Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hậu Thổ »»
(波吒): bức bách, chồng chất, nói lên tình trạng khổ não cao độ. Như trong bài thơ của Thập Đắc (拾得) được thâu lục trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 807, có câu: “Phanh trư hựu tể dương, khoa đạo điềm như mật, tử hậu thọ ba tra, cánh mạc xưng oan khuất, Phật ai Tam Giới tử, tổng thị thân nam nữ, khủng trầm hắc ám khanh, thị nghi thùy hóa độ, tận đăng vô thượng đạo (烹豬又宰羊、誇道甜如蜜、死後受波吒、更莫稱冤屈、佛哀三界子、總是親男女、恐沉黑暗坑、示儀垂化度、盡登無上道, nấu heo lại giết dê, khoe đạo ngọt như mật, chết rồi chịu khổ báo, thôi chớ kêu oan khiên, Phật thương con Ba Cõi, đều là nam nữ thân, sợ rớt hầm đen tối, tùy nghi thương hóa độ, thảy chứng đạo vô thượng).” Hay như trong quyển Hạ của Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Thập Di Kệ Tụng (古林清茂禪師拾遺偈頌, CBETA No. 1413) có bài Tống Huệ Thiền Nhân Hành Hóa (送惠禪人行化): “Đại sự viên thành tại đốt ta, mạc sầu đồ lộ khổ ba tra, tam thiên lí ngoại phùng tri kỷ, bút hạ năng khai ngũ diệp hoa (大事圓成在咄嗟、莫愁途路苦波吒、三千里外逢知己、筆下能開五葉花, chuyện lớn tròn thành cũng tại ta, chớ buồn đường sá khổ chi mà, ba ngàn dặm ngoại gặp tri kỷ, dưới bút nở ra năm cánh hoa).”
(朱雀):
(1) Tên của một loại thần điểu, như trong Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) quyển 7 có câu: “Tứ phương thủ tượng, Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; duy Châu Tước mạc tri hà vật, đản vị điểu nhi châu giả, vũ tộc xích tường thượng, tập tất phụ mộc, thử hỏa chi tượng dã; hoặc vị chi trường cầm (四方取象、蒼龍、白虎、朱雀、龜蛇、唯朱雀莫知何物、但謂鳥而朱者、羽族赤而翔上、集必附木、此火之象也、或謂之長离, bốn phương có các hình tượng là Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; chỉ có Châu Tước không biết thuộc vật nào; có người bảo rằng chim màu đỏ là loại có lông đỏ mà bay liệng trên cao; khi tập trung thì nương vào cây; loại này tượng trưng cho lửa; hoặc bảo nó là loài chim dài).”
(2) Tên gọi chung của bảy ngôi sao ở phương Nam, gồm: Tỉnh (井), Quỷ (鬼), Liễu (柳), Tinh (星), Trương (張), Dực (翼) và Chẩn (軫). Cho nên, trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Nam Phương Châu Thôi Tinh Quân (南方朱崔星君) là Tỉnh Tú Thiên Tỉnh Tinh Quân, Quỷ Tú Thiên Quỹ Tinh Quân, Liễu Tú Thiên Trù Tinh Quân, Tinh Tú Thiên Khố Tinh Quân, Trương Tú Thiên Bình Tinh Quân, Dực Tú Thiên Đô Tinh Quân, Chẩn Tú Thiên Nhai Tinh Quân (井宿天井星君、鬼宿天匱星君、柳宿天廚星君、星宿天庫星君、張宿天秤星君、翼宿天都星君、軫宿天街星君).
(3) Một trong Tứ Linh (四靈), là vị thần thủ hộ phương Nam trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, còn gọi là Châu Điểu (朱鳥), cũng gọi là Phụng Hoàng (鳳凰) hay Huyền Điểu (玄鳥). Châu là màu đỏ, tượng trưng cho lửa, phương Nam thuộc lửa, nên có tên Phụng Hoàng. Châu Tước cũng thuộc một dạng của Bất Tử Điểu (不死鳥) ở phương Tây, vì vậy có tên là Khiếu Hỏa Phụng Hoàng (叫火鳳凰). Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) của Đạo Giáo có đề cập đến hiệu của Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君).” Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Nam phương Châu Thôi, tùng cầm chi trưởng, đan huyệt hóa sanh, bích lôi lưu hưởng, kỳ thái ngũ sắc, thần nghi Lục Tượng, lai đạo ngã tiền (南方朱崔、從禽之長、丹穴化生、碧雷流響、奇彩五色、神儀六象、來導吾前, Châu Thôi phương Nam, từ loài chim lớn lên, hóa sanh trong hang đỏ, sấm xanh vang tiếng, năm sắc kỳ diệu, dung nghi vượt Sáu Loài, dẫn đến trước ta).” Đạo Giáo dùng tên Châu Tước làm thuật ngữ luyện đan, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Châu Thôi giả, Nam phương Bính Đinh Hỏa Chu Sa dã; bào dịch thành long, kết khi thành điểu; kỳ khí đằng nhi vi thiên, kỳ chất trận nhi vi địa; sở dĩ vi đại đan chi bổn dã; kiến hỏa tức phi, cố đắc Châu Thôi chi xưng dã; Thanh Long đích phương vị thị Đông, đại biểu Xuân quý; Bạch Hổ đích phương vị thị Tây, đại biểu Thu quý; Châu Tước đích phương vị thị Nam, đại biểu Hạ quý; Huyền Võ đích phương vị thị Bắc, đại biểu Đông quý (朱崔者、南方丙丁火朱砂也、刨液成龍、結氣成鳥、其氣騰而爲天、其質陣而爲地、所以爲大丹之本也、見火卽飛、故得朱崔之稱也、青龍的方位是東、代表春季、白虎的方位是西、代表秋季、朱雀的方位是南、代表夏季、玄武的方位是北、代表冬季, Châu Thôi là Chu Sa, Bính Đinh, thuộc Hỏa; biến chất dịch thành rồng, kết khí thành chim; khí của nó bốc lên làm trời, chất của nó dàn trận thành đất, nên được gọi là nguồn gốc của màu đỏ huyết; thấy lửa thì bay, nên có tên gọi Châu Thôi; phương vị của Thanh Long là Đông, đại diện cho mùa Xuân; phương vị của Bạch Hổ là Tây, đại diện cho mùa Thu; phương vị của Châu Tước là Nam, đại diện cho mùa Hạ; phương vị của Huyền Võ là Bắc, đại diện cho mùa Đông).”
(4) Tên gọi của một trong Lục Thú (六獸) hay Lục Thần (六神), gồm: Thanh Long (青龍), Châu Tước (朱雀), Câu Trần (勾陳), Đằng Xà (騰蛇), Bạch Hổ (白虎) và Huyền Võ (玄武).
(5) Tên của một trong 12 vị Thiên Tướng, gồm: Thanh Long (青龍), Bạch Hổ (白虎), Huyền Võ (玄武), Châu Tước (朱雀), Quý Nhân (貴人), Đằng Xà (螣蛇), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Thiên Không (天空), Thái Thường (太常), Thái Âm (太陰) và Thiên Hậu (天后). (6) Tên gọi của một trong 8 vị thần, gồm: Trực Phù (直符), Đằng Xà (螣蛇), Thái Âm (太陰), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Châu Tước (朱雀), Cửu Địa (九地) và Cửu Thiên (九天).
(眞盛, Shinzei, Shinsei, 1443-1495): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Thất Đinh, tổ khai sáng Thiên Thai Chơn Thạnh Tông (天台眞盛宗), húy là Châu Năng (周能), Chơn Thạnh (眞盛), tên lúc nhỏ là Bảo Châu Hoàn (寳珠丸), thụy hiệu là Viên Giới Quốc Sư (圓戒國師), Từ Nhiếp Đại Sư (慈攝大師), xuất thân vùng Đại Ngưỡng (大仰), Y Thế (伊勢, Ise, thuộc Mie-ken [三重縣]), con của Tả Cận Úy Đằng Năng (左近尉藤能) ở Tiểu Tuyền (小泉). Năm 7 tuổi, ông đã vào tu ở Quang Minh Tự (光明寺) vùng Y Thế; đến năm 14 tuổi thì xuất gia với Thạnh Nguyên (盛源) ở chùa này và được đặt tên là Chơn Thạnh. Vào năm 1461, ông đến nhập môn tu học với Khánh Tú (慶秀) ở Tây Tháp của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), rồi cấm túc trong núi suốt 20 năm để nghiên cứu về Chỉ Quán. Đến năm 1483, ông ẩn tu ở Thanh Long Tự (青龍寺) vùng Hắc Cốc (黑谷, Kurodani). Ông là người xác lập tông phong Giới Xưng Nhất Trí (戒稱一致) vốn xem trọng giới pháp và pháp môn Xưng Danh Niệm Phật trên cơ sở bộ Vãng Sanh Yếu Tập (徃生要集) của Nguyên Tín (源信, Genshin). Vào năm 1486, ông tái hưng Tây Giáo Tự (西敎寺)—cựu tích của Nguyên Tín—ở vùng Phản Bổn (坂本, Sakamoto), Cận Giang (近江, Ōmi). Sau đó, ông khai sáng đa số đạo tràng Niệm Phật Bất Đoạn ở các địa phương Cận Giang, Sơn Thành (山城, Yamashiro), Y Hạ (伊賀, Iga), Y Thế (伊勢, Ise), Việt Tiền (越前, Echizen), v.v. Năm 1492, ông truyền giới cho Hậu Thổ Ngự Môn Thiên Hoàng (後土御門天皇), giảng thuyết về áo nghĩa niệm Phật và tận lực giáo hóa cho những nhà làm chính trị. Trước tác của ông để lại có Tấu Tấn Pháp Ngữ (奏進法語) 1 quyển, Niệm Phật Tam Muội Ngự Pháp Ngữ (念佛三昧御法語) 1 quyển, v.v.
(孤峰覺明, Kohō Kakumyō, 1271-1361): vị tăng của Phái Pháp Đăng thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, hiệu là Cô Phong (孤峰), xuất thân Hội Tân (會津, Aizu, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), họ Bình (平), sinh năm thứ 8 niên hiệu Văn Vĩnh (文永). Năm lên 7 tuổi, ông đã để tang mẹ, đến năm 17 tuổi ông theo xuất gia với giảng sư Lương Phạm (良範), thọ giới trên Duệ Sơn (叡山), học giáo lý Thiên Thai được 8 năm, sau đó theo hầu Pháp Đăng Quốc Sư Vô Bổn Giác Tâm (法燈國師無本覺心) ở Hưng Quốc Tự (興國寺) được 3 năm. Tiếp theo, ông đến tham học với Liễu Nhiên Pháp Minh (了然法明) ở Xuất Vũ (出羽, Dewa) và thỉnh giáo nơi Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), v.v. Đến năm đầu (1311) niên hiệu Ứng Trường (應長), ông sang nhà Nguyên, đến tham yết Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山). Ngoài ra ông còn tham học với các danh tăng khác như Nguyên Ông Tín (元應信), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (斷崖了義), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Sau khi trở về nước, ông lại đến tham vấn Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Vĩnh Quang Tự (永光寺) vùng Năng Đăng (能登, Noto), thọ bồ tát giới và khai sáng Vân Thọ Tự (雲樹寺) tại vùng Xuất Vân (出雲, Izumo). Vào đầu niên hiệu Nguyên Hoằng (元弘), Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇) mời ông đến truyền giới và ban cho hiệu là Quốc Tế Quốc Sư (國濟國師). Đến năm thứ 2 (1346) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), ông tiến hành tái kiến Hưng Quốc Tự, rồi đến sống ở Diệu Quang Tự (妙光寺), được Hậu Thôn Thượng Thiên Hoàng (後村上天皇) ban tặng cho hiệu là Tam Quang Quốc Sư (三光國師) và thể theo sắc chỉ của nhà vua ông làm tổ khai sơn Cao Thạch Đại Hùng Tự (高石大雄寺) ở vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi). Chính trong khoảng thời gian này, ông đã dâng sớ thỉnh cầu triều đình ban cho thầy ông là Oánh Sơn Thiệu Cẩn tước hiệu Thiền Sư. Vào ngày 24 tháng 5 năm thứ 16 (1361) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm đầu niên hiệu Khang An [康安]), ông thị tịch, hưởng thọ 91 tuổi đời và 75 hạ lạp.
(九壘): Đạo Giáo chia thế giới dưới lòng đất (thế giới u minh, hay Địa Ngục) làm 9 tầng, gọi là Cửu Lũy; trong đó mỗi Lũy có 4 tầng, cọng thành 36 tầng, mỗi Lũy đều có 1 vị Thổ Hoàng (土皇) cai quản. Theo Động Huyền Linh Bảo Hà Đồ Ngưỡng Tạ Tam Thập Lục Thổ Hoàng Trai Nghi (洞玄靈寶河圖仰謝三十六土皇齋儀), tên gọi Cửu Lũy gồm:
(1) Sắc Nhuận Địa (色潤地) có vị Thổ Hoàng thứ nhất họ Tần (秦), húy là Hiếu Cảnh Thung (孝景椿); vị thứ 2 họ Hoàng (黃), Húy Xương Thượng Văn (昌上文); vị thứ 3 họ Thanh (青), húy Huyền Văn Cơ (玄文基); vị thứ 4 họ Phỉ (蜚), húy là Trung Trận Hoàng (忠陣皇).
(2) Cang Sắc Địa (剛色地) có vị Thổ Hoàng thứ 5 họ Thú (戍), húy là Thần Văn Quang (神文光); vị thứ 6 họ Úc (郁), húy là Hoàng Mẫu Sanh (黃母生); vị thứ 7 họ Huyền (玄), húy là Càn Đức Duy (乾德維); vị thứ 8 họ Trường (長), húy là Hoàng Minh (皇明).
(3) Thạch Lạp Sắc Trạch Địa (石臘色澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 9 họ Trương (張), húy là Duy Thần (維神); vị thứ 10 họ Châu (周), húy là Bá Thượng Nhân (伯上人); vị thứ 11 họ Chu (朱), húy là Minh Xa Tử (明車子); vị thứ 12 họ Canh (庚), húy là Văn Kính Sĩ (文敬士).
(4) Nhuận Trạch Địa (潤澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 13 họ Cổ (賈), húy là Vân Tử Cao (雲子高); vị thứ 14 họ Tạ (謝), húy là Bá Vô Nguyên (伯無元); vị thứ 15 họ Kỷ (己), húy là Văn Thái Trận (文泰陣); vị thứ 16 họ Hành (行), húy là Cơ Chánh Phương (機正方).
(5) Kim Túc Trạch Địa (金粟澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 17 họ Hoa (華), húy là Diên Kỳ Minh (延期明); vị thứ 18 họ Hoàng (黃), húy là Linh Ngã Dung (齡我容); vị thứ 19 họ Vân (雲), húy là Thám Vô Uyên (探無淵); vị thứ 20 họ Tương (蔣), húy là Thông Bát Quang (通八光).
(6) Kim Cang Thiết Trạch Địa (金剛鐵澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 21 họ Lý (李), húy là Thượng Thiếu Quân (上少君); vị thứ 22 họ Phạm (范), húy là Lai Lực An (來力安); vị thứ 23 họ Trương (張), húy là Quý Quý Nguyên (李季元); vị thứ 24 họ Vương (王), húy là Tứ Nữ Dung (駟女容).
(7) Thủy Chế Trạch Địa (水制澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 25 họ Đường (唐), húy là Sơ Sanh Ánh (初生映); vị thứ 26 họ Ngô (吳), húy là Chánh Pháp Đồ (正法圖); vị thứ 27 họ Hán (漢), húy là Cao Văn Triệt (高文徹); vị thứ 28 họ Kinh (京), húy là Trọng Long Thủ (仲龍首).
(8) Đại Phong Trạch Địa (大風澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 29 họ Cát (葛), húy là Huyền Thăng Quang (玄升光); vị thứ 30 họ Hoa (華), húy là Mậu Vân Trường (茂雲長); vị thứ 31 họ Dương (羊), húy là Chơn Động Huyền (眞洞玄); vị thứ 32 họ Châu (周), húy là Thượng Kính Nguyên (尚敬原).
(9) Động Uyên Vô Sắc Cang Duy Địa (洞淵無色剛維地) có vị Thổ Hoàng thứ 33 họ Cực (極), húy là Vô Thượng Huyền (無上玄); vị thứ 34 họ Thăng (升), húy là Linh Nguyên Hạo (靈元浩); vị thứ 35 họ Triệu (趙), húy là Thượng Bá Huyền (上伯玄); vị thứ 36 họ Nông (農), húy là Lặc Vô Bá (勒無伯).
Trong tác phẩm Vô Thượng Hoàng Lục Đại Trai Lập Thành Nghi (無上黃籙大齋立成儀) do Tương Thúc Dư (蔣叔輿) nhà Nam Tống biên soạn có thêm vào hai chữ Hậu Thổ (后土) trước mỗi danh hiệu của các vị Thổ Hoàng để cho biết rằng đạo giáo dưới thời kỳ này xem Thổ Hoàng là những vị thần linh thuộc hạ của Hậu Thổ. Tại điện thờ Tứ Ngự đều có an trí thần tượng hay thần vị của 36 vị Thổ Hoàng này. Trong các trai đàn cúng tế lớn đều có dâng cúng 36 vị Thiên Đế cũng như 36 vị Thổ Hoàng.
(葭飛玉管): Gia phi (葭飛) nghĩa là tro cây lau bay tan đi. Có thuật ngữ thường dùng là “xuy gia (吹葭)”. Đây là một phương pháp suy định khí hậu thời cổ đại. Người ta lấy tro của cái mạng mỏng trong thân cây lau, đem trấn bên trong khí cụ Luật Quản (律管, 律琯), khi hơi thổi đến thì tro tan đi. Như trong bài thơ Tiểu Chí (小至) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Thích tú ngũ văn thiêm nhược tuyến, xuy gia lục quản động phi hôi (刺繡五紋添弱線、吹葭六琯動飛灰, thêu gấm năm vân thêm chỉ mỏng, thổi lau khí cụ động tro bay).” Ngọc quản (玉管) ở đây là một loại khí cụ Luật Quản, dùng để thẩm định âm tiết thời xưa, được chế bằng ngọc; còn gọi là Lục Quản (六琯, 六管). Người ta thường dùng ống trúc hoặc loại chế bằng kim thuộc để tạo thành. Như trong tác phẩm Lục Thao (六韜), chương Ngũ Âm (五音) có giải thích rằng: “Phù Luật Quản thập nhị, kỳ yếu hữu ngũ âm, Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ (夫律管十二、其要有五音、宮、商、角、徵、羽, phàm Luật Quản có mười hai loại, chủ yếu có năm âm là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ).” Bên cạnh đó, đây cũng là một loại khí cụ dùng để trắc lượng sự thay đổi của thời tiết thời cổ đại. Như trong chương Tượng Số (像數) của Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) có dẫn một đoạn trong Tục Hán Thư (續漢書) của Tư Mã Bưu (司馬彪, 243-306) nhà Tấn rằng: “Hầu khí chi pháp, ư mật thất trung, dĩ mộc vi án, trí thập nhị Luật Quản, các như kỳ phương, thật dĩ gia hôi, phú dĩ đề hộc, khí chí tắc nhất luật phi hôi (候氣之法、於密室中、以木爲案、置十二律琯、各如其方、實以葭灰、覆以緹縠、氣至則一律飛灰, cách trắc lượng khí hậu, tại trong phòng kín, lấy gỗ làm bàn, đặt 12 ống Luật Quản lên, mỗi thứ đúng phương hướng của nó, lấy tro mạng mỏng cây lau, bít bằng loại vải sa đỏ, khi hơi thổi đến thì một ống Luật thổi bay tro).” Trong bài thơ Bảo Đại Ngũ Niên Nguyên Nhật Đại Tuyết Đăng Lâu Phú (保大五年元日大雪登樓賦) của Lý Cảnh (李璟, 916-961) nhà Đường có câu: “Xuân khí tạc tiêu phiêu Luật Quản, Đông phong kim nhật phóng Mai hoa (春氣昨宵飄律管,東風今日放梅花, khí xuân đêm trước thổi Luật Quản, hôm nay Đông gió thả hoa Mai).”
(後柏原天皇, Gokashiwabara Tennō, tại vị 1500-1526): vị Thiên Hoàng sống dưới thời đại Chiến Quốc, Hoàng Tử thứ nhất của Hậu Thổ Ngự Môn Thiên Hoàng (後土御門天皇, Gotsuchimikado Tennō, tại vị 1464-1500), tên là Thắng Nhân (勝仁, Katsuhito).
(皇天): là tiếng kính xưng ông trời, trời xanh; còn gọi là Hoàng Thiên Thượng Đế (皇天上帝), Hạo Thiên Thượng Đế (昊天上帝), một trong các vị thần của Đạo Giáo. Tên gọi của vị này xuất hiện sớm nhất trong Thượng Thư (尚書), Thi Kinh (詩經), là vị thần chủ tể của trời đất vũ trụ. Theo tác phẩm Trung Quốc Tôn Giáo Tư Tưởng Sử Đại Cương (中國宗敎思想史大綱, do Nhà Xuất Bản Dân Quốc Học Thuật Kinh Điển Văn Khố [民國學術經典文庫] ấn hành) của Vương Trị Tâm (王治心), trong truyện thần thoại thời thượng cổ của Trung Quốc có đề cập rằng Hạo Thiên (tức Hoàng Thiên) Thượng Đế là đấng tối tôn kính, kế đến là Thương Đế (蒼帝, hay Viêm Đế [炎帝]) ở phương Đông, chủ về mộc, tên là Linh Uy Ngưỡng (靈威仰); Xích Đế (赤帝) ở phương Nam, chủ về hỏa, tên là Xích Nộ (赤怒, hay Xích Hỏa Tiêu Nộ [赤火票怒]); Hoàng Đế (皇帝) ở trung ương, chủ về Thổ, tên là Xu Nữu (樞紐); Bạch Đế (白帝) ở phương Tây, chủ về kim, tên là Bạch Chiêu Cứ (白招據); Hắc Đế (黑帝) ở phương Bắc, chủ về thủy, tên là Diệp Quang Kỷ (葉光紀). Từ quan điểm này, ta thấy rằng Thượng Đế chỉ có một mà thôi, tức Hoàng Thiên Thượng Đế. Ngoài ra các vị đế khác thì không ít. Chữ “Đế (帝)” được dùng đơn độc trong Thi Kinh (詩經), Thư Kinh (書經), Dịch Kinh (易經), các đỉnh chuông, văn giáp cốt đều chỉ Thượng Đế. Quách Mạt Nhược (郭沫若, 1892-1978) cho rằng: “Thượng hạ bổn lai thị tương đối đích tự, hữu Thượng Đế nhất định dĩ hữu Hạ Đế (上下本來是相對的字、有上帝一定巳有下帝, xưa nay Thượng và Hạ là hai từ mang tính tương đối, có Thượng Đế nhất định phải có Hạ Đế).” Thi Kinh, phần Đại Nhã (大雅) cũng như Chu Tụng (周誦) có câu rằng: “Thiên sanh chưng dân, hữu vật hữu tắc (天生蒸民、有物有則, Trời sanh ra lũ dân, có vật thì có quy tắc).” Rõ ràng điều này muốn nhấn mạnh rằng Hạo Thiên Thượng Đế sinh dưỡng nhân dân, sáng tạo vạn vật, định ra pháp luật; cho nên Ngài là đấng sáng tạo. Trong phần Tiểu Nhã (小雅) và Đại Nhã (大雅) của tác phẩm trên cũng có câu: “Minh minh thiên thượng, chiếu lâm hạ địa (明明天上、照臨下地, sáng tỏ trên trời, chiếu xuống dưới đất)”, hay “Hoàng tai Thượng Đế, lâm hạ hữu hách (皇哉上帝、臨下有赫, Lớn thay Thượng Đế, giáng xuống lẫm liệt)”, hoặc “đãng đãng Thượng Đế, hạ dân chi tịch (蕩蕩上帝、下民之闢, vời vợi Thượng Đế, thâu khắp vạn dân)”; chứng tỏ muốn nói rằng Thượng Đế là đấng chủ tể của vạn dân vốn rất từ ái, vĩ đại, uy phong, vĩnh hằng, vô hạn. Trong chương Hy (僖) 15 của Tả Truyện (左傳) có đoạn rằng: “Quân lý Hậu Thổ nhi tải Hoàng Thiên (君履后土而載皇天, người tuy đạp lên Thần Đất mà đội ông Trời).” Hoàng Thiên Hậu Thổ là thần Trời và thần Đất, là thuật ngữ thường đi chung với nhau. Như trong tác phẩm Cán Sa Ký (浣紗記), phần Phạt Việt (伐越) của Lương Thần Ngư (梁辰魚, 1520-1580) nhà Minh có câu: “Hoàng Thiên Hậu Thổ, giám sanh bình trung hiếu chi tâm, danh sơn đại xuyên, lượng túc tích anh hào chi khí (皇天后土、鑒生平忠孝之心、名山大川、諒宿昔英豪之氣, Hoàng Thiên Hậu Thổ, chứng giám tâm trung hiếu trong đời, núi cao sông lớn, giữ mãi khí anh hào xưa kia).”
(許由): tên của vị ẩn sĩ trong truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, tự là Võ Trọng (武仲), bậc cao sĩ dưới thời nhà Nghiêu (堯). Theo Cao Sĩ Truyện (高士傳), phần Hứa Do của Hoàng Phủ Mật (皇甫謐, 215-282) nhà Tấn cho biết rằng, vua Nghiêu nghe tiếng ông, bèn lấy thiên hạ nhường ngôi cho. Nghe vậy, ông lui về ẩn cư nơi Dĩnh Thủy (潁水), dưới chân núi Ky Sơn (箕山). Vì mến mộ đức lớn của ông, nhà vua bèn mời đến phong cho làm chức Trưởng Quan Cửu Châu (九州). Hứa Do không muốn nghe đến chuyện danh lợi như vậy, bèn xuống bến sống Dĩnh Thủy mà rửa tai cho sạch. Lúc bấy giờ có nhà ẩn sĩ tên Sào Phủ (巢父), dẫn trâu xuống định cho trâu uống nước sông ấy; chợt thấy Hứa Do rửa tai, bèn hỏi nguyên do vì sao. Hứa Do đáp rằng: “Nghiêu dục chiêu ngã vi Cửu Châu trưởng, ố văn kỳ thanh, thị cố tẩy nhĩ (堯欲召我為九州長、惡聞其聲、是故洗耳, vua Nghiêu muốn mời tôi làm Trưởng Quan Cửu Châu, nghe như vậy thấy nhớp tai quá; nên rửa cho sạch).” Sào Phủ nghe vậy bèn bảo rằng: “Tử nhược xử cao ngạn thâm cốc, nhân đạo bất thông, thùy năng kiến tử; tử cố phù du, dục văn cầu kỳ danh dự, ô ngô độc khẩu (子若處高岸深谷、人道不通、誰能見子、子故浮游、欲聞求其名譽、污吾犢口, nếu ông sống nơi thâm sơn cùng cốc, chẳng bóng người qua lại, ai có thể thấy được ông chứ; do vì ông sống trôi nỗi, muốn nghe cầu danh dự ấy, nên làm dơ bẩn miệng trâu ta).” Bèn dẫn trâu lên trên đầu nguồn để cho trâu uống nước, vì sợ nước rửa tai dưới dòng chảy xuống sẽ làm nhớp miệng trâu. Trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, CBETA No. 1295) quyển 40 có câu kệ tụng của Hư Đường Trí Ngu (虛堂智愚, 1185-1269) rằng: “Kiến thuyết Hứa Do tằng tẩy nhĩ, khả lân Sào Phủ cánh tiên ngưu (見說許由曾洗耳、可憐巢父更鞭牛, nghe bảo Hứa Do từng tai rửa, thương thay Sào Phủ lại đuổi trâu).” Hoặc như trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō No. 2103) quyển 4 lại có câu đề cập đến chuyện rửa tai của Hứa Do: “Hứa Do tẩy nhĩ ư Ky Sơn, Trang Chu duệ vĩ ư Bộc Thủy (許由洗耳於箕山、莊周曳尾於濮水, Hứa Do rửa tai nơi núi Ky, Trang Chu kéo đuôi nơi sông Bộc).” Trong tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm vô quán nước gặp một chủ quán có vẻ có tài, Vân Tiên bèn khuyên ông nên ra làm quan. Ông trả lời: “Quán rằng Nghiêu Thuấn thưở xưa, khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do.”
(臘月、蠟月): tên gọi khác của tháng 12 Âm Lịch. Cách gọi như vậy có liên quan rất lớn với mùa màng tự nhiên, chủ yếu là với việc cúng tế trong năm. Từ lạp (臘) ở đây vốn là tên của một lễ tế cuối năm. Bộ Phong Tục Thông Nghĩa (風俗通義) của Ứng Thiệu (應劭, khoảng 153-196) nhà Hán giải thích rằng: “Hạ viết Gia Bình, Ân viết Thanh Tự, Chu dụng Đại Lạp, Hán cải vi Lạp. Lạp giả, lạp dã, ngôn điền lạp thủ cầm thú, dĩ tế tự kỳ tiên tổ dã (夏曰嘉平、殷曰清祀、周用大蠟、漢改爲臘、臘者、獵也、言田獵取禽獸、以祭祀其先祖也, nhà Hạ gọi là Gia Bình, nhà Ân gọi là Thanh Tự, nhà Chu dùng chữ Đại Lạp, nhà Hán đổi thành Lạp. Lạp nghĩa là săn bắn, tức săn bắn cầm thú, để cúng tế tổ tiên vậy).” Hay cho rằng: “Lạp giả, tiếp dã; tân cố giao tiếp, cố đại tế dĩ báo công dã (臘者、接也、新故交接、故大祭以報功也, Lạp nghĩa là hội họp; vì năm mới nên giao tiếp, cho nên cúng tế lớn để báo công vậy).” Nhân tháng 12 này thường có lễ cúng tế lớn nên được gọi là “Tháng Cúng Tế”. Người Tần gọi lễ Tế Thần vào cuối năm là Lạp. Tháng 12 là tháng cuối cùng của một năm, đúng vào tiết Đông giá buốt. Ngạn ngữ dân gian có câu: “Lạp thất, Lạp Bát, đống trạo hạ ba (臘七、臘八、凍掉下巴, mồng bảy tháng Chạp, mồng 8 tháng Chạp, lạnh buốt xương tủy)”; để diển tả cái lạnh tột cùng âm 20 độ C, mọi công việc đồng án đều phải đình trệ; cho nên tháng Chạp còn được gọi là Đông Nhàn (冬閑, mùa Đông nhàn hạ). Dưới thời nhà Chu, bất luận nhà quan quyền hay bá tánh thường dân, mỗi nhà đều phải cử hành lễ gọi là “tuế chung chi tế (歲終之祭, cúng cuối năm)”, rất long trọng, rầm rộ nhất trong năm; lễ cúng đó gọi là Lạp. Trong tác phẩm Độc Đoán (獨斷), quyển Hạ của Thái Ung (蔡邕, 132-192) nhà Đông Hán có ghi rằng: “Lạp giả, tuế chung đại tế (臘者、歲終大祭, Lạp nghĩa là cúng tế lớn cuối năm).” Hay như tác phẩm Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Đài Khanh (杜臺卿, ?-?) nhà Tùy cũng ghi là: “Lạp, nhất tuế chi đại tế (臘、一歲之大祭, Lạp là lễ tế lớn trong một năm).” Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) do Tông Lẫm (宗懍, khoảng 501-565) nhà Lương thời Nam Triều cũng cho rằng: “Khổng Tử sở dĩ dự bồi tân, nhất tuế chi xuất, thạnh ư thử tiết (孔子所以預以陪賓、一歲之出、盛於此節, sở dĩ Khổng Tử chuẩn bị mọi thứ để tiếp khách, nội trong một năm, thịnh hành vào tiết này).” Về thời gian tiến hành cúng tế Lạp, từ thời nhà Chu trở đi, trãi qua các thời đại đều quy định tháng 12, nhưng ngày nào thì trước thời nhà Tần vẫn chưa có ký lục cụ thể. Sau thời nhà Hán, chư vị hoàng đế của các triều đại, nương vào lý luận Ngũ Hành tương sanh, có định ra một ngày Tuất nào đó trong tháng 12, nhưng cũng chẳng thống nhất. Đến thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589), vua Lương Võ Đế (梁武帝, tại vị 502-549) định Tiết Lạp Nhật (臘日節) là ngày mồng 8 tháng Chạp. Vì ông là người sùng tín Phật Giáo, ngày mồng 8 tháng Chạp cũng đúng vào dịp Phật thành đạo, nên ông kết hợp đồng thời cúng tế tổ tiên, thần linh và đức Phật. Trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Hạ có câu: “Lạp Nguyệt tận thị tuế trừ dạ, minh triêu hựu thị chánh nguyệt nhất, niên khứ niên lai vô tận kỳ (臘月盡是歲除夜、明朝又是正月一、年去年來無盡期, tháng Chạp hết là đêm cuối năm, sáng mai lại là mồng một Tết, xuân đến xuân đi vô cùng tận).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 33 có bài Tụng Cổ của Thiền Sư Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文, 1025-1102): “Lạp Nguyệt nhị thập ngũ, kỵ lư bất đả cổ, xuân phong bách thảo sanh, trũng thượng thiêm tân thổ (臘月二十五、騎驢不打鼓、春風百草生、塚上添新土, ngày hai lăm tháng Chạp, cỡi lừa không đánh trống, gió xuân trăm cỏ sinh, trên gò thêm đất mới).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập