Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hiển Chơn »»
(安藤昌益, Andō Shōeki, 1703-1762): y sĩ và là tư tưởng gia, sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tự là Lương Trung (良中), hiệu Sác Long Đường (確龍堂); xuất thân vùng Xuất Vũ (出羽, Dewa). Về kinh lịch cuộc đời ông, có nhiều điểm không rõ lắm. Theo thuyết gần đây cho biết rằng ông sanh ra ở Nhị Tỉnh Điền Thôn (仁井田村, Niita-mura), Thu Điền Quận (秋田郡, Akita-gun), thuộc lãnh vức của Phiên Thu Điền (秋田藩, Akita-han), Xuất Vũ; đã từng làm y sĩ cho Phiên Bát Hộ (八戸藩, Hachinohe-han) ở Lục Áo (陸奥, Mutsu), nhưng đến cuối đời thì quay trở về cố hương Nhị Tỉnh Điền Thôn và sau khi chết, người nông dân tôn thờ ông như là Thủ Nông Đại Thần (守農大神). Từ các trước tác của ông cho thấy rằng chúng môn nhân chủ yếu là tầng lớp có văn hóa ở vùng Bát Hộ; và cũng có người sống ở kinh đô Kyoto, Đại Phản, Giang Hộ. Từ lập trường của chủ nghĩa bình đẳng triệt để, ông phê phán khái niệm mang tính giai cấp, phân biệt, và đưa ra triết học riêng biệt vốn xuất phát từ toàn thể vận động tự nhiên. Ông đề xướng ra phương án cải cách xã hội, bài xích giáo thuyết của Nho, Phật và chủ trương nam nữ đều bình đẳng như nhau. Trước tác của ông có Tự Nhiên Chơn Doanh Đạo (自然眞營道), Thống Đạo Chơn Truyền (統道眞傳), v.v.
(八德): tức Bát Công Đức Thủy (八功德水), là nước có đầy đủ 8 loại công đức thù thắng; còn gọi là Bát Vị Thủy (八味水), Bát Chi Đức Thủy (八支德水), Bát Định Thủy (八定水). Cõi Tịnh Độ của chư Phật có hồ đầy đủ 8 công đức, trong đó có đầy ắp nước 8 công đức. Tám loại đó là: lắng sạch, trong lạnh, ngọt ngon, nhẹ mềm, tươi mát, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn. Đồng thời, nơi 7 dòng biển bao quanh núi Tu Di, cũng có đầy đủ nước 8 công đức, gồm: ngọt, lạnh, mềm, nhẹ, trong sạch, không hôi, uống vào không gây tổn thương cổ họng, uống vào không gây tổn thương bụng. Trong Xưng Tán Tịnh Độ Kinh (稱讚淨土經) giải thích rằng: “Hà đẳng danh vi Bát Công Đức Thủy ? Nhất giả trừng tịnh, nhị giả thanh lãnh, tam giả cam mỹ, tứ giả khinh nhuyễn, ngũ giả nhuận trạch, lục giả an hòa, thất giả ẩm thời trừ cơ khát đẳng vô lượng quá hoạn, bát giả ẩm dĩ định năng trưởng dưỡng chư căn Tứ Đại, tăng ích chủng chủng thù thắng thiện căn, đa phước chúng sanh, trường lạc thọ dụng (何等名爲八功德水、一者澄淨、二者清冷、三者甘美、四者輕軟、五者潤澤、六者安和、七者飲時除饑渴等無量過患、八者飲已定能長養諸根四大、增益種種殊勝善根、多福眾生、長樂受用, thế nào là Nước Có Tám Công Đức ? Một là lắng sạch, hai là trong lạnh, ba là ngọt ngon, bốn là nhẹ mềm, năm là tươi mát, sáu là an hòa, bảy là khi uống trừ được vô lượng sai lầm, âu lo như đói khát, v.v., tám là uống rồi được định, có thể nuôi lớn các căn, Tứ Đại, làm cho tăng ích các loại căn lành thù thắng, chúng sanh có nhiều phước sẽ vui mừng thọ dụng lâu dài).” Hay trong Hồi Hướng Văn (迴向文, Taishō No. 2848) lại có câu: “Bát Công Đức Thủy khử cấu trừ tai, Thất Tịnh Diệu Hoa trang nghiêm pháp thể (八功德水去垢除災、七淨妙花莊嚴法體, Nước Tám Công Đức khử nhớp trừ tai, Bảy Hoa Sạch Mầu trang nghiêm pháp thể).” Hơn nữa, trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh (佛說阿彌陀經) cũng có câu: “Hựu Xá Lợi Phất, Cực Lạc quốc độ, hữu Thất Bảo Trì, Bát Công Đức Thủy, sung mãn kỳ trung (又舍利弗、極樂國土、有七寶池、八功德水、充滿其中, lại nữa Xá Lợi Phất, cõi nước Cực Lạc có Ao Bảy Báu, có Nước Tám Công Đức, tràn đầy bên trong).” Ngoài ra, trong bài xướng Sái Tịnh có câu: “Phù thử thủy giả, Bát Công Đức Thủy tự thiên chơn, tiên tẩy chúng sanh nghiệp cấu trần, biến nhập Tỳ Lô Hoa Tạng giới (夫此水者、八功德水自天眞、先洗眾生業垢塵、徧入毘盧華藏界, phàm loại nước này, là Nước Tám Công Đức, xuất xứ từ nguồn chơn của trời đất, trước hết rửa sạch bụi dơ nghiệp của chúng sanh, chuyển nhập vào thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật).”
(眞常): chân thật thường trụ, dụng ngữ của Phật Giáo lẫn Đạo Giáo. Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō Vol. 19, No. 945) quyển 2 có đoạn: “Tánh chơn thường trung, cầu ư khứ lai, mê ngộ sanh tử, liễu vô sở đắc (性眞常中、求於去來、迷悟生死、了無所得, trong tánh chơn thường, tìm nơi đến đi, mê ngộ sống chết, biết không thể được).” Hay trong bài Xao Hào Ca (敲爻歌) của Lữ Nham (呂岩, 789-?) nhà Đường cũng có đoạn: “Đạt Thánh đạo, Hiển Chơn thường, hổ hủy đo binh cánh bất thương (達聖道、顯眞常、虎兕刀兵更不傷, đạt đến Thánh đạo, hiển bày chơn thường, cọp tê giác, đao binh cũng không làm tổn thương).” Hoặc trong bức Thượng Chấp Chính Thư (上執政書) của Phạm Trọng Yêm (范仲淹, 989-1052) nhà Tống lại có đoạn: “Phù Thích Đạo chi thư, dĩ chơn thường vi tánh, dĩ thanh tịnh vi tông (夫釋道之書、以眞常爲性、以清淨爲宗, phàm sách của Phật Giáo và Đạo Giáo, lấy chơn thường làm tánh, lấy sự thanh tịnh làm tông).” Bài tán Tâm Nhiên rất phổ biến trong Thiền môn cũng đề cập đến chơn thường như: “Tâm nhiên Ngũ Phận, phổ biến thập phương, Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, tỷ quán thiệt nan lường, thụy ái tường quang, kham hiến pháp trung vương (心燃五分、普遍十方、香嚴童子悟眞常、鼻觀實難量、瑞靄祥光、堪獻法中王, tâm nhen Năm Món, biến khắp mười phương, Hương Nghiêm đồng tử ngộ chơn thường, mũi quán thật khó lường, khí tốt hào quang, dâng cúng đấng pháp vương).”
(久我環溪, Kuga Kankei, 1817-1884): tức Cửu Ngã Mật Vân (久我密雲, Kuga Mitsuun), vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Giang Hộ và Minh Trị, trú trì đời thứ 61 của Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji), Quản Trưởng của Tào Động Tông, húy Mật Vân (密雲), đạo hiệu Hoàn Khê (環溪), hiệu Tuyết Chủ (雪主), nhụ Tuyệt Học Thiên Chơn Thiền Sư (絕學天眞禪師), xuất thân vùng Tây Cảnh Thành (西頸城), Việt Hậu (越後, Echigo, thuộc Niigata-ken [新潟縣]). Năm lên 12 tuổi, ông xuất gia, theo hầu Kiên Quang (堅光) ở Thanh Lương Tự (清涼寺) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), và kế thừa dòng pháp của Huệ Cảo (慧杲) ở Hưng Thánh Tự (興聖寺) vùng Vũ Trị (宇治, Uji) thuộc Sơn Thành (山城, Yamashiro). Từ Hưng Thánh Tự ông chuyển qua sống ở Hào Đức Tự (豪德寺). Đến năm 1871, ông được cử làm trú trì Vĩnh Bình Tự, và năm sau làm Quản Trưởng của Tào Động Tông. Ông là người đã tận lực trong việc chống đối phong trào Phế Phật Hủy Thích và ủng hộ Phật pháp. Trước tác của ông có Hoàn Khê Mật Thiền Sư Ngữ Lục (環溪密禪師語錄).
(曼荼羅寺, Mandara-ji): còn gọi là Tùy Tâm Viện (隨心院), Ngưu Bì Sơn Mạn Trà La Tự (牛皮山曼荼羅寺), Tùy Tâm Viện Môn Tích (隨心院門跡), Tiểu Dã Môn Tích (小野門跡); ngôi chùa trung tâm của Phái Thiện Thông Tự (通善寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông; hiện tọa lạc tại Onogorei-chō (小野御靈町), Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), nơi hành hương thứ 72 trong số 88 ngôi danh lam ở vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Chùa do Không Hải Đại Sư sáng lập, xuất phát từ nhân duyên Đại Sư nằm mộng thấy mẹ mình sành làm thân con trâu, bèn đến thăm và đem con trâu ấy về nuôi. Khi trâu chết, Đại Sư lấy da trâu vẽ đồ hình Mạn Trà La dâng cúng. Đây là nơi xuất phát của Dòng Tiểu Dã (小野流). Sau này Tăng Tuấn (僧俊) lại phân phái thành Dòng Tùy Tâm Viện (隨心院流). Trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa bị hoang phế, rồi Tăng Hiếu (僧孝) tiến hành phục hưng chùa, và nhóm Thiên Chơn Viện (天眞院) tạo dựng các ngôi đường tháp. Bảo vật của chùa có đồ hình Mạn Trà La thêu bằng chỉ ngũ sắc, tượng gỗ A Di Đà Như Lai ngồi, v.v.
(梵相): có hai nghĩa chính:
(1) Chỉ cho tướng trang nghiêm, thanh tịnh của chư Phật, Bồ Tát, v.v. Như trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 85 có thâu lục bài thơ Võ Túc Vương Hữu Chỉ Thạch Kiều Thiết Trai Hội Tấn Nhất Thi (武肅王有旨石橋設齋會進一詩) của một vị tăng ở Ngô Việt, có câu: “La Hán phàn chi trình Phạm tướng, nham tăng ỷ thọ hiện chơn hình (羅漢攀枝呈梵相、巖僧倚樹現眞形, La Hán vin cành bày tướng hảo, tựa cây tăng núi hiện chơn hình).” Hay trong Năng Cải Trai Mạn Lục (能改齋漫錄), chương Sự Thỉ (事始) 2 của Ngô Tằng (吳曾, khoảng thế kỷ 12) nhà Tống có đoạn: “Thiên hạ tự lập Quan Âm tượng, cái bổn ư Đường Văn Tông hảo thị cáp lị; nhất nhật, ngự soạn trung hữu phách bất khai giả, đế dĩ vi dị, nhân phần hương chúc chi, nãi khai, tức kiến Bồ Tát hình, Phạm tướng cụ túc (天下寺立觀音像、蓋本於唐文宗好嗜蛤蜊、一日、禦饌中有擘不開者、帝以爲異、因焚香祝之、乃開、卽見菩薩形、梵相具足, các chùa trong thiên hạ đều dựng tượng Quan Âm, vốn xuất phát từ việc vua Văn Tông [tại vị 826-840] nhà Đường thích ăn con sò; một hôm nọ, trong cỗ ăn của nhà vua có con sò bị nạy mà vẫn không mở ra; nhà vua lấy làm lạ, nhân đó thắp hương cầu khấn, con sò liền mở miệng ra, tức thấy hình Bồ Tát, tướng hảo đầy đủ).”
(2) Chỉ chung cho tượng Phật. Như trong bài thơ Tam Nguyệt Thập Nhật Quán Nam An Triệu Sứ Quân Sở Tang Thư Họa Cổ Khí Vật (三月十日觀南安趙使君所藏書畫古器物) của Liễu Quán (柳貫, 1270-1342) nhà Nguyên có câu: “Đình quang cổ Phật xuất Phạm tướng, mãn nguyệt tại thủy liên sanh phu (庭光古佛出梵相、滿月在水蓮生趺, hào quang cổ Phật bày tướng hảo, trăng tròn mặt nước sen ngồi Thiền).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ có câu: “Tống Thích Nghĩa Thông, tánh Duẫn, Cao Lệ quốc tộc, Phạm tướng dị thường, mi trường ngũ thốn dư, ấu xuất gia Quy Sơn Viện (宋釋義通、姓尹、高麗國族、梵相異常、眉長五寸餘、幼出家龜山院, Thích Nghĩa Thông nhà Tống, họ là Duẫn, dòng họ nước Cao Lệ [Triều Tiên], tướng hảo khác thường, lông mày dài hơn 5 tấc, lúc nhỏ xuất gia ở Quy Sơn Viện).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19 có đoạn: “Ngôn Pháp Hoa giả, mạc tri kỳ sở tùng lai, Phạm tướng kỳ cổ, ngữ ngôn vô kỵ, xuất một bất trắc, đa hành thị lí, khiên thường nhi xu, hoặc cử chỉ họa không, trữ lập lương cửu, dữ đồ cổ giả du, ẩm đạm vô sở trạch, đạo tục cọng mục vi cuồng tăng (言法華者、莫知其所從來、梵相奇古、語言無忌、出沒不測、多行市里、褰裳而趨、或舉指畫空、佇立良久、與屠沽者游、飲啖無所擇、道俗共目爲狂僧, Ngôn Pháp Hoa, chẳng biết ông từ đâu đến, tướng hảo cổ quái, nói năng chẳng kiêng kỵ, ẩn hiện khôn lường, phần nhiều xuất hiện nơi chợ búa, làng xóm, vén quần mà đi, hoặc có khi đưa ngón tay lên vẽ trên không trung, rồi đứng yên một hồi lâu, cùng với hạng bán rượu thịt giao du, ăn uống đủ thứ, cả đạo lẫn đời đều xem ông là tu sĩ điên).”
(關山慧玄, Kanzan Egen, 1277-1360): vị tăng của Tông Lâm Tế Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và Nam Bắc Triều, vị tổ khai sáng Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), húy Huệ Nhãn (慧眼), Huệ Huyền (慧玄), đạo hiệu Quan Sơn (關山), nhụ hiệu Bổn Hữu Viên Thành (本有圓成), Phật Tâm Giác Tánh (佛心覺性), Đại Định Thánh Ứng (大定聖應), Quang Đức Thắng Diệu (光德勝妙), Tự Tánh Thiên Chơn (自性天眞), Phóng Vô Lượng Quang (放無量光), Vô Tướng Đại Sư (無相大師), xuất thân vùng Tín Nùng (信濃, Shinano, thuộc Nagano-ken [長野縣]). Ông là người con thứ 2, sanh ra trong gia đình Thủ Cao Gia (守高家) của Mỹ Nùng, lúc còn nhỏ được gọi là Tào Tử Triêu Minh Lữ (曹子朝明麿), theo học với chú là Nguyệt Cốc Tông Trung (月谷宗忠). Ban đầu ông theo xuất gia với Đông Truyền Sĩ Khải (東傳士啓) ở Quảng Nghiêm Am (廣嚴庵), Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Đến năm 1307 (năm thứ 2 niên hiệu Đức Trị [德治]), ông gặp Đại Ứng Quốc Sư Nam Phố Thiệu Minh (大應國師南浦紹明) ở Kiến Trường Tự, được ban cho tên là Huệ Nhãn (慧眼) và theo hầu vị này tu tập. Nhưng vì không có chỗ sở ngộ nên sau đó vào năm 1327 (năm thứ 2 niên hiệu Gia Lịch [嘉曆]) ông lại đến kế thừa dòng pháp của Đại Đăng Quốc Sư Tông Phong Diệu Siêu (大燈國師宗峰妙超) ở Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro). Năm 1328, ông đến ẩn cư ở vùng Y Thâm (伊深), Mỹ Nùng (美濃, Mino), đến năm 1330 (năm thứ 2 niên hiệu Nguyên Đức [元德]), ông được ấn chứng cho là đã ngộ được công án chữ Quan (關) của Vân Môn (雲門), nên được ban cho hiệu là Quan Sơn (關山), hiệu là Huệ Huyền (慧玄). Vào năm 1342, Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇, Hanazono Jōkō) biến Hoa Viên Ly Cung thành Diệu Tâm Tự và cung thỉnh ông đến làm tổ khai sơn chùa nầy. Sau đó, ông lại đến dựng am sống ở vùng Viễn Giang (遠江), nhưng đến năm 1351 ông trở về lại Diệu Tâm Tự và cử xướng Thiền phong uy nghiêm của ông. Dòng pháp từ của ông có Thọ Ông Tông Bật (授翁宗弼). Chính dòng pháp hệ nối tiếp Thiệu Minh (紹明), Diệu Siêu (妙超), Huệ Huyền (慧玄) đã chiếm vai trò lãnh đạo Thiền Lâm Tế về sau. Vào năm 1360 (năm thứ 5 niên hiệu Diên Văn [延文]), ông thị tịch, hưởng thọ 84 tuổi. Trước tác của ông có Quan Sơn Hòa Thượng Bách Tắc Công Án (關山和尚百則公案) 1 quyển.
(狀): là bản văn giải bày sự thật trình lên chư vị Thần, Thánh; theo tục lệ của Đạo Giáo Trung hoa, chỉ dùng để đốt đi, không dùng tuyên đọc. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các bức Trạng vẫn được dùng để tuyên đọc rồi mới đem đốt. Bản văn dùng để trần tình những oan khuất của người mất lên Thiên Đình hay Địa Phủ được gọi là Cáo Âm Trạng (告陰狀). Như trong Hà Điển (何典), hồi thứ 2 có câu: “Thôi Mạng Quỷ cản đáo đương phương Thổ Địa na lí, cáo liễu Âm Trạng (催命鬼趕到當方土地那里、告了陰狀, Thôi Mạng Quỷ đuổi theo đến Thổ Địa phương này vài dặm, đọc xong bản Âm Trạng).” Trong Đạo Giáo, tùy theo đẳng cấp của chư vị thần linh cao thấp mà phân thành 3 loại Trạng: Tấu Trạng (奏狀), Thân Trạng (申狀) và Điệp Trạng (牒狀). (1) Tấu Trạng được dùng cho chư Thần như Tam Thanh (三清), Ngọc Hoàng (玉皇), Câu Trần Tinh Quân (勾陳星官), Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), Đông Cực Thái Ất (東極太乙), Nam Cực Trường Sanh Đại Đế (南極長生大帝), Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ (后土皇地祇), Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn (九幽拔罪天尊), Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn (朱陵度命天尊), Thập Phương Linh Bảo Thiên Tôn (十方靈寶天尊), Động Uyên Tam Muội Tam Động Thiên Tôn (洞淵三昧三洞天尊), Cửu Thiên Thái Phỏng Quân (九天採訪君), Linh Bảo Tự Nhiên Cửu Thiên Sanh Thần Thượng Đế (靈寶自然九天生神上帝), Tam Thập Nhị Thiên Đế Quân (三十二天帝君), Ngũ Linh Ngũ Lão Ngũ Đế Thiên Quân (五靈五老五帝天君), Mộc Công Tôn Thần (木公尊神), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), v.v. (2) Thân Trạng được dùng cho chư vị đẳng cấp thấp hơn như Linh Bảo Tam Sư (靈寶三師), Tam Quan (三官), Nhật Cung Thái Dương Đế Quân (日宮太陽帝君), Nguyệt Cung Thái Âm Đế Quân (月宮太陰帝君), Ngũ Tinh Tứ Diệu Ngũ Đẩu (五星四曜五斗), Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân (南斗六司星君), Bắc Đẩu Cửu Thiên Tinh Hoàng Quân (北斗九天星皇君), Hoàng Lục Viện Tri Viện Chơn Quân (黃籙院知院眞君), Chánh Nhất Tam Sư (正一三師), Tứ Tướng (四相), Tứ Thánh (四聖), Linh Bảo Giám Trai Đại Pháp Sư Chơn Quân (靈寶監齋大法師眞君), Cửu Thiên (九天), Thiên Tào Thái Hoàng Vạn Phuớc Chơn Quân (天曹太皇萬福眞君), Tam Động Kinh Lục Phù Mạng Thượng Thánh Cao Chơn Tiên Linh Tướng Lại (三洞經籙符命上聖高眞仙靈將吏), Tam Thanh Thượng Cảnh Chơn Quân Hoàng Nhân (三清上境眞君皇人), Tam Nguyên Chơn Quân (三元眞君), Thập Chơn Nhân (十眞人), Ngũ Phủ Chơn Tể (五府眞宰), Nam Xương Thượng Cung Thọ Luyện Ty Phủ Chơn Tể (南昌上宮受煉司府眞宰), Ngọc Phủ Ngọc Xu Ngũ Lôi Viện Sứ Chơn Quân (玉府玉樞五雷院使眞君), Thập Phương Vô Cực Phi Thiên Chơn Vương (十方無極飛天眞王), Bắc Âm Huyền Thiên Phong Đô Đại Đế (北陰玄天酆都大帝), Thập Cung Đông Hà Phù Tang Đơn Lâm Đại Đế (十宮東霞扶桑丹林大帝), Tam Nguyên Thủy Phủ Chơn Tể (三元水府眞宰), Bồng Lai Đô Thủy Giám Chơn Nhân (蓬萊都水監眞人), Ngũ Nhạc Thượng Chơn Ty Mạng Tá Mạng Trữ Phó Chơn Quân (五嶽上眞司命佐命儲副眞君), Thanh Hư Động Thiên Tiên Quan (清虛洞天仙官), Địa Phủ Cửu Lũy Thổ Hoàng Quân (地府九壘土皇君), Long Hổ Quân Công Tào Kim Đồng Ngọc Nữ Hương Quan Sứ Giả (龍虎君功曹金童玉女香官使者), Thái Tuế Tôn Thần (太歲尊神), v.v. (3) Điệp Trạng được dùng cho chư vị Thần cấp dưới hơn nữa như Châu Thành Hoàng (州城隍), Huyện Thành Hoàng (縣城隍), Cửu Châu Xã Lịnh (九州社令), các ngục chúa, Thập Phương Đạo Đô Đại Chủ Giả (十方道都大主者), Minh Quan U Lộ Chủ Giả (冥關幽路主者), Ngũ Nhạc Hao Lí Tướng Công (五嶽蒿里相公), Thổ Địa Lí Thành Chơn Quan (土地里域眞官), Phong Đô Lục Đạo Đô Án (酆都六道都案), Tam Giới Chơn Phù Thần Hổ Sứ Giả (三界眞符神虎使者), v.v. Một số Trạng được dùng trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam là Trạng Cúng Đảo Bệnh, Trạng Cúng Phù Sứ, Trạng Lục Cung Cúng Khẩm Tháng, Trạng Cúng Quan Sát, Trạng Tống Mộc, Trạng Cúng Tạ Thổ, v.v.
(慈眼寺, Jigen-ji): ngôi tự viện của Tào Động Tông, hiệu núi là Phổ Môn Sơn (普門山); hiện tọa lạc tại số 7-1 Oguratani (小倉谷), Minamiechizen-chō (南越前町), Nanjō-gun (南條郡), Fukui-ken (福井縣). Vào năm 1387 (Gia Khánh [嘉慶] nguyên niên), Thiền Sư Thiên Chơn Tự Tánh (天眞自性) khai sáng ra chùa. Tượng thờ chính của chùa là Thập Nhất Diện Quan Âm Bồ Tát. Vào thời kỳ hưng thịnh, chùa có đủ các kiến trúc già lam; trong khuôn viên chùa có 17 chùa con và quản lãnh trên toàn quốc cả hơn chùa con khác. Tuy nhiên, với dòng thời gian trôi qua của vô thường, trãi qua bao lần bị hỏa tai cũng như bị thâu hồi lãnh vức, chùa đã thay đổi diện mạo khá nhiều cho đến ngày nay.
(圓覺寺, Engaku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Viên Giác Tự (圓覺寺派) thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, hiệu núi là Thoại Lộc Sơn (瑞鹿山), hiện tọa lạc tại số 409 Yamanouchi (山ノ內), Kamakura-shi (鎌倉市), Kanagawa-ken (神奈川縣), được xếp hàng thứ hai trong năm ngôi chùa nổi tiếng ở vùng Liêm Thương. Tượng thờ chính của chùa Bảo Quan Thích Ca Như Lai (寶冠釋迦如來). Tên chính thức của chùa là Thoại Lộc Sơn Viên Giác Hưng Thánh Thiền Tự (瑞鹿山圓覺興聖禪寺). Vào năm thứ 5 (1282) niên hiệu Hoằng An (弘安), để truy điệu cầu nguyện cho những người đã tử trận trong cuộc chiến chống quân nhà Nguyên, Tướng Quân trấn thủ vùng Tương Mô (相模, Sagami) là Bắc Điều Thời Tông (北條時宗, Hōjō Tokimune) sáng lập nên chùa này, rồi cung thỉnh Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元) làm vị Tổ khai sơn. Tương truyền rằng vào ngày lạc thành chùa thì có bầy nai trắng tập trung đến nghe pháp, nên từ đó ngọn núi này được đặt tên là Thoại Lộc Sơn (瑞鹿山, ngọn núi có điềm lành bầy nai trắng). Vào năm thứ 7 (1400) niên hiệu Ứng Vĩnh (應永), chùa gặp phải trận hỏa tai lớn, rồi sau đó cũng thỉnh thoảng gặp những lần hỏa hoạn như vậy; nhưng đến năm thứ 2 (1625) niên hiệu Khoan Vĩnh thì chùa được tái kiến lại như cũ cho đến ngày nay. Trước thời Duy Tân, chùa có 32 ngọn tháp, 2 tòa viện lớn; nhưng hiện tại chỉ còn có 12 ngọn tháp và 1 tòa viện mà thôi. Quần thể kiến trúc của chùa gồm Tổng Môn (總門), Tam Môn (三門), Phật Điện (佛殿), Tuyển Phật Trường (選佛塲), Phương Trượng (方丈), Xá Lợi Điện (舍利殿), Diệu Hương Trì (妙香池), Lầu Chuông. Bên cạnh đó, còn có khá nhiều ngôi viện tháp khác như Tế Ấm Am (濟蔭庵), Chánh Tục Viện (正續院), Tùng Lãnh Viện (松嶺院), Phật Nhật Am (佛日庵), Hoàng Mai Viện (黃梅院), Quy Nguyên Viện (歸源院), Quế Xương Am (桂昌庵), Long Ẩn Am (龍隱庵), Thọ Đức Am (壽德庵), Chánh Truyền Am (正傳庵), Tục Đăng Am (續燈庵), Như Ý Am (如意庵), Ngọa Long Am (臥龍庵), Bạch Vân Am (白雲庵), Vân Đảnh Am (雲頂庵), v.v. Chùa hiện lưu giữ một số bảo vật thuộc dạng quốc bảo như Xá Lợi Điện (an trí Xá Lợi của đức Phật, tương truyền thỉnh từ nhà Nam Tống sang), Phạn Chung (梵鐘, Hồng Chung, do Tướng Quân Bắc Điều Trinh Thời hiến cúng, được đúc vào năm 1301); và nhiều bảo vật thuộc loại tài sản văn hóa quan trọng.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập