Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hạ Dã »»
(安慧, Ane, 794-868): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 4, xuất thân vùng Hà Nội (河內, Kawachi), con của dòng họ Đại Bạch (大狛). Ông theo xuất gia Quảng Trí (廣智, Kōchi) ở Tiểu Dã Tự (小野寺) vùng Hạ Dã (下野). Năm 13 tuổi, ông theo Tối Trừng (最澄, Saichō) học Mật Giáo và Thiên Thai Chỉ Quán; sau khi vị này qua đời thì theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin). Vào năm 827, ông trúng tuyển kỳ thi Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) và được thọ giới. Đến năm 835, ông làm giảng sư cho tiểu quốc Xuất Vũ (出羽, Dewa) và sau đó được bổ nhiệm là một trong 10 Thiền sư của Định Tâm Viện (定心院). Năm 864, ông kế thừa chức Thiên Thai Tọa Chủ. Trước tác của ông có Hiển Pháp Hoa Nghĩa Sao (顯法華義鈔) 10 quyển, Tức Thân Thành Phật Nghĩa (卽身成佛義) 1 quyển.
(眞佛, Shinbutsu, 1209-1258): vị Tăng của Chơn Tông sống vào khoảng giữa thời đại Liêm Thương, đệ tử thứ 2 trong số 24 nhân vật xuất chúng của Thân Loan, Tổ đời thứ 2 của Chuyên Tu Tự (專修寺, Senjū-ji) thuộc Phái Cao Điền (高田派), Tổ thứ 2 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji) thuộc Phái Phật Quang Tự (佛光寺派), Tổ thứ 2 của Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji) thuộc Phái Hưng Chánh (興正派); húy Chơn Phật (眞佛), tục danh là Chuy Vĩ Di Tam Lang Xuân Thời (椎尾彌三郎春時[?]); xuất thân vùng Chuy Vĩ (椎尾, Shiio), Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con của Đại Nội Quốc Xuân (大內國春, Ōuchi Kuniharu), quan Quốc Ty (國司) của tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Ông theo làm đệ tử của Thân Loan trong khi Thân Loan đang giáo hóa ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), và ngôi Như Lai Đường ở vùng Hạ Dã Cao Điền (下野高田) tương truyền Chơn Phật kế thừa, chính là cứ điểm hoạt động truyền giáo của ông. Sau đó, ông cải đổi Như Lai Đường này thành Chuyên Tu Tự, và tạo nơi đây thành ngôi chùa trung tâm của giáo đoàn Chơn Tông thuộc Phái Cao Điền. Môn hạ của ông có Hiển Trí (顯智), Nguyên Hải (源海), v.v., toàn là những nhân vật kiệt xuất đương thời.
(眞惠, Shinne, 1434-1512): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, thuộc Phái Cao Diền (高田派), sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Chơn Tuệ (眞惠), xuất thân vùng Tochigi-ken (栃木縣), con (?) của Định Hiển (定顯), vị Tổ đời thứ 9 của Chuyên Tu Tự (專修寺). Ông đã từng học qua hai Tông Hiển Mật tại Nghênh Vân Tự (迎雲寺) thuộc Tịnh Độ Tông ở vùng Thường Lục (常陸, Hitachi), đến khoảng năm 1458 thì ông trở về vùng Cao Điền (高田), Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Năm sau, ông đi bố giáo khắp vùng Gia Hạ (加賀, Kaga), Việt Tiền (越前, Echizen), Cận Giang (近江, Ōmi), rồi khi đến vùng Y Thế (伊勢, Ise) thì ông đã quy y cho rất nhiều hàng xuất gia cũng như tại gia. Năm 1464, ông kế thế Chuyên Tu Tự ở vùng Hạ Dã, đến năm sau, sau khi vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani) trên Tỷ Duệ Sơn bị phá tan, ông tuyệt giao với Liên Như (蓮如, Rennyo) ở Bổn Nguyện Tự, rồi kiến lập ở vùng Y Thế ngôi Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院, tức Chuyên Tu Tự ngày nay) để làm cứ điểm cho hoạt động giáo hóa của mình. Năm 1472, ông viết quyển Hiển Chánh Lưu Nghi Sao (顯正流儀抄), xác lập giáo nghĩa của giáo đoàn Pháp Cao Điền, rồi chế ra Vĩnh Chánh Quy Chế (永正規制), và tận lực làm cho giáo đoàn hưng thạnh. Trước tác của ông có Hiển Chánh Lưu Nghi Sao 2 quyển, Vĩnh Chánh Quy Chế Tắc (永正規制則) 1 quyển.
(朱舜水, 1600-1682): tức Chu Chi Du (朱之瑜), hay Chi Dư (之璵), tự là Lỗ Tự (魯嶼), hiệu Thuấn Thủy (舜水); xuất thân Dư Diêu (餘姚), Triết Giang (浙江). Sau khi nhà Minh diệt vong, ông sang Nhật cầu xin viện trợ để khôi phục nhà Minh, nhưng không thành; cuối cùng ông lưu sống tại Nhật, lấy thuật trị thiên hạ dạy cho người Nhật. Sau ông làm việc cho chính quyền Mạc Phủ Đức Xuyên (德川, Tokugawa), cuối cùng lưu truyền học phong của ông trên đất Nhật. Trước tác của ông có Thuấn Thủy Văn Tập (舜水文集).
(專修寺, Senjū-ji): ngôi chùa hiện tọa lạc tại số 1482 Takada (高田), Ninomiya-machi (二宮町), Haga-gun (芳賀郡), Tochigi-ken (栃木縣); hiệu là Cao Điền Sơn (高田山), thuộc phái Cao Điền Sơn của Chơn Tông. Tượng thờ chính là Nhất Quang Tam Tôn Phật (一光三尊佛, tức A Di Đà Tam Tôn theo dạng thức của Thiện Quang Tự, gồm A Di Đà Như Lai, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát). Ngôi chùa bản sơn trung tâm cùng tên hiện tọa lạc tại số 2819 Isshinden-chō (一身田町), Tsu-shi (津市), Mie-ken (三重縣). Vì vậy, vị trú trì của chùa này thường kiêm nhiệm luôn cả ngôi chùa ở Mie-ken. Nguồn gốc tên chùa vốn phát xuất từ đặc trưng của các Tông phái thuộc hệ Tịnh Độ là “Chuyên Tu Niệm Phật (專修念佛)”. Nhờ sự hỗ trợ đắc lực của vị Thành Chủ của Thành Chơn Cương (眞岡城, Mooka-jō) là Đại Nội Quốc Thời (大內國時, Ōuchi Kunitoki), ngôi chùa này do Thân Loan kiến lập vào năm 1226 (Gia Lộc [嘉祿] 2), làm đạo tràng căn bản để truyền bá Chơn Tông khắp vùng Quan Đông (關東, Kantō). Năm sau, triều đình sắc phong cho chùa tên Chuyên Tu A Di Đà Tự (專修阿彌陀寺). Từ đó trở đi, ngôi chùa trở thành nơi hoạt động trung tâm của Chơn Tông ở vùng Quan Đông và rất phồn vinh, rồi dòng pháp của vị Tổ đời thứ 2 của chùa là Chơn Phật (眞佛, Shinbutsu) và thứ 3 là Hiển Trí (顯智, Kenchi) đã hình thành nên một dòng phái khác, lấy tên là dòng Tịnh Độ Hạ Dã (淨土下野). Đến năm 1465 (Khoan Chánh [寛正] 6), dưới thời vị Tổ thứ 10 là Chơn Tuệ Thượng Nhân (眞慧上人) đất chùa được dời đến vùng Mie-ken (三重縣), rồi sau đó chùa cũng hưng long. Tượng Bổn Tôn A Di Đà Như Lai tương truyền do Thân Loan thỉnh từ ngôi chùa Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji) ở vùng Tín Nùng (信濃, Shinano). Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật vô giá như Tây Phương Chỉ Quy Sao (西方指南抄), 6 quyển, thủ bút của Thân Loan; tam thiếp hòa tán (三帖和讃), 3 quyển, thủ bút của Thân Loan; Ngự ảnh Đường, Như Lai Đường, tượng A Di Đà Như Lai đứng bằng gỗ, v.v.
(野中兼山, Nonaka Kenzan, 1615-1664): quan Lão Trung của Phiên Thổ Tá (土佐, Tosa-han), Nho gia Nam Học và là chính trị gia, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; tên là Chỉ (止); tự Lương Kế (良繼); thông xưng là Truyền Hữu Vệ Môn (傳右衛門); hiệu Kiêm Sơn (兼山); thân phụ là Dã Trung Lương Minh (野中良明). Năm lên 13 tuổi, ông quen biết với Tiểu Thương Thiểu Giới (小倉少介) của Phiên Thổ Tá; rồi nhờ người này làm môi giới, ông đến làm rễ nhà Dã Trung Trực Kế (野中直繼), quan Phụng Hành của Phiên; và năm lên 15 tuổi thì ra làm quan với tên là Lương Kế. Vào năm 1636 (Khoan Vĩnh [寛永] 13), khi dưỡng phụ Trực Kế qua đời, ông kế thừa sự nghiệp của dòng họ Dã Trung, làm chức Phụng Hành. Phiên chủ là Trung Nghĩa (忠義) hạ lệnh cho ông tiến hành cải cách chính trị của Phiên và ông đã góp công lớn trong việc kiến thiết đê điều, khai thác tài nguyên thiên nhiên của Phiên để tăng sản lượng gạo thóc, v.v. Hơn nữa, ông còn cho du nhập các loại thực vật, cá giống cũng như kỷ thuật bắt cá voi, làm đồ gốm, nuôi ong, v.v.; nhờ vậy, nền tài chính của Phiên chuyển sang hướng tốt. Năm 1656 (Minh Lịch [明曆] 2), Phiên chủ Trung Nghĩa lui về ẩn cư, Trung Phong (忠豐) lên thay thế. Đến năm 1663 (Khoan Văn [寛文] 3), do vì bất mãn với chính sách của Kiêm Sơn, thông quan quan Gia Lão Thâm Vĩ Xuất Vũ (深尾出羽), nhóm Dựng Thạch Nguyên Chính (孕石元政), Sanh Câu Mộc Công (生駒木工) đề xuất bản trạng hạch tội. Cho nên, Kiêm Sơn bị thất cước, lui về bế quan ở vùng Túc Mao (宿毛) và năm sau thì ông qua đời.
(道鏡, Dōkyō, ?-772): chính trị gia, vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy là Đạo Kính (道鏡), xuất thân Cung Tước (弓削), Hà Nội (河內, Kawachi, thuộc Ōsaka [大阪]), họ Cung Tước (弓削). Có thuyết cho rằng ông là con của Hoàng Tử Thí Cơ (施基, Shiki). Lúc còn trẻ, ông theo làm đệ tử của Nghĩa Uyên (義淵, Gien) ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), học về Pháp Tướng cũng như Duy Thức với vị này và học Phạn ngữ với Lương Biện (良辨, Rōben). Sau ông đến ẩn cư tại Cát Mộc Sơn (葛木山) trong vùng và chuyên tu pháp Như Ý Luân (如意輪). Về sau, ông vào cung nội làm việc với tư cách là Đại Thần Thiền Sư (大臣禪師). Vào năm 762 (niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] thứ 6), tại Bảo Lương Cung (保良宮), ông dùng Tú Diệu Bí Pháp (宿曜秘法) chữa lành bệnh cho Hiếu Khiêm Thượng Hoàng (孝謙上皇, Kōken Jōkō, tức Xưng Đức Thiên Hoàng [稱德天皇, Shōtoku Tennō] sau này), cho nên được Thượng Hoàng kính trọng. Sau vụ loạn của Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ (藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro), vào năm 763, ông được phong làm chức Thiếu Tăng Đô (少僧都) và bắt đầu tham gia vào chính giới. Đến năm 764, ông được thăng lên chức Đại Thần Thiền Sư, rồi năm sau thì làm Thái Chính Đại Thần Thiền Sư (太政大臣禪師) và nắm chính quyền trong tay. Từ đó, ông bắt đầu nền chính trị xem trọng Phật Giáo, đến năm 766 thì lên làm Pháp Vương (法王) và âm mưu cưỡng quyền. Vào năm 769, ông bịa đặt ra câu chuyện vị Thần của Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) ở tiểu quốc Phong Tiền (豐前, Buzen, thuộc Ōita-ken [大分縣]) giáng lệnh buộc Thiên Hoàng phải nhường ngôi vị cho Đạo Kính; nhưng trong khi đến tham bái nơi đó cũng có mặt của Hòa Khí Thanh Ma Lữ (和氣清麻呂, Waki-no-Kiyomaro), vị này phủ nhận câu chuyện trên là không có thật, nên đã cùng với Đằng Nguyên Bách Xuyên (藤原百川, Fujiwara-no-Momokawa) ngăn chận âm mưu cướp ngôi vua của Đạo Kính. Năm sau, khi Xưng Đức Thiên Hoàng qua đời, ông bị đày đến Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke) với chức Biệt Đương (別當) và qua đời tại đó.
(道命, Dōmyō, 1771-1812): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Đạo Mạng (道命); xuất thân vùng Cảnh Cố Ốc (警固屋, Kegoya), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima-ken [廣島縣]); họ Hà Dã (河野, Kawano). Năm 1791, ông kế thừa Hiển Đạo (顯道) ở Đức Chánh Tự (德正寺), An Nghệ, làm Trú Trì chùa này và theo học với Đại Doanh (大瀛) ở Thắng Viên Tự (勝圓寺) trong vùng. Khi Tăng Duệ (僧叡) tuyên xướng thuyết Hoằng Nguyện Trợ Chánh (弘願助正), ông viết cuốn Hành Tín Nghĩa Trợ Chánh Tiên (行信義助正箋) để phê phán và nổ lực hiển dương thuyết của Đại Doanh. Năm 1883, ông được truy tặng chức Ty Giáo. Trước tác của ông có Hành Tín Nghĩa Trợ Chánh Tiên (行信義助正箋) 1 quyển, Nhập Xuất Nhị Môn Kệ Tương Vọng Biên (入出二門偈相忘編) 4 quyển, Đại Kinh Tàm Quý Biên (大經慚愧編) 1 quyển, Hành Tín Nghĩa (行信義) 1 quyển, v.v.
(妙心寺, Myōshin-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Diệu Tâm Tự thuộc Lâm Tế Tông, hiệu là Chánh Pháp Sơn (正法山), hiện tọa lạc tại Hanazonomyōshinji-chō (花園妙心寺町), Sakyō-ku (左京區), Tokyo-shi (東京市). Tượng thờ chính là Thích Ca Như Lai. Vào năm 1342 (Lịch Ứng [曆應] 5), Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) đến tham Thiền với Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師, tức Tông Phong Diệu Siêu [宗峰妙超]), Tổ khai sơn Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), rồi lấy Ly Cung của mình mà xây dựng nên ngồi Thiền tự này. Đây chính là nguồn gốc của ngôi chùa này, và người khai sơn là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), cao đệ của Đại Đăng Quốc Sư. Đại Sư Quan Sơn Vô Tướng là người đúng như tên gọi, không chấp trước vào ngôn từ chữ nghĩa, cũng chẳng để lại ngữ lục gì cả, không tu tạo đường vũ già lam, mà chỉ chuyên tào tạo nhân tài, và đã tạo thành cơ sở phát triển cho Lâm Tế Tông hiện tại. Trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂), chùa bị đốt cháy tan tành, nhưng rồi lại được vị Tổ đời thứ 6 của chùa là Tuyết Giang Tông Thâm (雪江宗深) tái kiến lại. Bốn vị đệ tử nổi tiếng của Tuyết Giang là Cảnh Giang (景江), Ngộ Khê (悟溪), Đặc Phương (特芳), Đông Dương (東陽), mỗi người lập thành một phái khác, thành 4 phái là Long Tuyền (龍泉), Đông Hải (東海), Linh Vân (靈雲) và Thánh Trạch (聖澤). Từ đó, họ mở rộng phái của mình đi khắp toàn quốc. Đến năm 1509 (Vĩnh Chánh [永正] 6), nhờ sự ngoại hộ của vị Ni Lợi Trinh (利貞), phu nhân của Tề Đằng Lợi Quốc (齊藤利國) ở Mỹ Nùng (美濃, Mino), nên khuôn viên chùa được mở rộng trên phạm vị rộng lớn. Hiện chùa có đến 57 ngôi viện, tất cả đều là nơi cầu nguyện của hai dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi) và Đức Xuyên (德川, Tokugawa) xưa kia, chùa trực thuộc có đến 3.500 ngôi, khoảng 10.000 vị tăng. Sắc Sứ Môn, Sơn Môn, Đại Phương Trượng, Nhà Kho, Khai Sơn Đường, đều là những kiến trúc được xếp vào hạng tài sản văn hóa quan trọng của nhà nước. Nổi tiếng nhất là đại hồng chung, được xem như là tối cổ và được xếp vào hạng quốc bảo. Ngoài ra còn có 2 bức thủ bút của Đại Đăng Quốc Sư, rồi trên trần nhà của Pháp Đường có bức tranh hoành tráng, nổi tiếng của nhà danh họa Thú Dã Thám U (狩野探幽).
(戒壇): là đàn tràng dùng để cử hành nghi thức truyền thọ giới pháp cũng như thuyết giới. Nguyên lai, Giới Đàn không cần phải xây dựng nhà cửa gì cả, tùy theo chỗ đất trống kết giới mà thành. Xưa kia, thời cổ đại Ấn Độ tác pháp ngoài trời, không cần phải làm đàn. Về việc Giới Đàn được kiến lập đầu tiên, Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Thượng, có ghi lại rằng Bồ Tát Lâu Chí (樓至) thỉnh ý đức Phật xin thiết lập Giới Đàn cho chư vị Tỳ Kheo thọ giới và được Ngài hoan hỷ chấp thuận: “Tây Thiên Kỳ Viên, Tỳ Kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập đàn, vi Tỳ Kheo thọ giới Như Lai ư viên ngoại viện Đông Nam, trí nhất đàn, thử vi thỉ dã (西天祇園、比丘樓至請佛立壇、爲比丘受戒、如來於園外院東南、置一壇、此爲始也, Kỳ Viên ở Tây Thiên [Ấn Độ], Tỳ Kheo Lâu Chí xin Phật thiết lập Giới Đàn để truyền thọ giới cho Tỳ Kheo; đức Như Lai thiết lập một đàn ở phía Đông Nam ngoài Kỳ Viên; đây là khởi đầu).” Tại Trung Quốc, tương truyền Giới Đàn đầu tiên do Đàm Kha Ca La (s: Dharmakāla, 曇柯迦羅) kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Bình (嘉平, 249-254), Chánh Nguyên (正元, 254-256) nhà Tào Ngụy. Từ thời nhà Tấn, Tống trở đi, ở phương Nam kiến lập Giới Đàn rất nhiều. Như Pháp Hộ (法護) nhà Đông Tấn lập đàn ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺), Dương Đô (揚都, Nam Kinh [南京]). Chi Đạo Lâm (支道林, 314-366) cũng thiết lập ở Thạch Thành (石城, Lê Thành [黎城], Sơn Tây [山西]), Phần Châu (汾州, Tân Xương [新昌], Triết Giang [浙江]) mỗi nơi một đàn. Chi Pháp Tồn (支法存, ?-457) lập đàn ở Nhã Da (若耶, Thiệu Hưng [紹興], Triết Giang). Trí Nghiêm (智嚴) nhà Nam Tống lập đàn ở Thượng Định Lâm Tự (上定林寺, Nam Kinh). Huệ Quán (慧觀) lập đàn ở Thạch Lương Tự (石梁寺, Thiên Thai Sơn [天台山]). Cầu Na Bạt Ma (s: Guṇavarman, 求那跋摩, 367-431) lập đàn ở Nam Lâm Tự (南林寺). Tăng Phu (僧敷, ?-?) của nhà Nam Tề lập đàn ở Vu Hồ (蕪湖). Pháp Siêu (法超) của nhà Lương thời Nam Triều lập đàn ở Nam Giản (南澗, Nam Kinh). Tăng Hựu (僧祐, 445-518) thiết lập tại Nam Kinh 4 chùa Vân Cư (雲居), Thê Hà (棲霞), Quy Thiện (歸善) và Ái Kính (愛敬) mỗi nơi một đàn. Tổng cọng hơn 300 Giới Đàn. Đến thời nhà Đường, vào năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) kiến lập Giới Đàn tại Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺) ở ngoại ô Trường An (長安). Bắt đầu từ thời này, Giới Đàn đã hình thành quy thức nhất định. Về sau, chư cao tăng khác như Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713), Nhất Hành (一行, 683-727), Kim Cang Trí (金剛智, 671-741), v.v., từng kiến lập Giới Đàn ở vùng phụ cận Lạc Dương (洛陽). Vào năm đầu (765) niên hiệu Vĩnh Thái (永泰), vua Đại Tông (代宗, tại vị 762-779) ban sắc lệnh kiến lập Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇, tức Đại Thừa Giới Đàn) ở Đại Hưng Thiện Tự (大興善寺); rồi cho đặt 10 vị Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德) trong giáo đoàn Tăng Ni ở Kinh Thành; tức sau này là Tam Sư Thất Chứng (三師七證). Về phía Nhật Bản, Giới Đàn đầu tiên do Giám Chơn (鑑眞, Ganjin, 688-763) kiến lập ở phía trước Chánh Điện Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) vào năm 749 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寶] thứ 6). Đến tháng 4 năm này, Giám Chơn đã truyền giới cho Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) cùng với 430 người khác. Sau đó, Giới Đàn Viện (戒壇院) được kiến lập ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); và hai Giới Đàn khác ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji), vùng Trúc Tử (筑紫, Chikushi) và Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) thuộc tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Trong (Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành) Thích Giáo Bộ Vị Khảo ([古今圖書集成]釋敎部彙考, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1521) quyển 2 có câu: “Trường Khánh tứ niên, Kính Tông tức vị, Từ Tứ Vương Trí Hưng, thỉnh trí Tăng Ni Giới Đàn (長慶四年、敬宗卽位、徐泗王智興、請置僧尼戒壇, niên hiệu Trường Khánh thứ 4 [824], vua Kính Tông nhà Đường lên ngôi, Từ Tứ Vương Trí Hưng, xin thiết trí Giới Đàn Tăng Ni).” Hay trong Chung Nam Gia Nghiệp (終南家業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1109) quyển Trung có đoạn rằng: “Chí Nguyên Hỷ thập niên, hữu Tăng Già Bạt Ma, ư Dương Đô Nam Lâm Giới Đàn, vi Tăng Huệ Chiếu đẳng ngũ thập nhân, Ni Huệ Quả đẳng tam thập tam nhân, trùng thọ cụ giới (至元喜十年、有僧伽拔摩、於揚都南林戒壇、爲僧慧照等五十人、尼慧果等三十三人、重受具戒, cho đến niên hiệu Nguyên Hỷ thứ 10, tại Giới Đàn Chùa Nam Lâm ở Dương Đô, có Tăng Già Bạt Ma vì nhóm Tăng Huệ Chiếu 50 người, nhóm Ni Huệ Quả 33 người, thọ giới Cụ Túc lại).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập