Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hà Trạch Tự »»
(荷澤神會, Kataku Jinne, 684-760): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, vị tổ khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗) Trung Quốc, người vùng Tương Dương (襄陽, Hồ Bắc), họ Cao (高). Lúc nhỏ ông học Ngũ Kinh, Lão Trang, các sử thư, sau theo xuất gia với Cảnh Nguyên ở Quốc Xương Tự (國昌寺), đọc tụng thuộc các kinh điển rất dễ dàng. Năm lên 13 tuổi, ông đến tham yết Huệ Năng (慧能). Sau khi Huệ Năng qua đời ông đi tham học khắp các nơi. Vào năm thứ 8 (720) niên hiệu Khai Nguyên (開元), ông vâng chiếu đến trú trì Long Hưng Tự (龍興寺) ở Nam Dương (南陽) và cử xướng Thiền pháp rộng rãi tại đây, cho nên người đời thường gọi ông là Nam Dương Hòa Thượng (南陽和尚). Sau khi Lục Tổ qua đời trong vòng 20 năm, giáo pháp của ông bị suy tàn dần dần, cả hai kinh đều tôn sùng Thần Tú (神秀) mà thôi. Lần đầu tiên khi đến Lạc Dương (洛陽), ông đã có ý muốn chấn hưng Thiền phong của Lục Tổ, cho nên vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên, ông thiết lập đại hội ở Đại Vân Tự (大雲寺) thuộc Hoạt Đài (滑臺), Hà Nam (河南), cùng luận tranh với Sùng Viễn (崇遠) ở Sơn Đông (山東). Kế đến vào năm thứ 4 (745) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông viết cuốn Hiển Tông Ký (顯宗記), quy định ra 2 tông phái đốn và tiệm của Nam Bắc, lấy Huệ Năng ở phương Nam làm Đốn Tông và Thần Tú ở phía Bắc làm Tiệm Tông; cho nên từ “Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸)” vốn phát xuất từ đây. Ông tận lực công kích pháp môn của Thần Tú, vì vậy Nam Tông Thiền càng ngày trở nên hưng thạnh, trong khi đó thì Bắc Tông Thiền dần dần suy tàn. Đến năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo, nhân vụ trình tâu vu khống của vị quan Ngự Sử Lô Dịch (盧奕), ông rời khỏi Hà Trạch Tự (荷澤寺) vùng Lạc Dương, chuyển đến sống tại các địa phương như Dặc Dương (弋陽, Giang Tây), Võ Đương (武當, Hồ Bắc), v.v. Đến năm sau, ông lại chuyển đến Tương Dương, rồi Bát Nhã Viện (般若院) của Khai Nguyên Tự (開元寺) vùng Kinh Châu (荆州). Khi vụ loạn An Sử (安史) dấy khởi, cả 2 kinh đô đều rơi vào cảnh lầm than, khắp nơi có thiết lập giới đàn độ chúng tăng, tập trung tiền của để sung vào quân nhu, cho nên người ta thỉnh ông làm chủ đàn. Sau vụ loạn, vua Túc Tông mời ông vào cung nội cúng dường và cho xây dựng Thiền đường trong khuôn viên Hà Trạch Tự, thỉnh ông đến làm trú trì chùa này, cho nên người đời thường gọi ông là Hà Trạch Đại Sư (荷澤大師). Vào năm đầu (760) niên hiệu Thượng Nguyên (上元), ông thị tịch, hưởng thọ 93 tuổi. Có thuyết cho là ông mất vào năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元). Ông được ban cho thụy hiệu là Chơn Tông Đại Sư (眞宗大師). Vào năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), Hoàng Thái Tử cho triệu tập các vị Thiền sư, quy định tông chỉ của Thiền môn, suy cử ông là vị tổ thứ 7 của Thiền Tông, sắc phong bia đặt tại Thần Long Tự (神龍寺). Tông môn của ông được gọi là Hà Trạch Tông (荷澤宗). Môn hạ ông có rất nhiều đấng anh tài như Vô Danh (無名), Pháp Như (法如), v.v.
(南宗): tên gọi một phái Thiền Phật Giáo của Trung Quốc. Dưới thời nhà Đường, Thần Hội (神會) gọi Thần Tú (神秀, 606-706, thầy xưa kia của ông) và chúng đệ tử của vị này là Bắc Tông và phê phán dòng phái này. Đối lập với phái này, ông tự xưng là Nam Tông và chủ trương lập trường đốn ngộ. Đến cuối đời, Thần Tú được Tắc Thiên Võ Hậu (則天武后, tại vị 684-705) thỉnh vào cung nội; từ đó ông được hoàng triều tôn sùng, hàng môn đệ của ông cũng nhờ vậy mà được đế thất bảo hộ và hàng quan lại hộ trì. Thần Hội công khai phê phán Bắc Tông; đến trú trì Hà Trạch Tự (荷澤寺) ở Lạc Dương (洛陽) và tiếp tục công kích Bắc Tông. Chính ông cho rằng Phật pháp chân truyền là Lục Tổ Huệ Năng (慧能hay惠能, Enō, 638-713), rồi phê phán Thần Tú, người được tôn sùng là Lục Tổ; và nhân vì Huệ Năng truyền bá giáo pháp ở phương Nam nên ông mới tự xưng lập trường của mình là Nam Tông. Do hoạt động của Thần Hội, thể theo mệnh lệnh của chính phủ, ông bị đuổi ra khỏi Lạc Dương một thời gian; đến năm 755 (Thiên Bảo [天寶] 14), nhân phát sinh vụ Loạn An Lộc Sơn (安祿山) và kèm theo Chế Độ Hương Thủy Tiền (香水錢制度), ông mới được phép trở về Lạc Dương. Về sau, Thần Hội dốc hết toàn lực bố giáo và được rất nhiều người thuộc các tầng lớp ủng hộ. Nam Tông của Thần Hội lấy Hà Trạch Tự làm cứ điểm hoạt động rất hưng thịnh, nên tông này còn có tên gọi khác là Hà Trạch Tông. Sau khi vị tông tổ qua đời, tông phái nhanh chóng suy tàn, và đến năm 845 (Hội Xương [會昌] 5), nhân nạn Phế Phật Hội Xương, cùng với hệ thống Bắc Tông, Nam Tông cũng bị tiêu diệt khỏi lịch sử. Trong Thiền Tông Trung Quốc, chư vị Thiền tăng kế thừa dòng pháp của Lục Tổ Huệ Năng đã tích cực hoạt động giáo hóa, từ thời nhà Đường đến nhà Tống, hình thành nên các dòng phái chủ yếu gọi là Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗); nhờ vậy Phật Giáo Trung Quốc đã tiến đến hồi cực thịnh. Bàn về Huệ Năng cũng như Nam Bắc Tông Luận, có một số tác phẩm như Lục Tổ Đàn Kinh (六祖檀經), v.v., được lưu truyền rộng rãi, và các Thiền tăng đời sau này tiếp tục nhận thức cho rằng hệ thống của mình là Nam Tông, kéo dài mãi cho đến hiện tại. Với ý nghĩa đó, có thể nói rằng chính vì Hà Trạch Tông bị tiêu diệt, nên Nam Tông mới tồn tại cho đến ngày nay. Nam Tông còn là tên gọi tắt của Nam Tông Thiền.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập