh Đô Tông. Ở Nhật Bản, có cuốn Lục Thời Tán (六時讚) của Nguyên Tín (源信, Genshin) cũng rất nổi tiếng. Tại Việt Nam, trong tác phẩm Khóa Hư Lục (課虛錄) của vua Trần Thái Tông (陳太宗, 1218-1277) cũng có phần Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi (六時懺悔科儀), như trong bài Tựa có khẳng định rằng: “Tiện lợi việc đi lại dưới sông trên bộ, là nhờ xe, thuyền; tẩy sạch bụi nhơ nơi thân, tâm, là do sám hối. Muốn tẩy sạch thân tâm mà không dùng sám hối, khác nào muốn tiện lợi qua lại mà chẳng dùng xe, thuyền. Thế mới biết công dụng sám hối rất là to. Cho nên Kinh Đại Tập nói: 'Như áo nhơ hằng trăm năm, có thể trong một ngày giặt được sạch sẽ. Như thế, trong trăm ngàn kiếp đã tích tập các nghiệp chẳng lành, do nhờ lực Phật, khéo thuận tư duy, có thể trong một ngày hay một giờ, trọn hay tiêu diệt.'”
(雅範): chỉ phong độ thoát tục, phẩm cách cao thượng. Như trong bài Thù Đức Phú (酬德賦) của Tạ Thiếu (謝朓, 464-499) nhà Tề thời Nam Triều có câu: “Viên nhã phạm dĩ tự tuy, ý tiền tu chi sở úc (援雅範以自綏、懿前修之所勖, nương phong độ để tự yên, đức tu trước nên cố gắng).” Hay trong tác phẩm Quế Lâm Sương (桂林霜), phần Hoàn Trung (完忠), của Tưởng Sĩ Thuyên (蔣士銓, 1725-1784) nhà Thanh lại có câu: “Cửu ngưỡng Hồng danh, hạnh chiêm nhã phạm (久仰鴻名、幸瞻雅範, lâu ngưỡng tiếng thơm, may nhìn phong cách).”
(心地): có ba nghĩa chính:
(1) Chỉ cho Giới (s: śīla, p: sīla, 戒). Giới lấy tâm làm gốc, giống như thế gian lấy đại địa làm cơ sở; nên mới gọi Giới là Tâm Địa (đất tâm). Vì vậy có Pháp Môn Tâm Địa, tức là pháp môn chuyên hình trì Giới Luật tinh nghiêm.
(2) Chỉ cho tâm của 50 vị của Bồ Tát, gồm Thập Tín (十信), Thập Trụ (十住), Thập Hạnh (十行), Thập Hồi Hướng (十回向), Thập Địa (十地). Vị Bồ Tát căn cứ vào tâm mà tu hành, nên thí dụ tâm như đất, mới có tên là Tâm Địa.
(3) Trong Thiền Tông, Bồ Đề do Tổ Sư Đạt Ma (達摩) truyền cũng được gọi là Tâm Địa. Trong Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh Nghĩa Sớ Phát Ẩn (梵網菩薩戒經義疏發隱, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 679) có đoạn: “Thử Tâm Địa giới, phi thiện phi ác, nhi thật dĩ hành thiện chỉ ác vi dụng, y trì thử giới, nhiên hậu hành thiện hữu phương, chỉ ác hữu đạo (此心地戒、非善非惡、而實以行善止惡爲用、依持此戒、然後行善有方、止惡有道, giới Tâm Địa này, chẳng thiện chẳng ác, mà thật ra lấy công dụng của việc làm điều thiện dừng việc ác, nương vào việc giữ giới này, sau đó làm điều thiện mới có hướng, dừng việc ác mới có đường).” Hay trong Nguyên Tẩu Hành Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (元叟行端禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1419) có câu: “Tham Thiền chỉ yếu liễu Tâm Địa, Tâm Địa liễu thời chư pháp không (參禪只要了心地、心地了時諸法空, Tham Thiền chỉ cần rõ Tâm Địa, Tâm Địa rõ rồi các pháp không).” Hoặc trong Cẩm Giang Thiền Đăng (錦江禪燈, q.1, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1590) có đoạn rằng: “Nguyên giả thị chúng sanh bản giác chơn tánh, diệc danh Phật tánh, diệc danh Tâm Địa; ngộ chi danh Tuệ, tu chi danh Định, Định Tuệ thông danh vi Thiền, cố vân Thiền nguyên, diệc danh Thiền Na (源者是一切眾生本覺眞性、亦名佛性、亦名心地、悟之名慧、修之名定、定慧通名爲禪、此性是禪之本源、故云禪源、亦名禪那, đầu nguồn là chơn tánh bản giác của chúng sanh, cũng gọi là Phật pháp, cũng gọi là Tâm Địa; ngộ thì gọi là Tuệ, tu tập thì gọi là Định, tên chung của Định Tuệ là Thiền, tánh này là nguồn gốc của Thiền, nên gọi là nguồn Thiền, cũng gọi là Thiền Na).”
(s: Mañjuśrī, 文殊師利): hay Man Thù Thất Lợi (曼殊室利), Tàu dịch là Diệu Đức (妙德) hoặc Diệu Cát Tường (妙吉祥). Ngài sanh ra từ vai phải của mẹ, trong một gia đình Bà La Môn ở tụ lạc Đa La (多羅) tại Xá Vệ Quốc (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛國). Thân thể Ngài có màu vàng tía, về sau Ngài xuất gia với đức Phật. Trong Đạo Giáo, Ngài được gọi là Văn Thù Quảng Đại Thiên Tôn (文殊廣法天尊). Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị Bồ Tát thường theo hầu bên đức Phật Thích Ca, được gọi là Thích Ca Tam Tôn (釋迦三尊), khác với Di Đà Tam Tôn, hay Tây Phương Tam Thánh. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh (首楞嚴三昧經) cho biết rằng: “Vào thời quá khứ vô lượng A Tăng Kỳ Kiếp, có thế giới ở phương Nam tên Bình Đẳng (平等), đức Phật của thế giới ấy tên là Long Chủng Thượng Như Lai (龍種上如來), tức là đức Văn Thù Bồ Tát hiện tại.” Hay như Ương Quật Ma La Kinh (央掘魔羅經) có giải thích về xuất xứ của Ngài rằng: “Đức Hoan Hỷ Tạng Ma Bảo Tích Phật (歡喜藏摩尼寶積佛) ở thế giới Thường Hỷ (常喜) ở phương Bắc hiện tại chính là đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.” Tuy nhiên, trong Bi Hoa Kinh (悲華經) lại cho rằng: “Khi đức Phật A Di Đà đang còn làm Chuyển Luân Thánh Vương, có vị Vương Tử thứ ba tên Vương Chúng (王眾), đã phát tâm Bồ Đề, nguyện trong đời tương lai, đời đời kiếp kiếp, thực hành đạo Bồ Tát, không có dừng nghỉ, không giới hạn nơi chỗ, để trang nghiêm thanh tịnh quốc độ Phật; khiến cho tam thiên đại thiên thế giới, hằng hà sa số mười phương quốc độ rộng lớn, hợp lại thành một thế giới của vị này giáo hóa. Trong thế giới ấy có vô lượng đầy đủ các của báu, không có xúc chạm những điều nhơ nhớp, đau khổ, không có người nữ, thậm chí không có danh từ người nữ; lại không có chúng sanh chưa phát tâm Bồ Đề. Vị Vương Tử thứ ba phát nguyện xong, Bảo Tạng Phật bèn đặt cho Vương Tử tên là Văn Thù Sư Lợi, thọ ký vào thời mạt pháp tương lai sẽ thành tựu viên mãn vô thượng chánh đẳng chánh giác tại quốc độ tên Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chấn (清淨無垢寶窴) với danh hiệu là Phổ Hiện Như Lai (普現如來).” Trong Quán Phật Tam Muội Hải Kinh (觀佛三昧海經) lại cho biết thêm rằng đương thời khi đức Thế Tôn sau khi vì đại chúng thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh xong, Văn Thù Bồ Tát thưa với đại chúng rằng: “Vào thời quá khứ đức Bảo Uy Đức Như Lai (寶威德如來), có một người con của Trưởng Giả kia tên Giới Hộ (戒護), khi đang con trong bào thai mẹ đã thọ Tam Quy Y. Năm lên 8 tuổi, song thân cậu bé cung thỉnh đức Thế Tôn đến tư gia thiết lễ cúng dường. Khi cậu bé diện kiến đức Phật, uy nghi an tường, từng bước đi bình ổn, khoan thai, nơi từng bước chân của Ngài đều nở ra một đóa sen, và thân tướng Ngài phóng ra ánh sáng rực rỡ. Thấy vậy cậu bé vô cùng hoan hỷ, hướng Phật cung kính lễ bái, xong từ từ nhìn chăm chăm đức Thế Tôn mà không hề chớp mắt. Chỉ một lần thấy được Phật, tức trừ đi được trăm vạn ức kiếp các tội nặng sanh tử. Đồng tử này do nhờ duyên đã thọ Tam Quy và lễ bái đức Phật, rồi quán sát tướng hảo của đức Như Lai rất kỹ lưỡng, tâm không mệt mỏi, lười biếng, nhờ vậy mà có thể gặp được vô số các đức Phật. Đồng tử lúc bầy giờ chính là Văn Thù Sư Lợi tôi đây.” Sau khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói xong, đức Phật bảo A Nan rằng: “Con hãy nên ghi nhận, nhớ kỹ câu chuyện của Văn Thù Sư Lợi, đem phổ biến đến khắp các chúng sanh, chúng sanh trong đời tương lai, nếu như có người có thể nhất tâm lễ bái, có thể tâm thành niệm Phật, có thể tâm thành quán Phật, nên biết rằng người ấy có công đức ngang bằng với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.” Lại trong Văn Thù Phát Nguyện Kinh (文殊發願經) có nêu lên bài kệ phát nguyện phần lớn giống với bài kệ của Phổ Hiền Bồ Tát (普賢菩薩): “Nguyện con lúc mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, mắt thấy A Di Đà, vãng sanh An Lạc Sát, sanh nơi nước Phật kia, trọn thành các nguyện lớn, A Di Đà Như Lai, trước mắt thọ ký con, trang nghiêm Phổ Hiền hạnh, đầy đủ Văn Thù nguyện, tận cùng kiếp tương lai, cứu cánh Bồ Tát hạnh.” Văn Thù, Phổ Hiền là hai vị Đại Thánh bổ tá cho đức Phật Tỳ Lô Giá Na (毘盧遮那) trên hội Hoa Nghiêm (華嚴). Hạnh nguyện độ sanh của hai vị Bồ Tát này đều lấy cơ sở của pháp môn Niệm Phật, lấy Tịnh Độ là nơi quy hướng cuối cùng. Đặc biệt trong Phóng Bát Kinh (放缽經), đức Phật có đề cao vai trò của Văn Thù Sư Lợi rằng: “Nay ta thành Phật, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, oai thần tôn quý, độ thoát mười phương hết thảy chúng sanh, thảy đều nhờ ơn của Văn Thù Sư Lợi; Văn Thù Sư Lợi chính là thầy của ta. Vô lượng vô số chư Phật trong quá khứ đều là đệ tử của Văn Thù Sư Lợi, tương lai thành Phật cũng nhờ oai thần thế lực của vị ấy; ví như trên đời con nhỏ có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong Phật đạo.” Văn Thù Sư Lợi là hóa thân của trí tuệ, nên thường được gọi là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (大智文殊師利菩薩). Bồ Tát Văn Thù thường được gọi là Tam Thế Giác Mẫu (三世覺母, mẹ giác ngộ của ba đời). Danh hiệu Long Chủng Thượng Tôn Vương Như Lai (龍種上尊王如來), hay Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật trong Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh (首楞嚴三昧經) là Bồ Tát Văn Thù. Hay như danh hiệu Phổ Minh Phật (普明佛) trong Bát Thập Bát Phật Hồng danh Bảo Sám cũng là Bồ Tát Văn Thù. Trong các kinh điển thường gọi Bồ Tát Văn Thù là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử (s: Mañjuśriyā Kumārabhūtena, 文殊師利法王子), có nghĩa rằng tất cả Bồ Tát đều gọi là con của đức Như Lai Pháp Vương. Kinh điển thường nêu Bồ Tát Văn Thù là Pháp Vương Tử là vì ngài là vị đệ tử thượng thủ trong hàng Bồ Tát, được xem như cánh tay phải bên cạnh Đức Phật. Trưởng Lão Xá Lợi Phất là Trí Tuệ Đệ Nhất trong hàng đệ tử Thanh Văn, còn Văn Thù Sư Lợi là Trí Tuệ Đệ Nhất trong hàng Bồ Tát Đại Thừa. Nhân trong quyển 80 của Hoa Nghiêm Kinh có câu: “Tại phương Đông Bắc có ngọn núi tên Thanh Lương Sơn (清涼山); từ xưa đến nay, các chúng Bồ Tát đều dừng chân trú tại núi đó, hiện có Bồ Tát tên Văn Thù Sư Lợi, cùng với quyến thuộc, các vị Bồ Tát một vạn người, thường trong núi ấy, tuyên diễn thuyết pháp.” Cho nên, Ngũ Đài Sơn (五台山, còn gọi là Thanh Lương Sơn) ở Tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc được công nhận là đạo tràng của Văn Thù Bồ Tát, trở thành một trong 4 ngọn núi danh tiếng. Nga Mi Sơn (峨嵋山) là thánh địa của Phổ Hiền Bồ Tát (普賢菩薩). Phổ Đà Sơn (普陀山) là thánh địa của Quan Thế Âm Bồ Tát. Cửu Hoa Sơn (九華山) là thánh địa của Địa Tạng Vương Bồ Tát (地藏王菩薩).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.49 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập