Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hàn Dũ »»

(寶筏): chiếc bè quý báu. Đây là thuật ngữ Phật Giáo, tỷ dụ cho Phật pháp vi diệu, cao quý có thể dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ đạt đến bờ bên kia. Trong bài thơ Xuân Nhật Quy Sơn Ký Mạnh Hạo Nhiên (春日歸山寄孟浩然) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Kim thằng khai giác lộ, bảo phiệt độ mê xuyên (金繩開覺路、寶筏渡迷川, thừng vàng bày nẻo giác, bè báu qua sông mê).” Hay trong bài Trùng Tu Viên Gia Sơn Bi Ký (重修袁家山碑記) của Phạm Dương Tuân (范陽詢, ?-?) nhà Thanh có đoạn rằng: “Thần tiên giả dĩ kim đan vĩnh bảo tánh mạng, dĩ bảo phiệt phổ độ chúng sanh (神仙者以金丹永保性命、以寶筏普渡眾生, đấng thần tiên lấy thuốc hay giữ tánh mạng lâu dài, lấy bè báu độ khắp chúng sanh).” Trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Tiêu nghi tức lự tuyệt phan duyên, trì danh ức niệm ưng như thị, bảo phiệt thường đình khổ hải biên, Tây phương thắng cảnh diệu nan lường (消疑息慮絕攀緣、持名憶念應如是、寶筏常停苦海邊、西方勝境妙難量, hết nghi dứt nghĩ bặt phan duyên, trì danh tưởng niệm nên như vậy, bè báu thường dừng biển khổ bên, Tây phương thắng cảnh tuyệt khó lường).” Hoặc trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) lại có câu: “Thử kinh thành liệu chúng khổ chi linh đan, độ mê tân chi bảo phiệt dã (此經誠療眾苦之靈丹、渡迷津之寶筏也, kinh này thật là linh đơn chữa trị các bệnh khổ, là bè báu đưa người qua bến mê vậy).”
(寶筏): chiếc bè quý báu. Đây là thuật ngữ Phật Giáo, tỷ dụ cho Phật pháp vi diệu, cao quý có thể dẫn dắt chúng sanh vượt qua biển khổ đạt đến bờ bên kia. Trong bài thơ Xuân Nhật Quy Sơn Ký Mạnh Hạo Nhiên (春日歸山寄孟浩然) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Kim thằng khai giác lộ, bảo phiệt độ mê xuyên (金繩開覺路、寶筏渡迷川, thừng vàng bày nẻo giác, bè báu qua sông mê).” Hay trong bài Trùng Tu Viên Gia Sơn Bi Ký (重修袁家山碑記) của Phạm Dương Tuân (范陽詢) nhà Thanh có đoạn rằng: “Thần tiên giả dĩ kim đan vĩnh bảo tánh mạng, dĩ bảo phiệt phổ độ chúng sanh (神仙者以金丹永保性命、以寶筏普渡眾生, đấng thần tiên lấy thuốc hay giữ tánh mạng lâu dài, lấy bè báu độ khắp chúng sanh).” Trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1215) lại có câu: “Tiêu nghi tức lự tuyệt phan duyên, trì danh ức niệm ưng như thị, bảo phiệt thường đình khổ hải biên, Tây phương thắng cảnh diệu nan lường (消疑息慮絕攀緣、持名憶念應如是、寶筏常停苦海邊、西方勝境妙難量, hết nghi dứt nghĩ bặt phan duyên, trì danh tưởng niệm nên như vậy, bè báu thường dừng biển khổ bên, Tây phương thắng cảnh tuyệt khó lường).” Hoặc trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) lại có câu: “Thử kinh thành liệu chúng khổ chi linh đan, độ mê tân chi bảo phiệt dã (此經誠療眾苦之靈丹、渡迷津之寶筏也, kinh này thật là linh đơn chữa trị các bệnh khổ, là bè báu đưa người qua bến mê vậy).”
(卜兆): người xưa thường đốt mai rùa, xem thử hình thái các đường nứt trên mai con rùa ấy như thế nào để đoán tốt xấu; đó gọi là triệu (兆). Trong bài Phục Chí Phú (復志賦) của thi sĩ Hàn Dũ (韓愈, 768-824) nhà Đường có câu: “Giả đại quy dĩ thị triệu hề, cầu u trinh chi sở lô (假大龜以視兆兮、求幽貞之所廬, giả rùa lớn để xem bói chừ, cầu u nhàn nơi vui sống).” Từ đó, bốc triệu có nghĩa là bói tìm huyệt chôn. Như trong Ngụy Thư (魏書) quyển 14 có đoạn: “Tích Hiên Viên bốc triệu quy tiêu, bốc giả thỉnh phỏng chư hiền triết, Hiên Viên nãi vốn Thiên lão, Thiên lão vị vi thiện, toại tùng kỳ ngôn, chung trí xương cát (昔軒轅卜兆龜焦、卜者請訪諸賢哲、軒轅乃問天老、天老謂爲善、遂從其言、終致昌吉, xưa kia Hiên Viên đốt mai rùa để bói tìm mộ huyệt chôn; khi bói thì phải thỉnh ý của các bậc hiền triết, Hiên Viên bèn hỏi ông Trời; ông Trời bảo là tốt, liền nghe lời ông Trời, cuối cùng thì được tốt đẹp).” Hay như trong Đại Nhật Bản Sử (大日本史), quyển 111 có đoạn: “Liêm Túc thường vị Định Tuệ viết: 'Đàm phong chi vi địa dã, đông liên Y Thế Sơn, tây đối Kim Cang Sơn, nam giới Kim Phong Sơn, bắc lân Đại Thần Sơn, kỳ linh thánh bất hạ Đường chi Ngũ Đài; ngã bách tuế hậu, bốc triệu vức ư thử, tắc hậu diệp phồn diễn hỷ' (鎌足嘗謂定慧曰:談峰之爲地也、東連伊勢山、西對金剛山、南界金峰山、北鄰大神山、其靈聖不下唐之五臺、我百歲後、卜兆域於此、則後葉繁衍矣, Tướng Quân Liêm Túc thường nói với Định Tuệ rằng: 'Bàn luận đỉnh núi để chọn đất, phía đông gắn liền với Y Thế Sơn, phía tây đối diện với Kim Cang Sơn, phía nam giáp giới Kim Phong Sơn, phía bắc gần với Đại Thần Sơn, sự linh thiêng của mấy ngọn núi này chẳng thua gì Ngũ Đài Sơn bên nhà Đường; sau khi ta qua đời, nên chọn đất mộ chôn ở nơi đây, tất sau này con cháu hưng thịnh vậy').”
(大顚寳通, Daiten Hōtsū, 732-824): pháp từ của Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), còn được gọi là Đại Điên (大顚), sống tại Linh Sơn (靈山) vùng Triều Châu (潮州, Tỉnh Quảng Đông). Ông có giao thiệp với Hàn Dũ (韓愈), người trình tấu tờ biểu Luận Phật Cốt (論佛骨) vào năm thứ 14 (819) niên hiệu Nguyên Hòa (元和), nhân vật bài xích Phật Giáo mà bị vua Hiến Tông (憲宗) lưu đày đến địa phương Triều Châu. Ông thị tịch vào năm thứ 4 (824) niên hiệu Trường Khánh (長慶), hưởng thọ 93 tuổi.
(貽謀): vốn phát xuất từ câu “di quyết tôn mưu, dĩ yến dực tử (詒厥孫謀、以燕翼子, trao truyền mưu kế cho đàn cháu để làm yên cho đàn con)” trong Thi Kinh (詩經), chương Đại Nhã (大雅), phần Văn Vương Hữu Thanh (文王有聲). Về sau, từ di mưu được dùng với ý nghĩa là lời giáo huấn, dạy dỗ của ông bà đối với con cháu. Như trong bài Hàn Duy Tổ Bảo Xu Lỗ Quốc Công Chế (韓維祖保樞魯國公制) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có câu: “Thượng dĩ báo di mưu chi đức, hạ dĩ lệ di hiếu chi thành (上以報貽謀之德、下以勵移孝之誠, trên báo đáp dạy dỗ ân đức, dưới khích lệ hiếu nghĩa lòng thành).” Trong Duy Ma Kinh Vô Ngã Sớ (維摩經無我疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 19, No. 348) quyển 5 có đoạn: “Nhược vị đắc Pháp Thân, đản tác Ý Đẳng Thí, tức thị Vô Ngại Pháp Thí, thử diệc tiên hiền chi cách ngôn, sơ học chi di mưu dã (若未得法身、但作意等施、卽是無閡法施、此亦先賢之格言、初學之貽謀也, nếu chưa chứng đắc Pháp Thân, mà thực hành Bố Thí Bình Đẳng, tức là Pháp Thí Không Ngại; đây chính là cách ngôn của hiền Thánh đi trước, là lời giáo huấn cho hàng mới vào đạo).”
(s, p: yoga, 瑜伽): ý dịch là tương ứng, tương ưng; nương vào phương pháp điều tức (hô hấp), v.v., tập trung tâm niệm ở một điểm; tu chủ yếu pháp Chỉ Quán (止觀), cùng nhất trí với lý tương ưng. Đối với Mật Giáo, rất thịnh hành thuyết gọi là Tam Mật Du Già Tương Ưng (三密瑜伽相應), hay Tam Mật Tương Ưng (三密相應). Hành giả thực hành pháp quán hạnh Du Già này, được gọi là Du Già sư (瑜伽師). Bộ Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論) thuyết về 17 cảnh địa, từ Ngũ Thức Thân Tương Ưng Địa (五識身相應地) cho đến Vô Dư Y Địa (無餘依地). Học phái hành trì theo luận thư này được gọi là Du Già Phái (瑜伽派). Riêng về phía ngoại đạo, cũng có những nhà ngoại đạo Du Già. Tam Muội (s, p: samādhi, 三昧), Thiền Định (s: dhyāna, p: jhāna, 禪定) là những pháp thực hành Du Già. Theo Thành Duy Thức Luận Thuật Ký (成唯識論述記, Taishō Vol. 43, No. 1830) quyển 2, nghĩa của tương ưng có 5: (1) Tương ưng với cảnh, nghĩa là tự tánh không sai tất cả pháp. (2) Tương ưng với hành, nghĩa là tương ưng với định, tuệ, v.v. (3) Tương ưng với lý, là lý của Nhị Đế (二諦) về an lập hay không an lập, v.v. (4) Tương ưng với quả, nghĩa là có thể chứng đắc quả vô thượng Bồ Đề. (5) Tương ưng với cơ, nghĩa là đã được quả tròn đầy, lợi sanh cứu vật, tùy cơ duyên mà cảm ứng, thuốc và bệnh tương ứng với nhau. Trong 5 nghĩa nêu trên, Hiển Giáo phần nhiều lấy nghĩa tương ưng với lý. Trong bản Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) có định nghĩa rõ rằng: “Phạn ngữ Du Già, Hoa ngôn tương ưng, vị Tam Nghiệp đồng thời, nhi bất tiên hậu, cọng duyên nhất cảnh dã; thủ kết ấn thời, khẩu tất tụng chú, ý tất tác quán, Tam Nghiệp tề thí, vô hữu tham sai, thỉ danh tương ưng (梵語瑜伽、華言相應、謂三業同時、而不先後、共緣一境也、手結印時、口必誦咒、意必作觀、三業齊施、無有參差、始名相應, tiếng Phạn Du Già, Tàu gọi là tương ưng, tức Ba Nghiệp đồng thời, mà không trước sau, duyên chung vào một cảnh vậy; khi tay bắt ấn, miệng phải tụng chú, ý phải quán tưởng; Ba Nghiệp cùng thí, không có sai khác, mới gọi là tương ưng).” Bên cạnh đó, trong lời tựa đầu của Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080) có giải thích rằng: “Du Già pháp môn, giai tùng Phạn thư tự chủng khởi quán, xuất sanh nhất thiết quảng đại thần biến, phổ lợi hữu tình (瑜伽法門、皆從梵書字種起觀、出生一切廣大神變、普利有情, pháp môn Du Già, đều từ sách loại chữ Phạn mà bắt đầu quán, sinh ra hết thảy thần biến to lớn, lợi khắp chúng hữu tình).” Cũng điển tịch này có đoạn rằng: “Cẩn y Du Già giáo, kiến trí khải pháp diên, phổ thí chư hữu tình, giai cộng thành Phật đạo (謹依瑜伽敎、建置啟法筵、普施諸有情、皆共成佛道, kính theo Du Già giáo, thiết lập bày pháp diên, thí khắp các hữu tình, đều cọng thành Phật đạo).” Hiện tại trong hầu hết các tự viện Phật Giáo Việt Nam đều dùng nghi thức Du Già Thí Thực để tiến cúng các âm linh cô hồn thông qua Đàn Tràng Chẩn Tế hay Thủy Lục Pháp Hội. Nghi thức này được thâu lục rất đầy đủ trong bộ Trung Khoa Du Già Tập Yếu (中科瑜伽集要) hay Đại Khoa Du Già Tập Yếu (大科瑜伽集要). Tất cả những bản này đều dựa theo bản Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ do Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615), Tổ thứ 8 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc soạn; bản lời tựa ghi dòng chữ: “Thời Vạn Lịch tam thập tứ niên, tuế thứ Bính Ngọ trọng Hạ vọng nhật Vân Thê Châu Hoằng cẩn chí (時萬歷三十四年、歲次丙午仲夏望日雲棲袾宏謹識, lúc bấy giờ niên hiệu Vạn Lịch thứ 34 [1606], ngày rằm tháng 5 năm Bính Ngọ, Vân Thê Châu Hoằng kính ghi).” Bản hiện hành thông dụng nhất tại Huế là Chánh Khắc Trung Khoa Du Già Tập Yếu (正刻中科瑜伽集要), tàng bản tại Sắc Tứ Báo Quốc Tự (勅賜報國寺), được khắc vào mùa Đông năm Mậu Tý (1888) thời vua Đồng Khánh (同慶, tại vị 1885-1889), do Đại Lão Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên (海順良緣, 1806-1892), Tăng Cang Chùa Diệu Đế (妙諦寺), chứng minh.
(行狀): là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó; còn gọi là Hành Trạng Ký (行狀記), Hành Thuật (行述), Hành Thật (行實), Hành Nghiệp (行業), Hành Nghiệp Ký (行業記). Dưới thời nhà Hán thì gọi là Trạng, và từ thời nhà Nguyên trở về sau thì gọi là Hành Trạng. Nguồn gốc của Hành Trạng khởi đầu vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (魏晉南北朝, 220-589) thì bắt đầu thịnh hành; được tìm thấy trong phần trích dẫn về hành trạng của chư vị hiền đi trước của Truyện Viên Thiệu (袁紹), Ngụy Chí (魏志) 6 thuộc Tam Quốc Chí (三國志); hay trong Truyện Vương Ẩn (王隱) của Tấn Thư (晉書) quyển 82, cho biết rằng Vương Ẩn lúc nhỏ rất thích học, có chí viết ký thuật, thường ghi chép lại những sự việc nhà Tấn cũng như hành trạng của chư vị công thần. Có một số ký thuật hành trạng nổi tiếng qua các triều đại của Trung Quốc. Tỷ dụ như dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀), 1 quyển, không rõ tác giả; Đổng Tấn Hành Trạng (董晉行狀) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824); Hàn Lại Bộ Hành Trạng (韓吏部行狀) của Lý Cao (李翱, 774-836), v.v. Thời nhà Tống (宋, 960-1279) có Tư Mã Ôn Công Hành Trạng (司馬溫公行狀) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101); Phó Anh Châu Khất Đan Hành Trạng (赴英州乞舟行狀) cũng của Tô Thức; Minh Đạo Tiên Sinh Hành Trạng (明道先生行狀) của Trình Di (程頤, 1033-1107); Hoàng Khảo Lại Bộ Chu Công Hành Trạng (皇考吏部朱公行狀) của Chu Hy (朱熹, 1130-1200); Trương Ngụy Công Hành Trạng (張魏公行狀) của Chu Hy; Triều Phụng Đại Phu Văn Hoa Các Đãi Chế Tặng Bảo Mô Các Trực Học Sĩ Thông Nghị Đại Phu Thụy Văn Chu Tiên Sinh Hành Trạng (朝奉大夫文華閣待制贈寶謨閣直學士通議大夫諡文朱先生行狀) của Hoàng Càn (黃乾, 1152-1221), v.v. Thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) có Cao Phong Thiền Sư Hành Trạng (高峰禪師行狀) của Triệu Mạnh Phủ (趙孟頫, 1254-1322). Dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì có Thành Ý Lưu Công Cơ Hành Trạng (誠意伯劉公基行狀) của Hoàng Bá Sanh (黃伯生, ?-?); Tự Tự Tiên Thế Hành Trạng (自敘先世行狀) của Hoàng Tá (黃佐, 1490-1566); Viên Trung Lang Hành Trạng (袁中郎行狀) của Viên Trung Đạo (袁中道, 1570-1623), v.v. Thời nhà Thanh (清, 1616-1911) có Ngô Đồng Sơ Hành Trạng (吳同初行狀) của Cố Viêm Võ (顧炎武, 1613-1682). Về hành trạng của Phật Giáo, trong Nghệ Văn Chí (藝文志) của Tân Đường Thư (新唐書) quyển 59 có Tăng Già Hành Trạng (僧伽行狀) do Tân Sùng (辛崇) soạn, 1 quyển; trong Thiên Tăng Hành (僧行篇) của Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) quyển 23 có phần Chư Tăng Luy Hành Trạng (諸僧誄行狀). Trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀, Taishō Vol. 50, No. 2052), 1 quyển; Huyền Tông Triều Phiên Kinh Tam Tạng Thiện Vô Úy Tặng Hồng Lô Khanh Hành Trạng (玄宗朝翻經三藏善無畏贈鴻臚卿行狀, Taishō Vol. 50, No. 2055), do Lý Hoa (李華) soạn, 1 quyển; Đại Đường Cố Đại Đức Tặng Tư Không Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hành Trạng (大唐故大德贈司空大辨正廣智不空三藏行狀, Taishō Vol. 50, No. 2056) do Triệu Thiên (趙遷) soạn, 1 quyển; Đại Đường Thanh Long Tự Tam Triều Cúng Phụng Đại Đức Hành Trạng (大唐青龍寺三朝供奉大德行狀, Taishō Vol. 50, No. 2057, không rõ tác giả), 1 quyển, v.v. Trong Kim Thạch Tụy Biên (金石萃編) quyển 134 có Truyền Ứng Pháp Sư Hành Trạng (傳應法師行狀); Tục Kim Thạch Tụy Biên (續金石萃編) quyển 17 có Chiêu Hóa Tự Chính Thiền Sư Hành Trạng (昭化寺政禪師行狀), v.v.
(玄): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Trong Dịch Kinh (易經), chương Khôn (坤), có câu: “Thiên huyền nhi địa hoàng (天玄而地黃, trời đen mà đất vàng).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Thiên sắc huyền, địa sắc hoàng (天色玄、地色黃, trời màu đen huyền, đất màu vàng).” Về sau, từ huyền được dùng để chỉ cho trời. (2) Chỉ cho phương Bắc, thuộc về hướng Bắc. (3) Thâm áo, huyền diệu. Như trong Lão Tử (老子) có câu: “Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn (玄之又玄、眾妙之門, thâm áo lại càng thâm áo, cửa của các mầu nhiệm).” Lão Tử còn cho “huyền chi hựu huyền” là đạo (道); nhân đó sau này tư tưởng này trở thành học thuyết của Đạo gia. Hay trong tác phẩm Ngũ Quân Vịnh (五君詠), phần Hướng Thường Thị (向常侍), của Nhan Duyên Chi (顏延之, 384-456) nhà Tống thời Nam Triều, lại có đoạn: “Thám đạo háo uyên huyền, quán thư bỉ chương cú (探道好淵玄、觀書鄙章句, tìm đạo thích thâm áo, xem sách ghét câu chữ).” (4) Chỉ đạo lý thâm áo, huyền diệu. (5) Các triết học gia cổ đại Trung Quốc dùng từ này để chỉ cho bản thể của vũ trụ. Như trong tác phẩm Thái Huyền (太玄), phần Ly (攡), của Dương Hùng (揚雄, 53-18 ttl.) nhà Hán, có đoạn: “Huyền giả, u ly vạn loại nhi bất kiến hình giả dã (玄者、幽攡萬類而不見形者也, huyền [bản thể vũ trụ] nghĩa là trùm khắp muôn loài mà không thấy hình vậy).”
(柳宗元, 773-819): văn nhân và là chính trị gia sống dưới thời nhà Đường, một trong 8 nhân vật nổi tiếng của Đường Tống, xuất thân Hà Đông (河東), Tỉnh Sơn Tây (山西省), tự là Tử Hậu (子厚). Ông đã từng làm đến chức Giám Sát Ngự Sử, nhưng do vì liên lụy đến sự kiện Vương Thúc Văn (王叔文), ông bị chuyển sang làm Tư Mã của Vĩnh Châu (永州), rồi sắc sứ của Liễu Châu (柳州). Chính ông đã cùng với Hàn Dũ (韓愈) đề xướng phục hưng nền cổ văn. Trước tác của ông có Liễu Hà Đông Tập (柳河東集).
(凝然): dáng vẻ đứng yên không cử động, tâm tập trung và một sự vật nào đó. Thiền Sư Nam Đài Thủ An (南臺守安) có bài kệ rằng: “Nam Đài tĩnh tọa nhất lô hương, chung nhật ngưng nhiên vạn lự vong, bất thị tức tâm trừ vọng tưởng, đô duyên vô sự khả thương lường (南台靜坐一爐香、終日凝然萬慮忘、不是息心除妄想、都緣無事可商量, Nam Đài tĩnh tọa một lò hương, ngày trọn an nhiên vạn lo buông, chẳng phải nơi tâm trừ vọng tưởng, do duyên vô sự mới tỏ tường).” Trong Tối Thượng Thừa Luận (最上乘論) do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (五祖弘忍) thuật có đoạn: “Chỉ vị phàn duyên vọng niệm phiền não chư kiến, hắc vân sở phú, đản năng ngưng nhiên thủ tâm, vọng niệm bất sanh, Niết Bàn pháp tự nhiên hiển hiện; cố tri tự tâm, bổn lai thanh tịnh (只爲攀緣妄念煩惱諸見、黑雲所覆、但能凝然守心、妄念不生、涅槃法自然顯現、故知自心、本來清淨, chỉ vì vin theo duyên, vọng niệm, phiền não, các tri kiến, bị che lấp bởi đám mây đen, nhưng nếu có thể tập trung giữ tâm, thì vọng niệm chẳng sanh, pháp Niết Bàn tự nhiên hiện rõ; cho nên phải biết rằng tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh).” Da Luật Sở Tài (耶律楚材, 1190-1244), hiệu là Trạm Nhiên Cư Sĩ (湛然居士), hậu duệ của Đông Đan Vương Đột Dục (東丹王突欲) nhà Liêu, có làm bài thơ rằng: “Tùng chinh vạn lí đồ phong sa, nam bắc đông tây tổng thị gia, lạc đắc hung trung không sách sách, ngưng nhiên tâm thị bạch Liên Hoa (從征萬里走風沙、南北東西總是家、落得胸中空索索、凝然心是白蓮花, chiến chinh vạn dặm bụi gió xa, nam bắc đông tây thảy là nhà, tỉnh được trong lòng không vắng lặng, tập trung tâm ấy trắng sen hoa).” Ngoài ra, trong Thiền Quan Sách Tấn (禪關策進, Taishō No. 2024), phần Chư Tổ Pháp Ngữ Tiết Yếu Đệ Nhất (諸祖法語節要第一) có đoạn: “Bích Phong Kim Thiền Sư, tham Tấn Vân Hải, thị dĩ vạn pháp công án, nghi chi tam niên, ngẫu trích sơ thứ, hốt ngưng nhiên cửu chi (璧峰金禪師、參晉雲海、示以萬法公案、疑之三年、偶摘蔬次、忽凝然久之, Bích Phong Kim Thiền Sư đến tham học với Tấn Vân Hải, được dạy cho lấy vạn pháp làm công án; Bích Phong nghi ngờ ba năm, tình cờ hái rau, bỗng nhiên trơ người không cử động một hồi lâu).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập