Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hàn Lâm »»

(告文): một loại văn tế để kính trình lên chư thần Phật, như Đại Sư Ngẫu Ích Trí Húc (蕅益智旭, 1599-1655), Tổ thứ 9 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc, có bài Lễ Thiên Phật Cáo Văn (禮千佛告文); hay trong Đại Tạng Kinh của Triều Tiên có bản Đại Tạng Khắc Bản Quân Thần Kỳ Cáo Văn (大藏刻版君臣祈告文) do Hàn Lâm Học Sĩ Lý Khuê Báo (李奎報, 1108-1241) người Cao Lệ soạn, v.v.
(杜荀鶴, Tojunkaku, 846-904): thi nhân cuối thời nhà Đường, tự là Ngạn Chi (彦之), hiệu là Cửu Hoa Sơn Nhân (九華山人), người Trì Châu (池州), Tỉnh An Huy (安徽省). Ông thi đỗ Tiến Sĩ vào ngày 10 tháng giêng năm thứ 2 (861) niên hiệu Đại Thuận (大順), và cũng nhằm trúng ngày sinh nhật của ông. Sau đó ông từng làm các chức vụ như Hàn Lâm Học Sĩ (翰林學士), Chủ Khách Viên Ngoại Tri Chế Cáo (主客員外知制誥). Vua nhà Lương là Châu Toàn Trung (朱全忠) rất mến mộ ông, và cũng nhân đó ông lợi dụng quyền uy của nhà vua mà dèm pha hàng quý tộc, và giết hết những kẻ nào không thích ông. Song cuối cùng ông lâm trọng bệnh và chỉ trong vòng 10 ngày sau thì qua đời. Ông là người rất phong lưu và giỏi về chơi đàn cầm cũng như thơ văn.
(楊億, Yōoku, 973-1020): nhân vật sống dưới thời nhà Tống, vị cư sĩ đã từng tham học với chư tăng Lâm Tế, tự là Đại Niên (大年), thụy hiệu là Văn (文), xuất thân Huyện Phố Thành (浦城縣), Kiến Châu (建州, Tỉnh Phúc Kiến). Lúc còn nhỏ, ông đã thông minh lanh lợi, đến năm lên 11 tuổi thì được vua Thái Tông mời vào cung, trước mặt vua, ông đã làm 5 thiên thi phú, cho nên tiếng tăm của ông vang khắp. Vào năm đầu (990) niên hiệu Thuần Hóa (淳化) thì làm Phụng Lễ Lang (奉禮郎) ở Thái Thường Tự (太常寺), rồi trãi qua các chức quan khác như Quang Lộc Tự Thừa (光祿寺丞), Trước Tác Tá Lang (著作佐郎), Hàn Lâm Học Sĩ (翰林學士), Công Bộ Thị Lang (工部侍郎), v.v. Khi làm Thái Thú Nhữ Châu (汝州, Tỉnh Hà Nam), ông thường hay đến tham vấn Quảng Huệ Nguyên Liên (廣慧元漣) và Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念), cuối cùng kế thừa dòng pháp của Nguyên Liên. Theo sắc chỉ của vua Chơn Tông, ông cùng với Lý Duy (李維), Vương Não (王瑙), v.v., giám định bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 30 quyển và viết lời tựa cho bộ này. Bên cạnh đó, ông cũng đã cùng với Vương Khâm Nhã (王欽若) soạn cuốn Sách Phủ Nguyên Quy (册府元龜).
(學士): có mấy nghĩa. (1) Chỉ chung cho những người đọc sách bình thường. Như trong Bão Phác Tử (抱樸子), Phần Sùng Giáo (崇敎), của Cát Hồng (葛洪, 284-363) nhà Tấn, có câu: “Tỉnh văn chương ký bất hiểu, đỗ học sĩ như thảo giới (省文章旣不曉、睹學士如草芥, xét văn chương đã không hiểu, xem người đọc sách như cỏ rác).” (2) Giống như học giả. Như trong tác phẩm Thiếu Thất Sơn Phòng Bút Tùng (少室山房筆叢), phần Hoa Dương Bác Nghị Hạ (華陽博議下), của Hồ Ứng Lân (胡應麟, 1551-1602) nhà Minh, có đoạn: “Giới Phủ, Nguyên Hối tự thị học sĩ, bất đắc dĩ sở trường một chi (介甫、元晦自是學士、不得以所長沒之, Giới Phủ [tức Vương An Thạch, 1021-1086], Nguyên Hối [tức Chu Hy, 1130-1200] tự là học giả, không được để cho sở trường mất đi).” (3) Tên một chức quan. Từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589) trở về sau, Học Sĩ được xem như là chức quan chuyên trách về soạn thuật văn học. Dưới thời nhà Đường (唐, 618-907), chức này được gọi là Hàn Lâm Học Sĩ (翰林學士), vì tiếp cận với Hoàng Đế, nên thỉnh thoảng có tham dự việc triều chính. Đến thời nhà Tống (宋, 960-1279), chức quan này được thiết định rõ ràng, chức quyền và địa vị cũng tương đồng với thời nhà Đường. Sang thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì cho thiết lập các chức như Hàn Lâm Viện Học Sĩ (翰林院學士), Hàn Lâm Viện Thị Độc (翰林院侍讀), Thị Giảng Học Sĩ (侍講學士). Đến thời nhà Thanh (清, 1616-1911) thì đổi Hàn Lâm Viện Học Sĩ thành Chưởng Viện Học Sĩ (掌院學士). Trong Lịch Đại Tam Bảo Ký (歷代三寶紀, Taishō Vol. 49, No. 2034) quyển 1 có đoạn: “Khai Hoàng thập thất niên Phiên Kinh Học Sĩ thần Phí Trường Phòng (開皇十七年翻經學士臣費長房, năm Khai Hoàng 17 [597], thần Phí Trường Phòng, Học Sĩ Phiên Dịch Kinh Điển).” (4) Tên một loại học vị.
(康僧會, Kōsōkai, ?-280): vị tăng dịch kinh dưới thời đại Tam Quốc, người Giao Chỉ (交趾, Bắc bộ Việt Nam), tổ tiên ông xuất thân nước Khương Cư (s: Sogdiana, 康居), nhưng đến thời cha ông thì dời sang Giao Chỉ để làm ăn buôn bán. Hơn 10 tuổi, ông đã để tang song thân và sau khi mãn tang thì xuất gia. Ông tinh thông tam tạng kinh luật, cùng các học tăng như Hàn Lâm (韓林) ở Nam Dương (南陽), Bì Nghiệp (皮業) ở Dĩnh Châu (潁), Trần Huệ (陳慧) ở Cối Kê (會稽), v.v., phiên dịch kinh điển Phật Giáo sang tiếng Hán. Vào năm thứ 10 (247) niên hiệu Xích Ô (赤烏) nhà Ngô thời Tam Quốc, ông đến Kiến Nghiệp (建業) bắt đầu hành đạo, suốt ngày thắp hương lễ bái tượng Phật, tụng kinh, ngồi Thiền, rồi ra chợ khất thực. Chính việc làm kỳ lạ của ông đã làm cho nhiều người cảm mến, bèn tâu lên vua nhà Ngô là Tôn Quyền (尊權); nhân đó nhà vua cho mời đến hỏi sự việc. Sau ông đáp ứng lời thỉnh cầu của Tôn Quyền, chỉ trong 21 ngày làm cảm ứng được xá lợi Phật, vì vậy nhà vua vô cùng kính phục thần thông của ông, bèn quy y theo, và lập nên Kiến Sơ Tự (建初寺) để cho ông truyền đạo dịch kinh. Nhờ vậy Phật Giáo ở địa phương Kiến Nghiệp trở nên hưng thạnh. Đây cũng là con đường truyền đạo từ phương Nam vào Trung Quốc, và chính Phạn bối cũng được truyền vào qua con đường này. Vào năm đầu niên hiệu Thái Khang (太康) nhà Tấn, ông thị tịch, không rõ thọ được bao nhiêu, được ban cho hiệu là Siêu Hóa Thiền Sư (超化禪師). Các kinh điển chủ yếu của ông dịch có Ngô Phẩm Kinh (呉品經) 5 quyển, Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喩經) 2 quyển, Lục Độ Tập Kinh (六度集經) 9 quyển (hiện tồn chỉ có 8 quyển), và chú giải một số kinh như An Ban Thủ Ý Kinh (安般守意經), Pháp Kính Kinh (法鏡經), Đạo Thọ Kinh (道樹經), v.v.
(石門蘊聰, Sekimon Unsō, 965-1032): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Nam Hải (南海, Tỉnh Quảng Đông), họ là Trương (張). Sau khi xuất gia, ông đến tham yết Bách Trượng Đạo Thường (百丈道常), và cuối cùng được đại ngộ dưới trướng của Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念). Ngoài ra ông còn đến tham vấn Động Sơn Thủ Sơ (洞山守初) ở Nhượng Châu (襄州, Tỉnh Hồ Bắc), Đại Dương Sơn Cảnh Diên (大陽山警延) ở Dĩnh Châu (郢州, Tỉnh Hồ Bắc), cũng như Trí Môn Sư Giới (智門師戒) ở Tùy Châu (隨州, Tỉnh Hồ Bắc), và vào năm thứ 3 (1006) niên hiệu Cảnh Đức (景德), ông đến trú tại Thạch Môn Sơn (石門山) vùng Nhượng Châu. Đến năm thứ 4 (1020) niên hiệu Thiên Hy (天禧), ông chuyển đến Thái Bình Hưng Quốc Thiền Tự (太平興國禪寺) ở Cốc Ẩn Sơn (谷隱山). Đồ chúng tập trung đến tham học với ông lên đến cả ngàn người. Ông đã từng kết thâm giao với Hàn Lâm Dương Văn Ức (翰林楊文億), Trung Sơn Lưu Quân (中山劉筠), v.v. Vào ngày mồng 8 tháng 3 năm thứ 10 niên hiệu Thiên Thánh (天聖), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi và được ban cho thụy hiệu là Từ Chiếu Thiền Sư (慈照禪師). Ngữ lục của ông có Thạch Môn Sơn Từ Chiếu Thiền Sư Phụng Nham Tập (石門山慈照禪師鳳巖集), 1 quyển.
(蘇東坡, 1036-1101): tức Tô Thức (蘇軾), nhà chính trị, thi nhân và nhà văn chương đời Bắc Tống. Ông người Mi Sơn (眉山), Tỉnh Tứ Xuyên (四川省), tự là Tử Chiêm (子瞻), Đông Pha là hiệu. Ông làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, nhưng vì phản đối chính sách của Vương An Thạch (王安石), nên ông bị lưu đày đến Hoàng Châu (黃州), Hồ Nam (湖南). Là một trong Đường Tống Bát Đại Thi Nhân, ông thừa kế nên cổ văn nhà Đường và thành công lớn với nền cổ văn nhà Tống. Ông có để lại nhiều tuyệt tác và bên cạnh đó ông còn có tài năng vẽ tranh tuyệt vời. Thi tập của ông là Đông Pha Toàn Tập (東坡全集).
(宋濂, Sōren, 1309-1380): nhân vật sống dưới thời nhà Minh, xuất thân Phố Giang (浦江), Tỉnh Triết Giang (浙江省), tự Cảnh Liêm (景濂), hiệu là Tiềm Khê (潛溪), Vô Tướng Cư Sĩ (無相居士), Long Môn Tử (龍門子), Tiên Hoa Sanh (仙華生), Bạch Ngưu Sanh (白牛生), Nam Cung Tán Lại (南宮散吏), Nam Sơn Tiều Giả (南山樵者). Lúc nhỏ ông theo học Nho Giáo với Ngô Lai (呉萊), Liễu Quán (柳貫), Hoàng Tiềm (黃潛), v.v., thông hiểu các kinh sử. Trong khoảng thời gian niên hiệu Chí Chánh (至正, 1341-1367), ông được ban tặng hiệu Hàn Lâm Học Sĩ, nhưng sau lui ẩn cư ở Long Môn Sơn (龍門山), chuyên viết sách trong vòng hơn 10 năm. Đến đầu thời nhà Minh, biên tu các sử thư nhà Nguyên, nghiên cứu sâu các điển tịch của thánh hiền, cho nên phần lớn các quy định về lễ nhạc dưới thời nhà Minh đều do ông làm ra. Ông cũng thường đọc Đại Tạng Kinh, khi rảnh rang thì tu tập Thiền quán, cùng với nhà vua thường đàm luận áo nghĩa của kinh điển. Vào năm thứ 13 (1380) niên hiệu Hồng Võ (洪武), nhân chuyện cháu ông là Tống Thận (宋愼) có tội nên bị liên lụy, cả nhà ông phải dời đến Mậu Châu (茂州), khi đi qua Cù Đường (瞿塘), đêm về cùng với vị tăng hàn huyên đạo vị, ông ngồi ngay ngắn y nhiên mà ra đi, hưởng thọ 72 tuổi. Đến thời Võ Tông, ông được ban cho thụy hiệu là Văn Hiến (文憲). Sau này, Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏) thâu tập các văn thư của ông thành cuốn Hộ Pháp Lục (護法錄). Ngoài ra, ông có trước tác Tống Học Sĩ Toàn Tập (宋學士全集) 33 quyển, Long Môn Tử (龍門子), Phố Dương Nhân Vật Ký (浦陽人物記), Thiên Hải Loại Biên (篇海類編), Tiềm Khê Tập (潛溪集), v.v.
(長水子璿, Chōsui Shisen, ?-1038): vị tăng của Hoa Nghiêm Tông Trung Quốc, sống dưới thời Bắc Tống, xuất thân Tiền Đường (錢塘) Hàng Châu (杭州, có thuyết cho là Gia Hưng, Tú Châu), họ Trịnh (鄭), hiệu Đông Bình (東平) hay Trường Thủy Đại Sư (長水大師). Năm lên 9 tuổi, ông theo hầu hạ Khế Tông (契宗) ở Phổ Tuệ Tự (普慧寺), chuyên tụng Kinh Lăng Nghiêm. Năm 13 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, ban đầu theo Hồng Mẫn (洪敏) ở Tú Châu (秀州) học về giáo lý Hoa Nghiêm, sau tham vấn Lang Da Huệ Giác (瑯琊慧覺) và có chỗ sở ngộ. Huệ Giác bèn khuyên ông nên trở về quê cũ, truyền bá Hoa Nghiêm Tông, vì vậy ông đến sống ở Trường Thủy Tự (長水寺), thiết lập đạo tràng chuyên lấy giáo học Hoa Nghiêm và Lăng Nghiêm để dạy cho học đồ của mình với số lượng lên đến cả ngàn người. Ông có công lao rất lớn trong việc chấn hưng Hoa Nghiêm Tông dưới thời nhà Tống. Vào năm thứ 6 (1013) niên hiệu Tường Phù (祥符), Hàn Lâm Học Sĩ Tiền Công Dị (錢公易) tâu xin nhà vua ban cho ông Tử Y và hiệu là Trường Thủy Sớ Chủ Lăng Nghiêm Đại Sư (長水疏主楞嚴大師). Trước tác của ông có Thủ Lăng Nghiêm Nghĩa Sớ Chú Kinh (首楞嚴義疏注經) 20 quyển, Thủ Lăng Nghiêm Kinh Khoa (首楞嚴經科) 2 quyển, Kim Cang Bát Nhã Kinh Toản Yếu Khoa (金剛般若經纂要科) 1 quyển, Đại Thừa Khởi Tín Luận Bút Tước Ký (大乘起信論筆削記) 20 quyển, v.v. Vào năm đầu niên hiệu Bảo Nguyên (寳元), ông thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi.
(慈航): thuyền từ; chư Phật, Bồ Tát lấy tâm từ bi cứu độ chúng sanh, giống như thuyền bè đưa người thoát ly biển khổ sanh tử. Trong bài thơ Khai Thiện Tự Pháp Hội (開善寺法會) của Tiêu Thống (蕭統, 501-531) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Pháp luân minh ám thất, tuệ hải độ từ hàng (法輪明暗室、慧海度慈航, xe pháp sáng nhà tối, biển tuệ độ thuyền từ).” Hay trong bài Vị Thôn Thối Cư Ký Lễ Bộ Thôi Thị Lang Hàn Lâm Tiền Xá Nhân Thi Nhất Bách Vận (渭村退居寄禮部崔侍郎翰林錢舍人詩一百韻) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường cũng có câu: “Đoạn si cầu tuệ kiếm, tế khổ đắc từ hàng (斷癡求慧劍、濟苦得慈航, đoạn ngu cầu kiếm tuệ, cứu khổ được thuyền từ).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự (三時繫念佛事, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1464) có bài tán thán đức Phật Di Đà rằng: “A Di Đà Phật, vô thượng y vương, nguy nguy kim tướng phóng hào quang, khổ hải tác từ hàng, Cửu Phẩm Liên Bang, đồng nguyện vãng Tây phương (阿彌陀佛、無上醫王、巍巍金相放毫光、苦海作慈航、九品蓮邦、同願往西方, A Di Đà Phật, cao tột y vương, lồng lộng tướng báu phóng hào quang, biển khổ làm từ thuyền, Chín Phẩm Cõi Sen, cùng nguyện qua Tây phương).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập