Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Giới Danh »»
(北條經時, Hōjō Tsunetoki, 1224-1246): nhà chấp quyền của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương; thân phụ là Bắc Điều Thời Thị (北條時氏, Hōjō Tokiuji), thân mẫu là Tùng Hạ Thiền Ni (松下禪尼, Matsushitazenni); cải danh là Tảo Thượng Ngự Tiền (藻上御前), An Lạc (安樂); biệt danh là Thái Lang (太郎), Tả Cận Đại Phu (左近大夫); Giới Danh là Liên Hoa Tự An Lạc (蓮華寺安樂). Sau khi Bắc Điều Thái Thời (北條泰時, Hōjō Yasutoki) qua đời, với tư cách là cháu đích tôn, ông kế thừa chức vị của người này. Chính ông đã cưỡng chế giải nhiệm chức Tướng Quân Cửu Điều Lại Kinh (九條賴經, Kujō Yoritsune, tức Đằng Nguyên Lại Kinh [藤原賴經, Fujiwara-no-Yoritsune]) và đưa người con 6 tuổi là Lại Tự (賴嗣, Yoritsugu) lên nắm quyền.
(北條氏康, Hōjō Ujiyasu, 1515-1571): vị Võ Tướng của thời đại Chiến Quốc, con trai đầu của Bắc Điều Thị Cương (北條氏綱, Hōjō Ujitsuna); mẫu thân là Dưỡng Châu Viện Tông Vinh (養珠院宗榮); tên lúc nhỏ là Y Đậu Thiên Đại Hoàn (伊豆千代丸), thông xưng là Tân Cửu Lang (新九郎); Giới Danh là Đại Thánh Tự Điện Đông Dương Tông Đại Đại Cư Sĩ (大聖寺殿東陽宗岱大居士). Ông đã từng đánh nhau Thượng Sam Khiêm Tín (上杉謙信, Uesugi Kenshin), rồi mở rộng thế lực ở phía bắc Võ Tàng (武藏, Musashi). Ông tập trung hết sức vào việc dân chính và xây dựng nên thời kỳ hưng thịnh nhất của dòng họ Bắc Điều.
(北條時政, Hōjō Tokimasa, 1138-1215): nhà chấp quyền của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương, thông xưng là Bắc Điều Tứ Lang (四郎北條), cha của vợ Nguyên Lại Triều (源賴朝, Minamoto-no-Yoritomo); Giới Danh là Nguyện Thành Tựu Viện Minh Thạnh (願成就院明盛). Khi Lại Triều cử binh thì ông giúp sức đánh trận, sau khi chiến thắng thì ông chiếm cứ hết 7 tiểu quốc đương thời. Sau khi Lại Triều qua đời, ông trở thành người chấp quyền đầu tiên, truất phế Nguyên Lại Gia (源賴家, Minamoto-no-Yorriie), rồi cùng với Bắc Điều Chính Tử (北條政子, Hōjō Masako) nắm trọn quyền hành của Mạc Phủ trong tay. Về sau ông xuất gia làm tăng lữ, hiệu là Minh Thạnh (明盛).
(梶原景時, Kajiwara Kagetoki, ?-1200): vị Võ Tướng sống đầu thời Liêm Thương, gia nhân của Nguyên Lại Triều (源賴朝, Minamoto-no-Yoritomo), thường gọi là Bình Tam (平三, Heiza); Giới Danh là Long Tuyền Viện Cối Nguyên Công (龍泉院梶勝源公); cha là Cối Nguyên Cảnh Thanh (梶原景清). ông là người có công trong cuộc thảo phạt dòng họ Bình (平, Taira). Ông đối lập và dèm pha Nguyên Nghĩa Kinh (源義經, Minamoto-no-Yoritsune), rồi sau đó lại dèm pha Kết Thành Triều Quang (結城朝光, Yūki Tomomitsu). Từ đó, Triều Quang kết hợp với các tướng lãnh, tố cáo Cảnh Thời, vì vậy ông bị đuổi ra khỏi vùng Liêm Thương, và cuối cùng ông cùng toàn gia tộc bị giết chết ở vùng Hồ Khi (狐崎, Kitsunezaki), Tuấn Hà (駿河, Suruga).
(德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616): vị Tướng Quân đầu tiên của dòng họ Đức Xuyên, con đầu của Tùng Bình Quảng Trung (松平廣忠), tên lúc nhỏ là Trúc Thiên Đại (竹千代), tên khi lớn là Nguyên Khang (源康); Giới Danh là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (東照大權現安國院殿德蓮社崇譽道和大居士) hay An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (安國院殿德蓮社崇譽道和大居士). Sau một thời gian lệ thuộc vào Kim Xuyên Nghĩa Nguyên (金川義元), ông bắt tay với Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), rồi hòa thân với Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi). Năm 1590, ông bị phong bế ở Quan Bát Châu (關八州), nên vào Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō), và sau khi Tú Cát qua đời thì ông chấp chính ở Thành Phục Kiến (伏見城, Fushimi-jō). Vào năm 1600, trong trận chiến ở Sekigahara (関が原), ông phá tan phe đảng Thạch Điền Tam Thành (石田三成); đến năm 1603 thì được bổ nhiệm làm Chinh Di Đại Tướng Quân và mở ra chính quyền Mạc Phủ ở Giang Hộ. Về sau, ông nhường chức Tướng Quân cho Tú Trung (秀忠, Hidetada), rồi trở về sống ẩn cư. Ông được ban thụy hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), pháp hiệu là An Quốc Viện (安國院).
(德川賴宣, Tokugawa Yorinobu, 1602-1671): Tổ của dòng họ Đức Xuyên ở vùng Kỷ Y (紀伊, Kii), con trai đầu của Gia Khang (家康, Ieyasu); tên lúc nhỏ là trường phước hoàn (長福丸); biệt danh là Kỷ Y Lại Tuyên (紀伊賴宣); tôn xưng là Nam Long Công (南龍公); thần hiệu là Nam Long Đại Thần (南龍大神); Giới Danh là Nam Long Viện Điện Tùng Nhị Vị Tiền Á Tướng Khải Vĩnh Thiên Hoảng Đại Cư Sĩ (南龍院殿從二位前亞相顗永天晃大居士), Nam Long Viện Điện Nhị Phẩm Tiền Á Tướng Vĩnh Thiên Hoảng Đại Cư Sĩ (南龍院殿二品前亞相永天晃大居士). Ông có tánh tình hung hăng, sở trường về thi ca. Chính ông đã từng lập công trong trận đánh Osaka.
(加藤清正, Katō Kiyomasa, 1562-1611): vị Võ Tướng dưới thời đại An Thổ Đào Sơn, xuất thân vùng Vĩ Trương (尾張, Owari), trung thần của Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi); thông xưng là Hổ Chi Trợ (虎之助); Giới Danh là Tịnh Trì Viện Vĩnh Vận Nhật Thừa Đại Cư Sĩ (淨池院殿永運日乘大居士); thân phụ là Thanh Trung (清忠), thân mẫu là Y Đô (伊都). Trong trận chiến ở Sekigahara (關ヶ原), ông đứng về phía Gia Khang (家康, Ieyasu) và sau đó thì lãnh hữu tiểu quốc Phì Tiền (肥前, Hizen).
(空也, Kūya, Kōya, 903-972): vị tăng sống giữa thời Bình An, vị tổ của Phái Không Dã Niệm Phật (空也念佛派, Kūyanembutsu-ha), tổ của pháp môn Odorinembutsu (踊り念佛, Niệm Phật Nhảy), húy là Không Dã, Hoằng Dã (弘也), Quang Thắng (光勝); không rõ xuất thân ở đâu. Khi tuổi thanh niên, dưới hình thức cư sĩ tại gia, ông đi khắp các tiểu quốc, làm các công việc xã hội như đắp đường, xây cầu cống, đào giếng, v.v. Khoảng độ hơn 20 tuổi, ông xuất gia ở Quốc Phận Tự (國分寺, Kokubun-ji) vùng Vĩ Trương (尾張, Owari), thọ giới Sa Di, lấy hiệu là Không Dã. Đến năm 938, ông lên kinh đô, lấy nơi đây làm trung tâm để tiến hành bố giáo pháp môn “miệng xưng niệm Phật”, không kể giàu nghèo sang hèn gì cả; từ đó ông được gọi là Thị Thánh (市聖, vị Thánh ngoài chợ) hay A Di Đà Thánh. Vào năm 948, ông có thọ giới với Diên Xương (延昌), vị Thiên Thai Tọa Chủ đương thời, ở Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) với Giới Danh là Quang Thắng, nhưng sau đó ông không bao giờ dùng đến tên này. Trong khoảng niên hiệu Ứng Hòa (應和, 961-964), khi bệnh dịch lưu hành khắp nơi, ông sáng kiến Tây Quang Tự (西光寺, tức Lục Ba La Mật Tự [六波羅蜜寺, Rokuharamitsu-ji]) để an trí tượng Thập Nhất Diện Quan Âm và cầu nguyện cho bệnh tật tiêu trừ. Ông được xem như là người khai sáng Tịnh Độ Giáo của Nhật Bản. Trước tác của ông có Di Đà Hòa Tán (彌陀和讚).
(六角定賴, Rokkaku Sadayori, 1495-1552): nhà Chiến Quốc Đại Danh ở phía Nam Cận Giang (近江, Ōmi); con của Lục Giác Cao Lại (六角高賴, Rokkaku Takayori); thông xưng là Tứ Lang (四郎); Giới Danh là Vân Quang Tự Điện Quang Thất Quy Công Đại Cư Sĩ (雲光寺殿光室龜公大居士); thụy hiệu là Giang Vân (江雲). Vào năm 1504 (Vĩnh Chánh [永正] nguyên niên), ông xuất gia làm Tăng sĩ ở Từ Chiếu Viện (慈照院) của Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji) thuộc kinh đô Kyoto, với tên gọi là Cát Thị Giả (吉侍者). Tuy nhiên, do vì anh ông là Lục Giác Thị Cương (六角氏綱, Rokkaku Ujitsuna) đánh nhau với dòng họ Tế Xuyên (細川, Hosokawa), bị trọng thương và qua đời vào năm 1518 (Vĩnh Chánh 15); vì vậy ông buộc phải hoàn tục để kế tục gia nghiệp. Sau đó, ông làm Cận Vệ cho Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Trị (足利義稙, Ashikaga Yoshitane), nhưng lại bị vị này đuổi đi. Sau ông cùng với Tế Xuyên Cao Quốc (細川高國, Hosokawa Takakuni) ủng hộ đưa Túc Lợi Nghĩa Tình (足利義晴, Ashikaga Yoshiharu) lên làm Tướng Quân đời thứ 12; nhờ vậy, ông được Nghĩa Tình bổ nhiệm cho làm chức Quản Lãnh. Chính ông là người đã tạo nên thời kỳ hưng thịnh nhất cho dòng họ Lục Giác.
(南條時光, Nanjō Tokimitsu, 1259-1332): vị Võ Tướng sống vào cuối thời Liêm Thương, tín đồ đắc lực của Nhật Liên, là thủ lãnh vùng Thượng Dã (上野, Ueno) thuộc tiểu quốc Tuấn Hà (駿河, Suruga); ông được gọi là Thượng Dã Điện (上野殿, Ngài Thượng Dã). Vào năm 1278, khi xảy ra vụ Pháp Nạn Nhiệt Nguyên (熱原の法難, Atsuhara-no-Hōnan), dưới sự chỉ đạo của Nhật Hưng (日興, Nikkō), ông đề kháng chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Mạc Phủ, rồi tận lực bôn tẩu để bảo vệ cho tín đồ. Đối với tâm tín thành của Thời Quang như vậy, Nhật Liên tán thán và ban cho hiệu là Thượng Dã Hiền Nhân Điện (上野賢人殿). Sau khi thầy qua đời, Nhật Hưng không hợp ý với Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), nên rời khỏi Thân Diên Sơn (身延山). Lúc ấy, Thời Quang cung đón Nhật Hưng về lãnh địa của ông, rồi đến năm thứ 3 (1290) niên hiệu Chánh Ứng (正應) thì dâng cúng một phần đất đai của mình và trở thành người tín đồ khai sáng Bổn Môn Tự (本門寺). Vào năm đầu (1323) niên hiệu Chánh Trung (正中), để cúng dường hồi hướng cầu nguyện cho người vợ quá cố là Diệu Liên (妙蓮), ông biến tư thất của Hạ Điều Quật Chi Nội (下條堀之內) thành Diệu Liên Tự (妙蓮寺). Ông qua đời ở tuổi 74 và có Giới Danh là Đại Hành Tôn Linh (大行尊靈).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập