Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hoàn Khê Duy Nhất »»
(臘月、蠟月): tên gọi khác của tháng 12 Âm Lịch. Cách gọi như vậy có liên quan rất lớn với mùa màng tự nhiên, chủ yếu là với việc cúng tế trong năm. Từ lạp (臘) ở đây vốn là tên của một lễ tế cuối năm. Bộ Phong Tục Thông Nghĩa (風俗通義) của Ứng Thiệu (應劭, khoảng 153-196) nhà Hán giải thích rằng: “Hạ viết Gia Bình, Ân viết Thanh Tự, Chu dụng Đại Lạp, Hán cải vi Lạp. Lạp giả, lạp dã, ngôn điền lạp thủ cầm thú, dĩ tế tự kỳ tiên tổ dã (夏曰嘉平、殷曰清祀、周用大蠟、漢改爲臘、臘者、獵也、言田獵取禽獸、以祭祀其先祖也, nhà Hạ gọi là Gia Bình, nhà Ân gọi là Thanh Tự, nhà Chu dùng chữ Đại Lạp, nhà Hán đổi thành Lạp. Lạp nghĩa là săn bắn, tức săn bắn cầm thú, để cúng tế tổ tiên vậy).” Hay cho rằng: “Lạp giả, tiếp dã; tân cố giao tiếp, cố đại tế dĩ báo công dã (臘者、接也、新故交接、故大祭以報功也, Lạp nghĩa là hội họp; vì năm mới nên giao tiếp, cho nên cúng tế lớn để báo công vậy).” Nhân tháng 12 này thường có lễ cúng tế lớn nên được gọi là “Tháng Cúng Tế”. Người Tần gọi lễ Tế Thần vào cuối năm là Lạp. Tháng 12 là tháng cuối cùng của một năm, đúng vào tiết Đông giá buốt. Ngạn ngữ dân gian có câu: “Lạp thất, Lạp Bát, đống trạo hạ ba (臘七、臘八、凍掉下巴, mồng bảy tháng Chạp, mồng 8 tháng Chạp, lạnh buốt xương tủy)”; để diển tả cái lạnh tột cùng âm 20 độ C, mọi công việc đồng án đều phải đình trệ; cho nên tháng Chạp còn được gọi là Đông Nhàn (冬閑, mùa Đông nhàn hạ). Dưới thời nhà Chu, bất luận nhà quan quyền hay bá tánh thường dân, mỗi nhà đều phải cử hành lễ gọi là “tuế chung chi tế (歲終之祭, cúng cuối năm)”, rất long trọng, rầm rộ nhất trong năm; lễ cúng đó gọi là Lạp. Trong tác phẩm Độc Đoán (獨斷), quyển Hạ của Thái Ung (蔡邕, 132-192) nhà Đông Hán có ghi rằng: “Lạp giả, tuế chung đại tế (臘者、歲終大祭, Lạp nghĩa là cúng tế lớn cuối năm).” Hay như tác phẩm Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Đài Khanh (杜臺卿, ?-?) nhà Tùy cũng ghi là: “Lạp, nhất tuế chi đại tế (臘、一歲之大祭, Lạp là lễ tế lớn trong một năm).” Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) do Tông Lẫm (宗懍, khoảng 501-565) nhà Lương thời Nam Triều cũng cho rằng: “Khổng Tử sở dĩ dự bồi tân, nhất tuế chi xuất, thạnh ư thử tiết (孔子所以預以陪賓、一歲之出、盛於此節, sở dĩ Khổng Tử chuẩn bị mọi thứ để tiếp khách, nội trong một năm, thịnh hành vào tiết này).” Về thời gian tiến hành cúng tế Lạp, từ thời nhà Chu trở đi, trãi qua các thời đại đều quy định tháng 12, nhưng ngày nào thì trước thời nhà Tần vẫn chưa có ký lục cụ thể. Sau thời nhà Hán, chư vị hoàng đế của các triều đại, nương vào lý luận Ngũ Hành tương sanh, có định ra một ngày Tuất nào đó trong tháng 12, nhưng cũng chẳng thống nhất. Đến thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), vua Lương Võ Đế (梁武帝, tại vị 502-549) định Tiết Lạp Nhật (臘日節) là ngày mồng 8 tháng Chạp. Vì ông là người sùng tín Phật Giáo, ngày mồng 8 tháng Chạp cũng đúng vào dịp Phật thành đạo, nên ông kết hợp đồng thời cúng tế tổ tiên, thần linh và đức Phật. Trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Hạ có câu: “Lạp Nguyệt tận thị tuế trừ dạ, minh triêu hựu thị chánh nguyệt nhất, niên khứ niên lai vô tận kỳ (臘月盡是歲除夜、明朝又是正月一、年去年來無盡期, tháng Chạp hết là đêm cuối năm, sáng mai lại là mồng một Tết, xuân đến xuân đi vô cùng tận).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 33 có bài Tụng Cổ của Thiền Sư Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文, 1025-1102): “Lạp Nguyệt nhị thập ngũ, kỵ lư bất đả cổ, xuân phong bách thảo sanh, trũng thượng thiêm tân thổ (臘月二十五、騎驢不打鼓、春風百草生、塚上添新土, ngày hai lăm tháng Chạp, cỡi lừa không đánh trống, gió xuân trăm cỏ sinh, trên gò thêm đất mới).”
(西礀子曇, Seikan Shidon, 1249-1306): vị Thiền tăng của Phái Dương Kì (楊岐) và Tùng Nguyên (松源) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, trú trì đời thứ 6 của Viên Giác Tự (圓覺寺皎, Enkaku-ji), Tổ của Phái Tây Giản (西礀派, tức Phái Đại Thông [大通派]); húy là Tử Đàm (子曇), đạo hiệu Tây Giản (西礀), thụy hiệu Đại Thông Thiền Sư (大通禪師); xuất thân vùng Tiên Cư (仙居), Đài Châu (台州, thuộc Tỉnh Triết Giang) Trung Quốc, họ Hoàng (黃). Vào năm đầu (1265) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳), lúc 17 tuổi, ông xuất gia và thọ giới tại Quảng Độ Tự (廣度寺). Sau đó, ông đến tham vấn Thạch Lâu Minh (石樓明) ở Thừa Thiên Tự (承天寺), rồi đến tháng 8 cùng năm này thì theo học pháp với Thạch Phàm Duy Diễn (石帆惟衍) và thọ nhận tông chỉ của vị này. Vào tháng 2 năm thứ 6 (1270) niên hiệu Hàm Thuần, ông theo Thạch Phàm đến trú tại Thiên Đồng (天童). Đến tháng 7 năm sau, đáp lời cung thỉnh của Tướng Quân Thời Tông (時宗, Tokimune), ông sang Nhật Bản. Tại đây, ông từng theo hầu Viên Nhĩ Biện Viên (圓爾辨圓) ở Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) cũng như Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura); nhưng rồi đến năm đầu (1278) niên hiệu Hoằng An (弘安) thì trở về nuớc. Từ đó, ông lên núi Thiên Đồng, tham yết Hoàn Khê Duy Nhất (環溪惟一), làm chức Tạng Chủ (藏主) ở đây; rồi giã từ nơi này, đến trú tại Tử Nham (紫岩) thuộc Đài Châu, và chuyên tâm trao truyền pháp nhũ của Thạch Phàm. Bên cạnh đó, ông còn đến tham bái Vân Phong Diệu Cao (雲峰妙高) ở Kính Sơn (徑山). Vào năm thứ 27 (1290) niên hiệu Chí Nguyên (至元) nhà Nguyên, ông đến sống tại Thiên Trụ (天柱), rồi đến năm đầu (1299) niên hiệu Chánh An (正安) của Nhật Bản, vâng mệnh vua Thế Tổ (世祖, tại vị 1260~1294), ông tháp tùng Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧) sang Nhật lần thứ hai. Vị Tướng Quân chấp quyền đương thời là Bắc Điều Trinh Thời (北條貞時, Hōjō Sadatoki) lấy lễ tôn ông làm thầy. Ông được cử đến trú trì Viên Giác Tự ở vùng Tương Mô (相模, Sagami, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]), rồi chuyển sang Kiến Trường Tự. Đặc biệt, ông được Hậu Vũ Đa Thượng Hoàng (後宇多上皇) thỉnh đến để hỏi pháp, học đạo. Vào tháng 10 năm đầu (1306) niên hiệu Đức Trị (德治), ông lui về ẩn cư ở Chánh Quán Tự (正觀寺), và đến ngày 28 thì thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi. Tháp của ông được kiến lập tại Truyền Đăng Am (傳燈庵) của Kiến Trường Tự. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Thông Thiền Sư.
(中秋節): đây là ngày Tết truyền thống của nhân dân các nước Đông Á, vốn khởi nguồn từ Trung Quốc, nhằm vào ngày rằm tháng 8 Âm Lịch hằng năm. Theo Âm Lịch Trung Quốc, tháng Tám là tháng thứ hai của mùa Thu; xưa kia gọi là Trọng Thu (仲秋); sau này dân gian gọi là Trung Thu (中秋), Thu Tịch (秋夕), Bát Nguyệt Tiết (八月節), Bát Nguyệt Bán (八月半), Nguyệt Tịch (月夕), Nguyệt Tiết (月節). Hơn nữa, do vì vào lúc này mặt trăng tròn đầy, tượng trưng cho sự đoàn viên, nên có tên là Đoàn Viên Tiết (團圓節). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v., cũng xem Tết Trung Thu như là ngày Tết truyền thống của quốc gia. Từ ngữ “Trung Thu” được tìm thấy sớm nhất trong các thư tịch Chu Lễ (周禮), Lễ Ký (禮記), v.v. Như trong chương Nguyệt Lịnh (月令) của Lễ Ký có ghi rằng: “Trung Thu chi nguyệt dưỡng suy lão, hành mi chúc ẩm thực (仲秋之月養衰老、行糜粥飲食, tháng của giữa Thu dưỡng tuổi già, nấu cháu kê mà ăn uống).” Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) trở về sau, Tết Trung Thu trở thành ngày Têt cố định. Truyền thuyết cho rằng vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (唐玄宗李隆基, tại vị 658-762) mộng thấy đi chơi trên cung trăng, thưởng thức nhạc trời gọi là Nghê Thường Vũ Y Khúc (霓裳羽衣曲), từ đó dân gian bắt đầu thịnh hành tập tục Tết Trung Thu. Thông thường, người ta vẫn cho rằng lễ Tết này bắt đầu thịnh hành dưới thời nhà Tống (宋, 960-1279). Đến cuối thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), khi khởi binh, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) có bí mật lấy bánh Trung Thu làm tín hiệu “bát nguyệt thập ngũ nhật sát Thát Tử (八月十五日殺韃子, ngày Rằm tháng Tám giết quân Mông Cổ)”; cho nên vào năm 1368 (Hồng Võ [洪武] nguyên niên), Chu Nguyên Chương cho lấy bánh Trung Thu làm bánh ngọt thiết đãi quần thần. Vào thời nhà Minh (明, 1368-1644) và Thanh (清, 1616-1636), Tết Trung Thu đã trở thành một trong những ngày Tết truyền thống lớn nhất của Trung Quốc. Bộ Chánh Đức Giang Ninh Huyện Chí (正德江寧縣誌) có ghi lại rằng vào đêm Trung Thu, người dân Nam Kinh thường thưởng thức trăng Thu, cả nhà cùng nhau ngắm trăng được gọi là khánh đoàn viên (慶團圓), ngồi quanh quần ăn uống vui vẻ gọi là viên nguyệt (圓月), ra ngoài đi chơi các phố phường gọi là tẩu nguyệt (走月). Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về nguồn gốc của Tết Trung Thu là Thường Nga Bôn Nguyệt (嫦娥奔月, Thường Nga [Hằng Nga] đùa giỡn với trăng). Tương truyền từ thời cổ đại xa xưa, anh hùng bắn mặt trời là Hậu Nghệ (后羿) cưới Hằng Nga làm vợ, trở thành đế vương, thường thi hành chính sách hung bạo, ác độc. Có một hôm nọ, Hậu Nghệ xin được một bao thuốc trường sinh bất tử từ tay Tây Vương Mẫu (西王母). Hậu Nghệ mang thuốc về nhà và cất vào trong một cái hộp. Hằng Nga biết được, sợ rằng sau khi uống thuốc này vào thì Hậu Nghệ sẽ trở thành trường sinh bất tử, làm cho muôn dân càng thống khổ hơn, bèn lấy toàn bộ thuốc ấy uống sạch, sau đó biến thành tiên nữ, bay lên trên cung trăng. Bá tánh sau khi biết Hằng Nga thành tiên bay lên cung trăng rồi, thiết bàn hương án dưới mặt trăng, cầu xin tiên nữ ban cho bình an, cát tường. Vì vậy có phong tục lạy mặt trăng vào dịp Tết Trung Thu. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có những tập tục trong dịp Tết Trung Thu. Tại Trung Hoa, có một số phong tục chính như ngắm trăng Trung Thu, ăn Bánh Trung Thu, treo hay rước lồng đèn, đốt tháp đồ mã, v.v. Tập tục ngắm trăng được xem như là một trong những hoạt động truyền thống vào dịp này. Trong Lễ Ký có từ “Thu mộ tịch nguyệt (秋暮夕月)”, ý là bái tế Thần Mặt Trăng; vào lúc này thì thiết hương án để nghinh đón mùa lạnh và tế mặt trăng. Như trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) có ghi rằng: “Trung Thu dạ, quý gia kết sức đài tạ, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt (中秋夜、貴家結飾台榭、民間爭占酒樓玩月, vào đêm Trung Thu, nhà cao sang thì trang trí đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm quán rượu để ngắm trăng).” Về Bánh Trung Thu, dân gian Trung Quốc có câu rằng: “Bát nguyệt thập ngũ nhật chánh viên, Trung Thu nguyệt bính hương hựu điềm (八月十五日正圓、中秋月餅香又甜, ngày Rằm tháng Tám trăng thật tròn, ăn bánh Trung Thu hương ngọt thơm).” Trong Mộng Lương Lục (夢梁錄) của Ngô Tự Mai (吳自牧, ?-?) nhà Nam Tống cho biết rằng Bánh Trung Thu đương thời là một loại thực phẩm điểm tâm. Sau này, loại bánh này được đem dùng ăn ngắm trăng và đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ hội này. Đồng thời, Bánh Trung Thu cũng là lễ vật để liên lạc cảm tình giữa bằng hữu với nhau trong dịp Tết Trung Thu. Ngoài các loại bánh thông thường ra, tại Triết Giang (江浙) còn có Bánh Trung Thu Thịt Tươi (鮮肉月餅, Tiên Nhục Nguyệt Bính). Riêng tập quán đốt tháp vàng mã rất thịnh hành ở các vùng nông thôn của Phúc Kiến (福建), Giang Tây (江西), Quảng Đông (廣東), Quảng Tây (廣西), v.v. Thân của tháp được kết thành bởi những miếng gạch vỡ vụn, thân cây, cỏ bện; hình tròn, trên nhỏ dưới to, bên trong rỗng. Tại bán đảo Triều Tiên, lễ hội này được gọi là Thu Tịch (秋夕), Trọng Thu Tiết (仲秋節), Gia Bài (嘉俳), Trọng Thu (仲秋), Gia Bài Nhật (嘉俳日), Trọng Thu Giai Tiết (仲秋佳節). Nhân ngày này, người dân ở đây có phong tục thường đi tảo mộ, lấy các loại sản phẩm thu hoạch được để cúng tế tổ tiên, trở về quê thăm người thân, v.v. Đối với Nhật Bản, Tết Trung Thu được gọi là Thập Ngũ Dạ (十五夜, jūgoya), Trung Thu Danh Nguyệt (中秋の名月, chūshū-no-meigetsu), Vu Danh Nguyệt (芋の名月, imo-no-meigetsu). Người Nhật cũng có phong tục ngắm trăng gọi là nguyệt kiến (月見, tsukimi) và ăn loại bánh gọi là tsukimidango (月見團子, nguyệt kiến đoàn tử). Đặc biệt đối với Việt Nam, Tết Trung Thu đã trở thành ngày Tết long trọng của trẻ em, còn được gọi là Tết Trông Trăng hay Tết Thiếu Nhi, Tết Nhi Đồng. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước, v.v., rồi các thứ bánh như bánh nướng, bánh dẻo. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức Múa Lân, Múa Sư Tử, Múa Rồng để các em vui chơi thỏa thích. Thi sĩ Tản Đà (傘沱, 1889-1939) có làm bài thơ về Trung Thu rằng: “Có bầu có bạn can chi tủi, cùng gió cùng mây thế mới vui, rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, tựa nhau trông xuống thế gian cười.” Hay trong bài hát Rước Đèn Tháng Tám có câu như: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em múa ca trong ánh trăng rằm, đèn ông sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn bướm bướm, em rước đèn này đến cung trăng, đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng, trong ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Tết Trung Thu là một đề tài vô cùng phong phú cho các thi hào, văn sĩ. Như trong bài Thu Tiêu Nguyệt Hạ Hữu Hoài (秋宵月下有懷) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Thu không minh nguyệt huyền, quang thái lộ triêm thấp, kinh thước thê vị định, phi oanh quyển liêm nhập (秋空明月懸、光彩露沾濕、驚鵲棲未定、飛螢捲簾入, trời Thu trăng sáng tỏ, rực rỡ sương thấm ướt, chim khách không bến đậu, đóm bay cuộn rèm thưa).” Thi nhân Trương Cửu Linh (張九齡, 678-740) nhà Đường lại diển tả một sắc thái khác qua bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn (望月懷遠): “Hải thượng sanh minh nguyệt, thiên nhai cọng thử thời, tình nhân oán dao dạ, cánh tịch khởi tương tư (海上生明月、天涯共此時、情人怨遙夜、竟夕起相思, trên biển vừng trăng sáng, bờ trời cùng lúc này, tình nhân đêm não nuột, trọn buổi ôm tương tư).” Trong bài Bát Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ Bồn Đình Vọng Nguyệt (八月十五日夜湓亭望月), thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường đã gởi gắm cả nỗi niềm hoài vọng của ông rằng: “Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Khúc Giang trì bạn hạnh viên biên, kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Bồn phố sa đầu thủy quán tiền, Tây Bắc vọng hương hà xứ thị, Đông Nam kiến nguyệt kỷ hồi viên, tạc phong nhất xuy vô nhân hội, kim dạ thanh quang tợ vãng niên (昔年八月十五夜、曲江池畔杏園邊、今年八月十五夜、湓浦沙頭水館前、西北望鄉何處是、東南見月幾回圓、昨風一吹無人會、今夜清光似往年, năm xưa đêm Rằm tháng Tám ấy, cạnh hồ Khúc Giang vườn mơ thơm, năm nay đêm Rằm tháng Tám đến, sông Bồn bãi cát quán nước còn, Tây Bắc trông quê nào chốn nhỉ, Đông Nam trăng ngắm mấy lần tròn, gió thổi hôm qua đâu ai gặp, đêm nay sáng tỏ tợ năm nào).” Vương Kiến (王建, ?-?), thi nhân nhà Đường, cũng chia xẻ cùng nỗi niềm qua bài Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt (十五夜望月): “Trung đình địa bạch thọ thê nha, lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa, kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, bất tri Thu tư lạc thùy gia (中庭地白樹棲鴉、冷露無聲濕桂花、今夜月明人盡望、不知秋思落誰家, giữa sân nền sáng quạ trên xa, sương lạnh im lìm ướt quế hoa, đêm nay trăng tỏ người ngắm trọn, nào hay Thu niệm rụng ai nhà).” Trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có đoạn rằng: “Phỉ tấn phỉ tu siêu Thập Địa, vô văn vô đắc việt Tam Kỳ, Trung Thu ngọc thố đoàn đoàn thạnh, bán dạ khuê đồng toàn toàn khuy, nhập hải ba tư tham bất dĩ, nghĩ tương từ khí hoán Ma Ni (匪進匪修超十地、無聞無得越三祇、中秋玉兔團團盛、半夜圭桐旋旋虧、入海波斯貪不已、擬將瓷器換摩尼, chẳng tiến chẳng tu qua Mười Địa, không nghe không chứng vượt Ba Kỳ, Trung Thu trăng sáng tròn vành vạnh, đêm nửa ngô đồng gió vút vi, vào biển sóng cồn tham chẳng dứt, nghĩ đem đồ sứ đổi Ma Ni).” Hay trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Thượng lại có câu: “Kiểu khiết Trung Thu nguyệt, thanh quang xứ xứ đồng (皎潔中秋月、清光處處同, sáng rực Trung Thu nguyệt, trong vắt chốn chốn cùng).”
(無準師範, Bujun Shihan, 1177-1249): vị tăng của Phái Dương Kì và Phái Phá Am thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, xuất thân Huyện Tử Đồng (梓潼縣), thuộc Kiếm Châu (劍州, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Ung (雍), hiệu là Vô Chuẩn (無準). Năm lên 9 tuổi, ông theo xuất gia với Đạo Khâm (道欽) ở Âm Bình Sơn (陰平山), đến mùa đông năm thứ 5 (1194) niên hiệu Thiệu Hy (紹熙) thì thọ Cụ Túc giới. Năm sau, ông đến tham học với vị Nghiêu Thủ Tòa (堯首座) ở Chánh Pháp Tự (正法寺), cuối cùng tỉnh ngộ. Ông còn đến tham vấn Phật Chiếu Đức Quang (佛照德光) ở Đông Am (東庵) trên A Dục Vương Sơn (阿育王山) và Phá Am Tổ Tiên (破庵祖先) ở Tây Hoa Tú Phong Tự (西華秀峰寺) vùng Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô). Khi Tổ Tiên chuyển đến làm Thủ Tòa của Linh Ẩn Tự (靈隱寺), ông đi theo hầu, nhân nghe câu chuyện về con hồ tôn mà đại ngộ và được kế thừa dòng pháp của vị này. Ông bắt đầu tuyên dương giáo pháp tại Thanh Lương (清涼) vùng Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang), rồi sau khi trãi qua một vài nơi như Tiêu Sơn (焦山), Tuyết Đậu Sơn (雪竇山), A Dục Vương Sơn, ông lên Kính Sơn (徑山). Thể theo lời thỉnh cầu của vua Lý Tông, ông vào cung nội thăng tòa thuyết pháp ở Từ Minh Điện (慈明殿), và được ban cho hiệu là Phật Giám Thiền Sư (佛鑑禪師). Ông thị tịch vào ngày 18 tháng 3 năm thứ 9 niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), hưởng thọ 73 tuổi. Ông có một số đệ tử xuất chúng như Tuyết Nham Tổ Khâm (雪巖祖欽), Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元), Ngột Am Phổ Ninh (兀菴普寧), Hoàn Khê Duy Nhất (環溪惟一). Mấy vị tăng Nhật Bản như Đông Phước Viên Nhĩ (東福圓爾), Tánh Tài Pháp Tâm (性才法心), Diệu Kiến Đường Đạo Hựu (妙見堂道祐), v.v., đã sang nhà Tống cầu pháp và kế thừa dòng pháp của Sư Phạm. Bộ Phật Giám Thiền Sư Ngữ Lục (佛鑑禪師語錄) 5 quyển của ông hiện vẫn còn lưu hành.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập