Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hạc giá »»
(s: Vārāṇasī, Vāraṇasī, Varāṇasī, Varaṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈): tên của một vương quốc cổ ngày xưa của Ấn Độ, còn gọi là Ba La Nại Tư Quốc (波羅奈斯國), Ba La Nại Quốc (波羅捺國), Ba La Nại Tả Quốc (波羅捺寫國); xưa kia gọi là Già Thi Quốc (s: Kāśī, 伽尸國), hiện tại là Benares. Theo Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) quyển 7, vương quốc này có thành quách kéo dài đến tận sông Tây Khắc Già (西殑伽), dài 18, 19 dặm, rộng 5-6 dặm. Dân cư trong thành đông đúc, tính người hiền lương, phần lớn tin vào ngoại đạo, ít người kính trọng Phật pháp. Tăng chúng phần lớn học pháp Chánh Lượng Bộ của Tiểu Thừa. Về phía đông bắc của thành có dòng sông Varaṇā; phía tây sông có tháp A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王); phía đông bắc sông khoảng 10 dặm có di tích cũ nơi Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), Bồ Tát Hộ Minh (護明) từng thọ ký. Bên cạnh đó, phía tây bắc thành có vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi xưa kia sau khi thành đạo, đức Phật lần đầu tiên giáo hóa cho 5 vị Tỳ Kheo. Từ đó về sau, Ngài thường đến thành này hóa độ chúng sanh và Ba La Nại trở thành một trong 6 trung tâm thuyết pháp lớn đương thời. Hiện tại trong thành có cả ngàn ngôi đền thờ Ấn Độ Giáo. Nơi này xưa kia rất thịnh hành về học thuật, cùng với vùng Takṣasilā là hai trung tâm của Bà La Môn giáo học. Khi cao tăng Huyền Trang (玄奘, 602-664) đến địa phương này, Phái Thấp Bà (s: Śiva, 濕婆) rất hưng thịnh. Sau khi tín đồ Hồi Giáo xâm nhập vào năm 1194, Phật Giáo tiến đến tuyệt tích. Hiện tại nơi đây không chỉ là thánh địa của Ấn Độ Giáo, mà còn là thánh địa của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (耆那敎, Jainism).
(s: Cūḍapanthaka, Cullapatka, Kṣullapanthaka, Śuddhipaṃthaka, p: Cullapanthaka, Cūḷapanthaka, 周利槃陀伽): vị La Hán thứ 16 trong Thập Bát La Hán (十八羅漢). Âm dịch là Châu Trĩ Ban Tha Già (周稚般他伽), Côn Nỗ Bát Đà Na (崑努鉢陀那), Chú Lợi Ban Đà Già (咒利般陀伽), Châu Lợi Bàn Đặc (朱利槃特), Chú Đồ Bán Thác Ca (注荼半托迦); gọi tắt là Bàn Đà (般陀), Bán Thác Già (半託伽); ý dịch là Tiểu Lộ (小路), Lộ Biên Sanh (路邊生). Khi đức Phật còn tại thế, ông là con của một vị Bà La Môn tại Thành Vương Xá (s: Rājagṛha, p: Rājagaha, 王舍城), sau cùng với anh là Ma Ha Bàn Đặc (s: Mahāpanthaka, 摩訶槃特) đều xuất gia làm đệ tử Phật. Bẩm tánh của ông chậm lụt, ngu độn; khi học giáo lý, tụng kinh qua, ông đều quên mất, chẳng nhớ một câu một từ nào, thậm chí đến tên của ông cũng quên mất, không nhớ; cho nên người đương thời gọi ông là Ngu Lộ (愚路). Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm có kể câu chuyện anh ông thấy vậy bảo rằng nếu ngu si không thuộc chữ nào thì nên trở về thế tục, không nên ở trong chùa và đuổi ông ra khỏi chùa. Ông ra trước cổng chùa đau xót, khóc lóc thảm thiết. Đức Phật dùng tuệ nhãn thanh tịnh thấy được tình cảnh này, bèn từ tĩnh thất đến Kỳ Hoàn Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍), gặp Châu Lợi Bàn Đặc, khuyên nhũ ông nên dùng chổi để quét sạch những vô minh, ngu muội, nghiệp chướng trong người mình. Ngài chỉ dạy cho một câu “phất trần trừ cấu (拂塵除垢, quét bụi trừ nhớp)” và khuyên ông nên ngày đêm vừa lau chùi dép của chư tăng, vừa tụng niệm, quán sát, tư duy và thực hành. Ông chậm lụt đến nỗi khi đọc câu trên thì quên quét, đọc chữ trước quên chữ sau, hay quét thì quên đọc câu kệ ấy. Có một hôm nọ, khi đang tụng câu đó, ông hốt nhiên đại ngộ, chứng quả A La Hán. Sau khi chứng ngộ, thần thông của ông rất kỳ diệu, có thể hiện các hình tượng khác nhau, thường dùng thần thông thị hiện thuyết pháp cho nhóm Lục Quần Tỳ Kheo (六郡比丘). Tương truyền vào cuối đời, ông cùng với 1.600 vị Tỳ Kheo khác đến trú tại Trì Tụ Sơn (持軸山) để hộ trì chánh pháp và làm lợi ích chúng sanh. Quán Hưu (貫休, 832-912) nhà Đường có vẽ hình tượng của ông ngồi dưới gốc cây khô, đưa tay trái ra.
(妙覺): tự giác ngộ chính mình, làm cho người khác giác ngộ, sự giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, đó gọi là Diệu Giác; tức là quả vị Phật vô thượng chánh giác; là một trong 52 hay 42 giai vị tu hành của Bồ Tát Đại Thừa; còn gọi là Diệu Giác Địa (妙覺地). Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn [s: śrāvaka, 聲聞] và Duyên Giác [s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺]) thì dừng lại ở cấp độ tự giác, không có công năng giác tha. Còn Bồ Tát tuy cùng song hành cả tự giác lẫn giác tha, nhưng chưa viên mãn; chỉ có Phật mới viên mãn cả hai, thể giác ngộ không thể nghĩ bàn. Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) quyển 26 định nghĩa rằng: “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, bất khả tư nghì, cố danh Diệu Giác Tánh (自覺覺他、覺行圓滿、不可思議、故名妙覺性, tự mình giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Tánh Diệu Giác).” Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1931) do Sa Môn Đế Quán (諦觀) người Cao Lệ thâu lục, giải thích rõ sự sai khác giữa Diệu Giác của Biệt Giáo và Viên Giáo thế nào. Quả vị Diệu Giác của Biệt Giáo ngồi trên tòa Đại Bảo Hoa Vương (大寶華王), dưới cây bồ đề có bảy báu thuộc thế giới Liên Hoa Tạng (蓮華藏), hiện Viên Mãn Báo Thân (圓滿報身), vì các Bồ Tát độn căn mà chuyển vô lương bánh xe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦). Trong khi đó, quả vị Diệu Giác của Viên Giáo thì lấy hư không làm tòa ngồi, thành tựu Thanh Tịnh Pháp Thân (清淨法身), trú tại Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Như trong Ngột Am Phổ Ninh Thiền Sư Ngữ Lục (兀菴普寧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1404) có giải thích rằng: “Chí thử Diệu Giác vị, vị chi Như Lai địa, thuyết pháp như vân, lợi sanh như vũ, tự lợi lợi tha, độ vị độ dã (至此妙覺位、謂之如來地、說法如雲、利生如雨、自利利他、度未度也, đạt đến quả vị Diệu Giác này, gọi đó là cảnh địa của Như Lai, thuyết pháp như mây, làm lợi ích quần sanh như mưa, tự lợi và lợi tha, độ cho những người chưa được độ).” Hay trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, lại có câu: “Vị nhân nhân diệu giác bổn vô phàm thánh, vật vật toàn chân ninh hữu tịnh uế (謂人人妙覺本無凡聖、物物全眞寧有淨穢, bảo rằng người người diệu giác vốn không phàm thánh, vật vật toàn chân sao có sạch nhớp).”
(唐招提寺, Tōshōdai-ji): ngôi Tổng Bản Sơn trung tâm của Luật Tông Nhật Bản, tọa lạc tại Gojō-chō (五條町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣), một trong 7 ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Tượng thờ chính của chùa là tượng ngồi Lô Xá Na Phật (盧舍那佛, thời đại Nại Lương) cao 6 trượng. Là ngôi tự viện có liên quan mật thiết với vị Đường tăng Giám Chơn (鑑眞, Ganjin), về sự tình xây dựng chùa được miêu tả rất rõ trong Đường Đại Hòa Thượng Đông Chinh Truyện (唐大和上東征傳) do Đạm Hải Tam Thuyền (淡海三船, Oumi-no-Mifune) soạn thuật vào năm 779. Vượt qua biết bao gian khổ để đến được triều đình Nhật, vào năm 754 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] 6), Giám Chơn đã thiết lập Giới Đàn trước tượng Đại Phật của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) để truyền thọ giới pháp cho Thiên Hoàng, Hoàng Hậu và hơn 440 người trong cung nội. Từ đó về sau, ông xác lập chế độ thọ giới. Sau đó, ông nhường lại Đường Thiền Viện (唐禪院) ở Đông Đại Tự cho đệ tử Pháp Tấn (法進, Hōshin), rồi xây dựng một ngôi Biệt Viện mới tại khu đất nhà ở cũ của cố Thân Vương Tân Điền Bộ (新田部, Nitabe)—khu đất do triều đình ban tặng vào năm 759 (Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] 3), và chuyển đến trú ở đây với tên do ông đặt là Đường Chiêu Đề Tự. Đây chính là duyên khởi của chùa này. Về quy mô của ngôi già lam, người tạo lập, v.v., có ghi rõ trong Chiêu Đề Tự Kiến Lập Duyên Khởi (招提寺建立緣起, năm 835). Quần thể đại quy mô của ngôi già lam này có Kim Đường (金堂) nối liền với Hành Lang chạy vòng quanh, Giảng Đường (講堂), Lầu Kinh (經樓), Lầu Chuông (金樓), Tăng Phòng (僧房), v.v., là những kiến trúc được dời từ Đông Triều Tập Điện của Bình Thành Kinh (平城京). Sau khi kinh đô được dời về Trường Cương (長岡), chùa vẫn tiếp tục xây dựng thêm. Dưới thời Bình An, do vì kinh đô dời đi nơi khác nên chùa phải chịu số phận suy vong cùng với những ngôi chùa khác của vùng Nam Đô. Trong phần Thật Phạm Luật Sư Truyện (實範律師傳) của bản Chiêu Đề Thiên Tuế Truyện Ký (招提寺千歳傳記) được hình thành vào năm 1701 (Nguyên Lộc [元祿] 14), có ghi lại lần hoang phế của chùa dưới thời đại này. Đến thời đại Liêm Thương, chùa bắt đầu tái hưng nhờ những hoạt động phục hưng giáo học vùng Nam Đô của Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Duệ Tôn (叡尊, Eison), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō), v.v. Vào năm 1202 (Kiến Nhân [建仁] 2), Trinh Khánh bắt đầu tu sửa Đông Thất (東室), thiết lập Đạo Tràng Niệm Phật; đến năm 1240 (Nhân Trị [仁治] nguyên niên) thì xây dựng Lầu Kinh, v.v. Năm 1244 (Khoan Nguyên [寬元] 2), Giác Thạnh—người được kính ngưỡng như là vị sơ tổ thời Trung Hưng của chùa—đến làm trú trì. Ông tiến hành phục hưng về mặt giáo học; và vị tổ thứ 2 là Chứng Huyền (証玄, Shōgen) cũng tận lực góp phần làm cho chùa xương thạnh. Bức tượng Thích Ca theo dạng thức của Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji) được tôn trí tại Lễ Đường (禮堂, năm 1202), tranh vẽ Đông Chinh Truyện (東征傳), v.v., nói lên một cách chân thật thời kỳ phục hưng này. Lịch sử của chùa từ thời Nam Bắc Triều trở đi thì không rõ lắm, nhưng giống như các ngôi tự viện khác, chùa cũng bị suy tàn mãi cho đến thời Cận Đại. Đến năm 1596 (Trường Khánh [長慶] nguyên niên), do vì động đất, toàn bộ ngôi già lam bị hư nát. Sau đó, nhờ Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) quy y với Long Quang (隆光, Ryūkō)—vị trú trì Hộ Trì Viện (護持院) của chùa, Tướng Quân phát nguyện tu bổ lại toàn bộ già lam để hồi hướng công đức cho thân mẫu ông. Từ khi chùa thành lập chưa có trận hỏa tai nào xảy ra cho đến thời Cận Đại; nhưng vào năm 1802 (Hưởng Hòa [享和] nguyên niên), ngôi tháp được dựng vào năm 810 bị sét đánh làm cháy rụi. Thêm vào đó, vào năm 1833 (Thiên Bảo [天保] 4), Tây Thất (西室), Khai Sơn Đường (開山堂) và năm 1848 (năm đầu niên hiệu Gia Vĩnh [嘉永]) thì Giới Đàn Đường (戒壇堂) bị cháy thành tro bụi. Tuy nhiên, cũng may mắn thay, trung tâm già lam thì không bị ảnh hưởng hỏa tai lớn, các kiến trúc quý giá như Kim Đường, Giảng Đường, Kho Kinh, Kho Báu, v.v., vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay. Bảo vật của chùa hiện có một quần thể tượng điêu khắc giá trị gồm mấy mươi pho như tượng ngồi Lô Xá Na Phật, tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm (thời đại Nại Lương), tượng đứng Dược Sư Như Lai (đầu thời Bình An), tượng ngồi Giám Chơn Hòa Thượng (thời đại Nại Lương), v.v. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảo vật khác như bình đựng xá lợi do Giám Chơn đem sang, tranh vẽ, kinh điển, v.v. Về tên gọi Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺), Đường (唐) ở đây có nghĩa nói đến vị Đường Tăng Giám Chơn sang truyền Luật Tông vào Nhật. Còn Chiêu Đề (招提) là âm dịch của tiếng Pāli hay Sanskrit cātuddisa, nghĩa là tứ phương, bốn phương. Vậy ngôi Đường Chiêu Đề Tự là ngôi chùa của vị Đường Tăng Giám Chơn dành cho người của bốn phương đến tu tập. Có lẽ đây cũng là chân ý của Hòa Thượng Giám Chơn.
(s, p: buddha, 佛): gọi đủ là Phật Đà (佛陀、佛馱), Hưu Đồ (休屠), Phù Đà (浮陀), Phù Đồ (浮屠、浮圖), Phù Đầu (浮頭), Một Đà (沒馱), Bột Đà (勃陀、馞陀), Bộ Tha (步他); ý dịch là Giác Giả (覺者), Tri Giả (知者), Giác (覺); nghĩa là đấng giác ngộ chân lý; cũng có nghĩa là đầy đủ tự giác (自覺, tự giác ngộ mình), giác tha (覺他, làm cho người khác giác ngộ), giác hành viên mãn (覺行圓滿, giác ngộ và thực hành đều viên mãn), thấy biết như thật hết thảy tánh tướng của các pháp, là bậc Đại Thánh thành tựu Đẳng Chánh Giác. Đây là quả vị tối cao trong tu hành của Phật Giáo. Ba yếu tố tự giác, giác tha và giác hành viên mãn, đối với hạng phàm phu thì không yếu tố nào đầy đủ cả; đối với hàng Nhị Thừa Thanh Văn (s: śrāvaka, p: sāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺) thì chỉ có tự giác; Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) thì có đủ tự giác và giác tha; chỉ có Phật mới có đủ ba yếu tố này; cho nên đây là tôn xưng cao quý nhất. Về nội dung chứng ngộ của đức Phật, các kinh luận có nhiều thuyết khác nhau. Về thân Phật, cõi nước Phật, v.v., các tông phái cũng có nhiều dị thuyết. Cũng có biết bao danh xưng để tán than đức Phật như 10 danh hiệu của đức Như Lai, Nhất Thiết Tri Giả (一切知者, người biết tất cả), Nhất Thiết Kiến Giả (一切見者, người thấy tất cả), Tri Đạo Giả (知道者, người biết đạo), Khai Đạo Giả (開道者, người khai mở đạo [con đường]), Thuyết Đạo Giả (說道者, người thuyết về đạo), Thế Tôn (世尊, đấng được cuộc đời tôn kính), Thế Hùng (世雄, bậc hùng mạnh có thể đoạn trừ mọi phiền não của thế gian), Thế Nhãn (世眼, người có con mắt dẫn dắt thế gian), Thế Anh (世英, bậc ưu tú nhất thế gian), Thiên Tôn (天尊, Đệ Nhất Nghĩa Thiên tối thắng trong 5 vị trời), Đại Giác Thế Tôn (大覺世尊, hay Đại Giác Tôn), Giác Vương (覺王, vua giác ngộ), Giác Hoàng (覺皇, vua giác ngộ), Pháp Vương (法王, vua của các pháp), Đại Đạo Sư (大導師, vị thầy hướng dẫn vĩ đại), Đại Thánh Nhân (大聖人), Đại Sa Môn (大沙門), Đại Tiên (大仙, đấng tôn kính nhất trong chư tiên), Đại Y Vương (大醫王, như danh y tùy theo bệnh mà cho thuốc hay, đức Phật là người tùy theo tâm bệnh mà thuyết pháp), Phật Thiên (佛天), Phật Nhật (佛日, đức Phật như mặt trời chiếu sang khắp nơi), Lưỡng Túc Tôn (兩足尊, đấng tôn kính nhất trong loài có hai chân, lưỡng túc ở đây còn có nghĩa là đầy đủ hai yếu tố nguyện và hạnh), Nhị Túc Tôn (二足尊), Lưỡng Túc Tiên (兩足仙), Nhị Túc Tiên (二足仙), Thiên Trung Thiên (天中天, bậc tối thắng trong chư thiên), Nhân Trung Ngưu Vương (人中牛王, tỷ dụ đức Phật là vua của loài trâu), Nhân Hùng Sư Tử (人雄師子, tỷ dụ đức Phật là con sư tử hùng mạnh trong loài người), v.v. Đức Phật là người có thể hóa độ, dẫn dắt mình và người khác, nên có tên là Năng Nhân (能人); cho nên Phật A Di Đà cũng được gọi là An Lạc Năng Nhân (安樂能人). Đức Phật có những đức tính đặc thù, như thân Ngài có 32 tướng tốt, 48 vẻ đẹp; ngoài ra còn có 10 Lực, 18 pháp bất cọng, v.v. Định, Trí và Bi của Phật đều tối thắng, nên gọi là Đại Định (大定), Đại Trí (大智), Đại Bi (大悲); phối với Ba Đức là Đoạn Đức (斷德), Trí Đức (智德) và Ân Đức (恩德), gọi chung là Đại Định Trí Bi (大定智悲). Chư Phật xuất hiện trong thời quá khứ được gọi là Quá Khứ Phật (過去佛) hay Cổ Phật (古佛), như 7 vị Phật quá khứ, Phật Nhiên Đăng (s: Dīpaṃkara, 燃燈), v.v. Chư Phật sẽ xuất hiện nơi cõi Ta Bà trong tương lai thì gọi là Hậu Phật (後佛) hay Đương Lai Phật (當來佛), như Phật Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Ban đầu, Phật là chỉ cho đức Phật của lịch sử, tức là Phật Thích Ca; về sau sản sinh tư tưởng 7 vị Phật quá khứ, rồi lại có Phật tương lai và đức Phật Di Lặc; nay khoảng cách giữa đức Phật Thích Ca và Phật Di Lặc lại có thời gian không có Phật. Phật Giáo Nguyên Thủy thì cho rằng trong đời hiện tại không thể tồn tại cả hai vị Phật như vậy; đến thời kỳ Phật Giáo Đại Thừa, tùy thế giới quan mở rộng, cho rằng trong nhất thời có nhiều đức Phật tồn tại. Tỷ dụ như, phương Đông có Phật A Súc (s: Akṣhobhya, 阿閦), phương Tây có Phật A Di Đà (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀); đồng thời ngay hiện tại, ở thế giới phương khác lại có vô số chư Phật hiện hữu, gọi là thập phương hằng sa chư Phật (十方恒沙諸佛, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở mười phương). Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部) của Phật Giáo Nguyên Thủy công nhận rằng tam thiên đại thiên thế giới đồng thời có các đức Phật khác tồn tại, nên chủ trương thuyết gọi là “nhất Phật nhất giới, đa Phật đa giới (一界一佛、多界多佛, một đức Phật một thế giới, nhiều đức Phật nhiều thế giới).” Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 有部) thì chủ trương thuyết “đa giới nhất Phật (多界一佛, nhiều thế giới một đức Phật).” Chữ “giới (界)” ở đây nghĩa là tam thiên đại thiên thế giới. Ngoài ra, ba đời chư Phật tức chỉ cho ngàn vị Phật của Trang Nghiêm Kiếp (莊嚴劫) trong thời quá khứ, ngàn vị Phật của Hiền Kiếp (賢劫) trong thời hiện tại, và ngàn vị Phật của Tinh Tú Kiếp (星宿劫) trong thời tương lai; hợp lại thành ba ngàn vị Phật. Danh xưng của chư vị Phật này có trong Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh (三劫三千佛名經).
(s: tri-ratna, ratna-traya, p: ti-ratana, ratanattaya, j: sampō, 三寶): chỉ cho ba ngôi báu, gồm Phật Bảo (佛寶), Pháp Bảo (法寶) và Tăng Bảo (僧寶), mà một tín đồ Phật Giáo cần phải tôn kính, cúng dường; còn gọi là Tam Tôn (三尊). (1) Phật (s, p: buddha, 佛), chỉ cho đấng tự giác ngộ mình và làm cho người khác giác ngộ, là vị giáo chủ phật giáo có thể dạy đỗ, hướng dẫn người khác; hoặc chỉ chung cho chư Phật. (2) Pháp (s: dharma, p: dhamma, 法), là giáo pháp, lời dạy được đức Phật giác ngộ và tuyên thuyết cho người khác. (3) Tăng (s, p: saṅgha, 僧), chỉ cho tập đoàn đệ tử của đức Phật chuyên hành tì, tu tập giáo pháp của Ngài. Thường giáo đoàn này phải 3 người trở lên mới được gọi là Tăng. Ba ngôi báu này có uy đức rất cao tột, vĩnh viễn không thay đổi, giống như bảo vật trên đời, nên có tên là Tam Bảo. Cứu Cánh Nhất Thừa Thật Tánh Luận (究竟一乘寶性論, Taishō Vol. 31, No. 1611) quyển 2 có nêu ra 6 nghĩa của Tam Bảo: (1) Hy hữu, hiếm có, nghĩa rằng ba ngôi này trãi qua trăm ngàn vạn kiếp khó mà găp được, giống như trân bảo trên thế gian vậy. (2) Minh tịnh, trong sạch, nghĩa là ba ngôi báu này xa lìa hết thảy các pháp Hữu Lậu (s: sāsava, p: sāsrava, 有漏); nên không nhơ nhớp mà trong sạch. (3) Có thế lực, nghĩa là ba ngôi báu này đầy đủ năng lực oai đức tự tại không thể nghĩa bàn. (4) Trang nghiêm, nghĩa là ba ngôi báu này có thể trang nghiêm cõi xuất thế gian; giống như các bảo vật có thể làm trang nghiêm thế gian vậy. (5) Tối thắng, nghĩa là trong các pháp xuất thế gian, ba ngôi báu này là pháp vượt hơn hết tất cả. (6) Bất biến, không thay đổi, nghĩa là ba ngôi báu này là pháp Vô Lậu (s: anāsrava, p: anāsava, 無漏), không bị Tám Pháp của thế gian làm cho lay động, thay đổi. Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (大乘法苑義林章, Taishō Vol. 45, No. 1861) quyển 6 lại đưa ra 4 nghĩa khác để làm sáng tỏ nguyên do sáng lập Tam Bảo: (1) Tà Tam Bảo (邪三寶) để đối trị ngoại đạo, nghĩa là phản tà quy chánh. (2) Đức Phật là bậc thầy điều ngự, Pháp là giáo pháp của vị thầy đó, Tăng là học trò của thầy đó. Sự chứng đắc của ba ngôi này là vô lượng, chủng loại giống nhau, nên hợp thành một pháp; nhưng vì nhân quả chứng đắc có khác nhau, nên phân thành thầy trò. (3) Người thượng căn muốn chứng quả Bồ Đề của Phật, nên gọi đó là Phật Bảo; người trung căn muốn cầu trí tự nhiên mà liễu đạt pháp nhân duyên, nên gọi đó là Pháp Bảo; người hạ căn nương vào thầy thọ pháp, lý sự không sai khác, nên gọi đó là Tăng Bảo. (4) Đức Phật như vị lương y, Pháp như phương thuốc mầu nhiệm; Tăng giống như người khán bệnh; đối với người bệnh mà nói thì vị lương y, phương thuốc mầu nhiệm và người khán bệnh không thể nào thiếu được. Trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) có đoạn: “Hựu phàm vi lễ bái, tất tu tiên kính Tam Bảo, Tam Bảo thị tối thắng cát tường, lương hựu phước điền, năng tiêu chúng sanh nghiệp cấu (又凡爲禮拜、必須先敬三寶、三寶是最勝吉祥、良祐福田、能消眾生業垢, lại phàm là lễ lạy, tất nên trước kính trọng Tam Bảo, Tam Bảo là điều tốt lành trên hết, là ruộng phước phù hộ tốt, có thể tiêu trừ nghiệp cấu của chúng sanh).” Hay trong Quy Giới Yếu Tập (歸戒要集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1129) quyển 1 cũng có đoạn: “Phù Tam Bảo giả, tánh tướng thường trụ, thể châu pháp giới, tiếp vật ứng cơ, như nhật diệu ư thiên giang, vi thế chu hàng (夫三寶者、性相常住、體周法界、接物應機、如日曜於千江、爲世舟航, phàm ba ngôi báu, tánh tướng thường trụ, thể khắp pháp giới, theo vật ứng cơ, như mặt trời tỏa sáng nơi ngàn sông, làm thuyền bè cho thế gian).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập