Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hộ Mạng »»

(s: Cundi, t: bskul-bye-kma, 準提): âm dịch là Chuẩn Đề (准提、准胝), Chuẩn Nê (准泥), ý dịch là thanh tịnh, còn gọi là Chuẩn Đề Quan Âm (准提觀音), Chuẩn Đề Phật Mẫu (准提佛母), Phật Mẫu Chuẩn Đề (佛母准提), Thiên Nhân Trượng Phu Quan Âm (天人丈夫觀音), Thất Câu Chi Chuẩn Đề Đại Phật Mẫu (七俱胝準提大佛母); là vị Bồ Tát thường xuyên hộ trì Phật pháp, Hộ Mạng và làm cho những người đoản mạng được sống lâu; có sự cảm ứng rất lớn, trí tuệ cũng như phước đức của Ngài thì vô lượng. Bên cạnh đó, Ngài còn được sùng tín để cầu tiêu trừ tai nạn, cầu con, trừ tật bệnh, v.v., tùy duyên hóa hiện để cứu độ chúng sanh, làm cho thế gian và xuất thế gian tròn đầy hết thảy sự cầu nguyện. Trong Thiền Tông của Trung Quốc và Nhật Bản, Ngài được xem như là một trong những đấng chủ tôn của Quan Âm Bộ. Đặc biệt Thai Mật của Nhật Bản lấy Chuẩn Đề nhập vào Phật Mẫu, trở thành một trong những đối tượng tôn thờ của Phật bộ. Còn Đông Mật của Nhật Bản xem Chuẩn Đề là một trong 6 Quan Âm (Thiên Thủ Quan Âm, Thánh Quan Âm, Mã Đầu Quan Âm, Thập Nhất Diện Quan Âm, Chuẩn Đề Quan Âm, Như Ý Luân Quan Âm) của Liên Hoa Bộ. Ngài là thân ứng hóa của Quan Âm, phân nhập vào trong Sáu Đường để cứu độ chúng sanh. Ngài được an trí tại Biến Tri Viện (遍知院) của Hiện Đồ Thai Tạng Giới, hình tượng thường có 3 mắt với 2 tay, 4 tay, 6 tay, 8 tay, hay 18 tay, v.v. Trong Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (佛說七俱胝佛母心大准提陀羅尼經) có thuật lại rằng khi ở tại Vườn Cấp Cô Độc (給孤獨園), thuộc nước Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), đức Phật tư duy quán sát, thương tưởng các chúng sanh trong đời tương lai, nên tuyên thuyết “Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp (七俱胝佛母心准提陀羅尼法)”, tức là Chuẩn Đề Chú (準提咒) được các tín đồ Phật Giáo thường trì tụng. Bản tiếng Sanskrit của thần chú này là: “Namaḥ saptānāṃ samyaksaṃbuddha-koṭīnāṃ tad yathā. Oṃ cale cule cundi svāhā.”; âm Hán dịch theo bản Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (七倶胝佛母所說准提陀羅尼經) của Bất Không (不空) dịch là: “Na mạc tát đa nam tam miệu tam một đà cu chi nam đát nhĩ dã tha, án, giả lễ chủ lễ chuẩn nê ta phạ ha (娜莫颯多南三藐三没駄倶胝南怛儞也他唵者禮主禮准泥娑嚩訶)”; nghĩa là “Con xin quy y theo đức Phật Chánh Đẳng Giác Thất Câu Chi (vạn ức). Tức là, Oṃ (Án). Hỡi đấng chuyển động quanh ! Hỡi đấng trên đảnh đầu ! Hỡi đức Chuẩn Đề ! Svāhā (ta phạ ha) !” Thần chú này được xem như là vua trong các thần chú, vì uy lực gia trì của nó không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng của nó thì rất nhanh và mãnh liệt. Người trì tụng thần chú này có thể cầu được thông minh, trí tuệ, biện luận lanh lợi; chồng vợ thương kính nhau, khiến cho người khác sanh tâm kính mến; cầu được con nối dõi, kéo dài mạng sống, trị lành các bệnh tật, diệt trừ tội chướng; cầu được trời mưa, rời xa giam cầm, thoát khỏi nạn ác quỷ, ác tặc, v.v. Chuẩn Đề Phật Mẫu còn có 8 vị Bồ Tát là quyến thuộc, như Quán Tự Tại Bồ Tát (觀自在菩薩), Di Lặc Bồ Tát (彌勒菩薩), Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), Phổ Hiền Bồ Tát (普賢菩薩), Kim Cang Thủ Bồ Tát (金剛手菩薩), Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (文殊師利菩薩), Trừ Cái Chướng Bồ Tát (除蓋障菩薩) và Địa Tạng Bồ Tát (地藏菩薩).
(監齋使者): vị thần chuyên giám sát việc ăn uống của chúng tăng; còn được gọi là Giám Trai Bồ Tát (監齋菩薩), Giám Trai (監齋). Vị này có khuôn mặt màu xanh, tóc đỏ. Theo tác phẩm Thiền Lâm Tượng Khí Tiên (禪林象器箋), phần Linh Tượng Môn (靈像門), các tự viện dưới thời nhà Thanh (清, 1616-1911) đều gọi Giám Trai Sứ Giả là Giám Trai Bồ Tát. Bộ Tiễn Dăng Dư Thoại (剪燈餘話) quyển 1, phần Thính Kinh Viên Ký (聽經猿記), của Lý Trinh (李禎, 1403-1424) nhà Thanh, cho biết rằng có người tên Viên Tú Tài (袁秀才), thường vui đùa, làm dáng đứa bé nhỏ, nhảy qua xà nhà, có khi duỗi hai chân ngồi trong khám thờ, lấy màu xanh nhuộm lên mặt, khiến cho người trong Nhà Bếp cho rằng đó là Giám Trai, Đại Thánh Hồng Sơn (洪山大聖). Về sau, Nhà Trù của chùa thường tôn thờ vị này. Trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248), phần Kết Hạ Khải Kiến Lăng Nghiêm Hội Sớ (結夏啟建楞嚴會疏), có câu: “Trù ty Giám Trai Sứ Giả, chủ thang hỏa tỉnh Táo thần kỳ (廚司監齋使者、主湯火井灶神祇, Giám Trai Sứ Giả chưởng quản Nhà Trù là Táo Thần chủ quản về lửa, nước sôi, giếng nước).” Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 3 có câu thỉnh rằng: “Đông Trù Ty Mạng, Giám Trai Sứ Giả thần chúng (東廚司命、監齋使者神眾, Đông Trù Ty Mạng, Giám Trai Sứ Giả các thần).” Trong Thiền môn có bài tán về Giám Trai Bồ Tát rằng: “Giám Trai Sứ Giả, hỏa bộ oai thần, điều hòa bách vị tiến duy hinh, tai hao vĩnh vô xâm, Hộ Mạng tư thân, thanh chúng vĩnh mông ân. Nam Mô Diệm Huệ Địa Bồ Tát (監齋使者、火部威神、調和百味薦惟馨、災耗永無侵、護命資身、清眾永蒙恩、南無燄慧地菩薩, Giám Trai Sứ Giả, quản lửa oai thần, điều hòa trăm vị cúng hương thơm, tai nạn mãi không xâm, Hộ Mạng an thân, đại chúng mãi mang ơn. Kính lễ Diệm Huệ Địa Bồ Tát).”
(熊羆): đồng nghĩa với hùng hổ (熊虎), nghĩa là gấu và cọp, tỷ dụ một người dũng mãnh, dũng sĩ thiện chiến. Vì vậy thường có từ “hùng bi chi sĩ (熊羆之士, người có sức mạnh oai dũng như con gấu, cọp).” Như trong Thư Kinh (書經), Khang Vương Chi Cáo (康王之誥) có câu: “Tắc diệc hữu hùng bi chi sĩ, bất nhị tâm chi thần, bảo nghệ vương gia (則亦有熊羆之士、不二心之臣、保乂王家, ắt sẽ có dũng sĩ hùng mạnh, trung thần một lòng tận lực, bảo vệ vương gia).” Trong Thi Kinh (詩經), phần Tiểu Nhã (小雅), Tư Can (斯干) có câu: “Đại nhân chiêm chi, duy hùng duy bi, nam tử chi tường, duy hủy duy xà, nữ tử chi tường (大人占之、維熊維羆、男子之祥、維虺維蛇、女子之祥, người lớn đoán rằng, là gấu là cọp, điềm lành con trai; là hổ mang là rắn, điềm lành con gái).” Cho nên nằm mơ thấy con gấu hay cọp, những con vật tượng trưng cho sức mạnh hùng dũng, đó là điềm lành báo mộng sanh con trai. Như trong Tam Quốc Chí (三國志) quyển 24 có câu: “Bệ Hạ thông đạt, cùng lý tận tánh, nhi khoảnh Hoàng Tử liên đa yểu thệ, hùng bi chi tường vị cảm ứng (陛下聰達、窮理盡性、而頃皇子連多夭折、熊羆之祥又未感應, Bệ Hạ thông đạt, xét cùng lý lẽ, nhưng trong chốc lát mà mấy Hoàng Tử liên tục chết yểu, điềm lành gấu cọp vẫn chưa cảm ứng).” Hay trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng quyển 2, phần Bảo Thai, có câu: “Hùng bi ứng mộng thả cư do dự chi trung, xà hủy trình tường diệc tại cô nghi chi vức, duy kí bảo an chi nhị tự, cảm vong trí kính vu Tam Tôn (熊羆應夢且居猶豫之中、蛇虺呈祥亦在狐疑之域、惟冀保安之二字、敢忘致敬于三尊, gấu cọp ứng mộng sao còn do dự làm chi, rắn mang điềm tốt liệu mang nghi ngờ lưỡng lự, chỉ mong bình an trong hai chữ, dám quên kính ngưỡng đấng Tam Tôn).” Hoặc trong bài Diệm Khẩu Triệu Thỉnh Văn (焰口召請文) tương truyền do Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống trước tác cũng có câu nói về giấc mộng hùng bi: “Hoài thai thập nguyệt, tọa thảo tam triêu, sơ hân loan phụng hòa minh, thứ vọng hùng bi hiệp mộng (懷胎十月、坐草三朝、初欣鸞鳳和鳴、次望熊羆叶夢, mang thai mười tháng, nằm cỏ ba hôm, mới mừng loan phụng cùng vui, kế trông gấu beo báo mộng).”
(五斗星君): là 5 vị thần thánh được Đạo Giáo kính thờ, chuyên quản lý việc sống chết, phước họa, giàu sang của con người, được phân làm Bắc Đẩu Tinh Quân (北斗星君), Nam Đẩu Tinh Quân (南斗星君), Đông Đẩu Tinh Quân (東斗星君), Tây Đẩu Tinh Quân (西斗星君) và Trung Đẩu Tinh Quân (中斗星君). Mỗi vị tinh quân quản hạt mỗi cung khác nhau.
(1) Bắc Đẩu Tinh Quân có 7 cung, được gọi là Thất Tinh (七星), hay Thất Nguyên (七元), chủ yếu chưởng quản về việc giải ách, kéo dài mạng sống. Bảy cung gồm: Thiên Quỹ Tinh (天櫃星), Dương Minh Tham Lang Tinh Quân (陽明貪狼星君); Thiên Tuyền Tinh (天璇星), Âm Tinh Cự Môn Tinh Quân (陰精巨門星君); Thiên Ki Tinh (天璣星), Chơn Nhân Lộc Tồn Tinh Quân (眞人祿存星君); Thiên Quyền Tinh (天權星), Huyền Minh Văn Khúc Tinh Quân (玄明文曲星君); Thiên Hành Tinh (天衡星), Đơn Nguyên Liêm Trinh Tinh Quân (丹元廉貞星君); Khai Dương Tinh (開陽星), Bắc Cực Võ Khúc Tinh Quân (北極武曲星君); Diêu Quang Tinh (搖光星), Thiên Xung Phá Quân Tinh Quân (天沖破軍星君). Trên thực tế, chùm sao Bắc Đẩu có 9 ngôi sao, nên còn thêm Động Minh Tinh (洞明星), Ngoại Phụ Tinh Quân (外輔星君); và Ẩn Nguyên Tinh (隱元星), Nội Bậc Tinh Quân (內弼星君).
(2) Nam Đẩu Tinh Quân thì chưởng quản về kéo dài tuổi thọ, độ người, chia thành 6 cung, gồm: Thiên Phủ Tinh (天府星), Ty Mạng Tinh Quân (司命星君); Thiên Tướng Tinh (天相星), Ty Lộc Tinh Quân (司祿星君); Thiên Lương Tinh (天梁星), Diên Thọ Tinh Quân (延壽星君); Thiên Đồng Tinh (天同星), Ích Toán Tinh Quân (益算星君); Thiên Quỹ Tinh (天櫃星), Độ Ách Tinh Quân (度厄星君); và Thiên Cơ Tinh (天機星), Thượng Sanh Tinh Quân (上生星君).
(3) Đông Đẩu Tinh Quân có 5 cung, chưởng quản việc tính toán mạng sống, gồm: Thương Linh Diên Sanh Tinh Quân (蒼靈延生星君), Lăng Diên Hộ Mạng Tinh Quân (陵延護命星君), Khai Thiên Tập Phước Tinh Quân (開天集福星君), Đại Minh Hòa Dương Tinh Quân (大明和陽星君), và Vĩ Cực Tổng Giám Tinh Quân (尾極總監星君).
(4) Tây Đẩu Tinh Quân có 4 cung chưởng quản về mạng sống, hộ thân, gồm: Bạch Tiêu Tinh Quân (白標星君), Cao Nguyên Tinh Quân (高元星君), Hoàng Linh Tinh Quân (皇靈星君), Cự Uy Tinh Quân (巨威星君).
(5) Trung Đẩu Tinh Quân, còn gọi là Đại Khôi (大魁), chủ yếu quản lý việc bảo vệ mạng sống, gồm 3 cung: Hách Linh Độ Thế Tinh Quân (赫靈度世星君), Cán Hóa Thượng Thánh Tinh Quân (幹化上聖星君), Xung Hòa Chí Đức Tinh Quân (沖和至德星君).
Trong 5 chùm sao nói trên, hai chùm sao Bắc Đẩu và Nam Đẩu được người đời kính phụng nhiều nhất. Người sanh năm Giáp và Ất thì thuộc về Đông Đẩu; năm Bính, Đinh thuộc về Nam Đẩu; năm Mậu, Kỷ thuộc về Trung Đẩu; năm Canh, Tân thuộc về Tây Đẩu; năm Nhâm, Quý thuộc về Bắc Đẩu. Như trong Thái Thượng Lão Quân Thuyết Ngũ Đẩu Kim Chương Thọ Sanh Kinh (太上老君說五斗金章受生經) của Đạo Giáo có giải thích rõ rằng: “Giáp Ất sanh nhân Đông Đẩu chú sanh, Bính Đinh sanh nhân Nam Đẩu chú sanh, Mậu Kỷ sanh nhân Trung Đẩu chú sanh, Canh Tân sanh nhân Tây Đẩu chú sanh, Nhâm Quý sanh nhân Bắc Đẩu chú sanh; chú sanh chi thời các bẩm Ngũ Hành chân khí, chân khí hỗn hợp, kết tú thành thai; thọ thai thập nguyệt, châu hồi thập phương, thập phương sanh khí, …, thọ sanh chi thời, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, chú sanh chú lộc, chú phú chú bần, chú trường chú đoản, chú cát chú hung, giai do chúng sanh, tự tác tự thọ (甲乙生人東斗注生、丙丁生人南斗注生、戊己生人中斗注生、庚辛生人西斗注生、壬癸生人北斗注生、注生之時、各稟五行眞氣、眞氣混合、結秀成胎、受胎十月、周回十方、十方生氣…受生之時、五斗星君、九天聖眾、注生注祿、注富注貧、注長注短、注吉注凶、皆由眾生、自作自受, người sanh năm Giáp Ất thì Đông Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Bính Đinh thì Nam Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Mậu Kỷ thì Trung Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Canh Tân thì Tây Đẩu ban cho mạng sống, người sanh năm Nhâm Quý thì Bắc Đẩu ban cho mạng sống; khi ban cho mạng sống, mỗi người đều nhờ chân khí Ngũ Hành, chân khí hỗn hợp, kết tụ thành thai; thọ thai mười tháng, vòng quanh mười phương, mười phương sinh khí, …, khi thọ thai ấy, Ngũ Đẩu Tinh Quân, Cửu Thiên thánh chúng, ban cho sự sống, phước lộc; ban cho giàu có, nghèo cùng; ban cho ngắn dài; ban cho tốt xấu, đều do chúng sanh, tự làm tự chịu).”
(源仁, Gennin, 818-887/890): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời đại Bình An, húy là Nguyên Nhân (源仁), thông xưng là Trì Thượng Tăng Đô (持上僧都), Nam Trì Viện Tăng Đô (南持院僧都), Thành Nguyện Tự Tăng Đô (成願寺僧都). Ông theo Hộ Mạng (護命, Gomyō) học về Pháp Tướng, sau đó học Mật Giáo với Thật Huệ (實惠, Jitsue), Chơn Nhã (眞雅, Shinga) và Tông Duệ (宗叡, Shūei) và thọ pháp Quán Đảnh. Đến năm 875, ông được mời làm Tự Trưởng của Đông Tự (東寺, Tō-ji) và Quyền Thiếu Tăng Đô. Ông kiến lập nên Nam Trì Viện (南持院, Nanji-in), lấy tên là Thành Nguyện Tự (成願寺, Jōgan-ji) và thuyết giảng về tông yếu của mình. Các đệ tử phú pháp của ông có Ích Tín (益信, Yakushin), Thánh Bảo (聖寳, Shōbō). Trước tác của ông có Quán Đảnh Thông Dụng Tư Ký (灌頂通用私記) 3 quyển.
(勝虞, Shōgu, 732-811): tức Thắng Ngộ (勝悟, Shōgo), vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới hai thời đại Nại Lương và Bình An, húy Thắng Ngộ (勝悟) hay Thắng Ngu (勝虞), xuất thân vùng A Ba (阿波, Awa, thuộc Tokushima-ken [德島縣]), họ Phàm Trực (凡直). Ông theo học Pháp Tướng và Duy Thức với Hành Cơ (行基, Gyōki), rồi theo hầu Tôn Ứng (尊應, Sonō) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và rất tinh thông về Nhân Minh Học. Năm 793, trong lễ hội cúng dường tại Văn Thù Đường (文殊堂) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ông làm đạo sư rãi hoa. Đến năm 797, ông làm Luật Sư, trú tại Nguyên Hưng Tự. Vào năm 805, trong khi Hoàn Võ Thiên Hoàng (桓武天皇, Kammu Tennō) bị bệnh nặng, ông thuyết pháp cho nhà vua nghe, tương truyền nhà vua giác ngộ và từ đó trở đi phát nguyên không đi săn bắn nữa. Năm sau, ông được thăng chức Đại Tăng Đô. Môn đệ của ông có Hộ Mạng (護命, Gomyō), Từ Bảo (慈寳, Jihō), Thái Diễn (泰演, Taien), v.v.
(修齋): tập trung tu sĩ Phật Giáo hay đạo sĩ của Đạo Giáo để cúng dường cơm chay. Như trong bài thơ Đăng Linh Sơn Thủy Các Di Điếu Giả (登靈山水閣貽釣者) của thi nhân Đỗ Tuần Hạc (杜荀鶴, 846-904) nhà Đường có câu: “Giang thượng kiến tăng thùy thị liễu, tu trai bổ nạp nhật lao thân (江上見僧誰是了、修齋補衲日勞身, trên sông gặp tăng là ai nhỉ, cúng chay lão nạp bớt nhọc thân).” Hay trong kịch bản Đào Hoa Phiến (桃花扇), phần Nhập Đạo (入道), của Khổng Thượng Nhiệm (孔尚任, 1648-1718) nhà Thanh có đoạn: “Quảng diên đạo chúng, đại kiến kinh đàn, yếu dữ tiên đế tu trai truy tiến (廣延道眾、大建經壇、要與先帝修齋追薦, rước khắp các đạo sĩ, kiến lập đàn tràng lớn, chủ yếu dâng cúng cỗ chay để cầu siêu độ cho tiên đế).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 1 cũng có đoạn: “Giác Hoàng mẫn Diệm Khẩu chi đồ, sơ linh phụng hộc; Lương Đế cảm thần tăng chi mộng, toại khải tu trai (覺皇憫燄口之徒、初令奉斛、梁帝感神僧之夢、遂啟修齋, Giác Hoàng thương Diệm Khẩu [miệng bốc lửa] muôn loài, mới bày hộc thực; Lương Đế cảm thần tăng ứng mộng, bèn cúng cỗ chay).” Hoặc như trong Phật Thuyết Dự Tu Thập Vương Sanh Thất Kinh (佛說預修十王生七經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 21) lại có đoạn: “Nhất thân Lục Đạo khổ mang mang, Thập Ác Tam Đồ bất dị đương, nỗ lực tu trai công đức cụ, hằng sa chư tội tự tiêu vong (一身六道苦茫茫、十惡三塗不易當、努力修齋功德具、恆沙諸罪自銷亡, một thân sáu nẻo khổ mênh mang, mười ác ba đường khó thoát nàn, tận lực cúng chay công đức đủ, hằng sa tội chướng tự tiêu vong).”
(圓澄, Enchō, 771-836): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 2, húy Pháp Kính (法鏡), Viên Trừng (圓澄), thụy hiệu là Tịch Quang Đại Sư (寂光大師), xuất thân vùng Võ Tàng (武藏, Musashi), họ là Nhâm Sanh (壬生). Khoảng năm 27 tuổi, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), làm đệ tử của Tối Trừng (最澄, Saichō). Đến năm 34 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, năm 36 tuổi thì nhập đàn thọ Quán Đảnh, năm sau thì thọ lãnh Viên Đốn Giới. Sau khi thầy qua đời, ông dựng Tây Tháp và khai sáng Tây Tháp Viện. Đến năm 834, ông làm Thiên Thai Tọa Chủ. Ông đã từng cung thỉnh Hộ Mạng (護命, Gomyō) ở Nam Đô, Không Hải (空海, Kūkai) của Chơn Ngôn Tông lên Tỷ Duệ Sơn để tham dự lễ cúng dường ở Tây Tháp Viện và tận lực làm cho Sơn Môn phát triển. Tác phẩm của ông để lại có Diên Lịch Tự Cấm Chế Thức (延曆寺禁制式) 1 quyển, Đường Quyết (唐決) 2 bức, Tịch Quang Viên Trừng Hòa Thượng Tàn Hinh Tập (寂光圓澄和尚殘馨集), Thông Đạt Phật Hải Nguyện Văn (通達佛海願文) 1 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập