Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Giới Đàn »»
(大眉性善, Daibi Shōzen, 1616-1673): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Mi (大眉), tự Lương Giả (良者), họ Hứa (許), xuất thân Huyện Tấn Giang (晉江縣), Tuyền Châu (泉州, Tỉnh Phúc Kiến), sanh ngày 14 tháng 2 năm thứ 44 (1616) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Năm 17 tuổi, ông đến đầu sư với Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Sư Tử Nham (獅子巖), Phúc Thanh (福清), cùng thầy sắp xếp kế hoạch sang du hóa Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông cùng với Ẩn Nguyên sang Nhật và đã từng làm chức Duy Na cho Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở Trường Khi (長崎, Nagasaki), Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) ở Phú Điền (富田), Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Ōsaka-fu [大阪府]). Vào năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寛文), ông làm Đô Tự (都寺) cho Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山), Vũ Trị (宇治, Uji, thuộc Kyōto-fu [京都府]), đến năm sau ông xây dựng Đông Lâm Am (東林庵) trong núi và lui về ẩn cư. Đến năm thứ 5 (1665) cùng niên hiệu trên, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Vào tháng 2 năm thứ 10 (1670), ông làm Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) cho ba Giới Đàn trên Hoàng Bá Sơn. Đến mùa Thu năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông nhường Đông Lâm Am lại cho Thiết Nhãn Đạo Quang (鐵眼道光), xây dựng Pháp Tàng Viện (法藏院) để tàng trữ các bản khắc gỗ của kinh tạng. Vào ngày 18 tháng 10 cùng năm này, ông thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi đời và 42 hạ lạp. Trước tác của ông có Đông Lâm Đại Mi Hòa Thượng Ngữ Lục (東林大眉和尚語錄) 1 quyển. Đệ tử nối dòng pháp của ông có Mai Lãnh Đạo Tuyết (梅嶺道雪).
(大石寺, Taiseki-ji): ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại Fujinomiya-shi (富士宮市), Shizuoka-ken (靜岡縣); hiệu núi là Đa Bảo Phú Sĩ Đại Nhật Liên Hoa Sơn (多寶富士大日蓮華山), gọi tắt là Đại Nhật Liên Hoa Sơn (大日蓮華山). Đây là ngôi chùa do Nhật Hưng (日興, Nikkō), một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Liên, sáng lập. Sau này, khi thầy qua đời được 7 năm, vào năm 1289, Bạch Liên A Xà Lê Nhật Hưng (白蓮阿闍梨日興) được vị Hương Chủ của vùng Thượng Dã (上野, Ueno) là Nam Điều Thời Quang (南條時光, Nanjō Tokimitsu) cung thỉnh đến để xây dựng Trì Phật Đường (持佛堂) ở vùng đất này; và nguyên lai nơi đây có tên là Đại Thạch (大石, Ōishi), nên tên chùa cũng được đặt theo địa danh. Có nhiều thuyết khác nhau về lý do vì sao Nhật Hưng tách ly vùng Thân Diên (身延, Minobu), trong đó có thuyết cho rằng vì ông bất hòa với người thí chủ Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長). Sau khi sống nơi đây được vài năm, Nhật Hưng khai sáng tiếp Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji) ở vùng Trọng Tu (重須, Omosu), và sống mãi nơi đây cho đến khi qua đời ở độ tuổi 88. Hiện ở Trọng Tu có ngôi mộ của ông. Chính tại ngôi Đại Thạch Tự này, ông đã thực hiện trọn vẹn di huấn của ân sư trong việc thành lập Bổn Môn Giới Đàn (本門戒壇) vốn chỉ truyền thọ cho từng người một mà thôi. Nơi ngôi già lam này, ông đã từng quy y cho phu nhân của Đức Xuyên Gia Tuyên (德川家宣, Tokugawa Ienobu) là Thiên Anh Viện (天英院). Chính bà đã tập trung công sức xây dựng già lam, tạo thành cảnh sắc rất tráng lệ, tuyệt mỹ. Vào năm 1912, Phái Phú Sĩ ngày xưa được đổi tên thành Nhật Liên Chánh Tông. Quần thể kiến trúc chính của chùa hiện có Nhị Thiên Môn, hai lầu chuông trống, Ngự Đường, Ngũ Trùng Tháp, v.v. Tuy nhiên, sau thời chiến tranh thì nơi đây trở thành ngôi chùa trung tâm của Sáng Giá Học Hội (創価學會, Sōkagakkai), rất nhiều đoàn thể thường xuyên đến tham bái. Từ năm 1955 trở đi, nơi phía tây Ngự Ảnh Đường có dựng lên Phụng An Đường (奉安堂) để an trí bức đồ hình Mạn Trà La do thủ bút của Nhật Liên vẽ nên; phía trước đó có Đại Khách Điện, Đại Hóa Thành 3 tầng, Đại Giảng Đường, v.v., toàn là những kiến trúc mang tính hiện đại tân thời. chùa hiện còn lưu trữ nhiều bảo vật như Tiêu Tức Văn của Nhật Liên.
(大慈悲): tức đại từ, đại bi, nghĩa là tâm từ bi rộng lớn. Như trong Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh (佛說觀無量壽佛經, Taishō Vol. 12, No. 365) có dạy rằng: “Chư Phật tâm giả đại từ bi thị, dĩ vô duyên từ nhiếp chư chúng sanh (諸佛心者大慈悲是、以無緣慈攝諸眾生, tâm của chư Phật là từ bi rộng lớn, lấy lòng từ vô duyên mà nhiếp hóa các chúng sanh).” Hay trong Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (慈悲道塲懺法, Taishō Vol. 45, No. 1909) quyển 8, phần Phụng Vị Sư Trưởng Lễ Phật (奉爲師長禮佛) thứ 5, có đoạn: “Phụng vị Hòa Thượng A Xà Lê đồng đàn tôn chứng thượng trung hạ tọa các cập quyến thuộc, quy y thế gian đại từ bi phụ (奉爲和上阿闍梨同壇尊證上中下座各及眷屬、歸依世間大慈悲父, kính vì Hòa Thượng, A Xà Lê, chư vị tôn chứng thượng trung hạ tọa cùng giới đàn cùng các quyến thuộc, quy y đấng cha lành đại từ bi của thế gian).” Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 4, Phẩm Pháp Sư (法師品) thứ 10, cho biết rằng: “Nhất thiết chúng sanh trung đại từ bi tâm thị Như Lai y giả, nhu hòa nhẫn nhục tâm thị Như Lai tòa giả (一切眾生中大慈悲心是如來衣者、柔和忍辱心是如來座者, trong tất cả chúng sanh, tâm đại từ bi là y của Như Lai, tâm nhu hòa nhẫn nhục là tòa ngồi của Như Lai).”
(道宣, Dōsen, 596-667): vị tăng Luật Tông dưới thời nhà Đường, còn được gọi là Nam Sơn Luật Sư (南山律師), Nam Sơn Đại Sư (南山大師), tổ sáng lập ra Nam Sơn Luật Tông, người Ngô Hưng (呉興), Triết Giang (浙江), có thuyết cho là vùng Đơn Đồ (丹徒), Nhuận Châu (潤州), Giang Tô (江蘇), họ Tiền (錢), tự là Pháp Biến (法遍). Năm 16 tuổi, ông xuất gia, theo Huệ Quân (慧頵) ở Nhật Nghiêm Tự (日嚴寺) và Trí Thủ (智首) ở Đại Thiền Tự (大禪寺) học Luật; sau ông đến trú tại Phỏng Chưởng Cốc (倣掌谷, phía Nam Trường An), tạo dựng Bạch Tuyền Tự (白泉寺) và chuyên tâm nghiên cứu, hoằng truyền Tứ Phần Luật, cho nên tôn phái của ông được gọi là Nam Sơn Luật Tông. Ông đã từng đi khắp nơi thuyết giảng Luật học và cùng tham gia phiên dịch với Huyền Trang (玄奘). Ông đã từng sống qua vài nơi như Sùng Nghĩa Tự (崇義寺), Phong Đức Tự (豐德寺) và Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺). Vào năm thứ 3 (658) niên hiệu Hiển Khánh (顯慶), ông vâng sắc chỉ đến trú trì Tây Minh Tự (西明寺) ở Trường An. Không bao lâu sau, ông soạn ra Thích Môn Chương Phục Nghi (釋門章服儀), Thích Môn Quy Kính Nghi (釋門歸敬儀), v.v. Vào năm thứ 2 (662) niên hiệu Long Sóc (龍朔), vua Cao Tông ra sắc lệnh các tăng ni phải lễ bái nhà vua, ông cùng với Huyền Trang dâng thư kháng tranh, nên việc này được đình chỉ. Đến tháng 2 năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), ông sáng lập giới đàn tại Tịnh Nghiệp Tự, các nơi đến cầu giới hơn 20 người. Cũng vào tháng 10 năm này ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 52 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu Trừng Chiếu (澄照). Trước tác của ông có Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao (四分律刪繁補闕行事鈔) 12 quyển, Yết Ma Sớ (羯磨疏) 3 quyển, Giới Bổn Sớ (戒本疏) 6 quyển, Thập Tỳ Ni Nghĩa Sao (拾毘尼義鈔) 6 quyển, Tỳ Kheo Ni Nghĩa Sao (比丘尼義鈔) 6 quyển, được gọi là 5 bộ trọng yếu của Luật học. Trong đó, Hành Sự Sao là bộ sách không thể thiếu khi nghiên cứu về Tứ Phần Luật. Ngoài ra ông còn soạn ra bộ Đại Đường Nội Điển Lục (大唐內典錄) 10 quyển, là sách mục lục chỉnh lý toàn bộ kinh điển đang hiện hành. Ngoài ra, ông còn biên tập Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành (古今佛道論行) 4 quyển, Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) 30 quyển, v.v., để tuyên dương Phật Giáo. Hơn nữa, ông còn trước tác Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) 10 quyển, Thích Thị Lược Phổ (釋氏略譜), Thích Ca Phương Chí (釋迦方志), Tam Bảo Cảm Thông Lục (三寳感通錄), v.v.
(獨湛性瑩, Dokutan Shōkei, 1628-1706): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, tự là Độc Trạm (獨湛), xuất thân Huyện Bồ Điền (莆田), Phủ Hưng Hóa (興化府, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Trần (陳). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Y Châu (衣珠) ở Tích Vân Tự (積雲寺), Ngộ Sơn (悟山). Sau đó, vào năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông đến tham học với Hoàn Tín Hành Di (亘信行彌) ở Thừa Thiên Tự (承天寺), rồi năm sau thì đến tham vấn Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山). Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông theo Ẩn Nguyên sang Nhật. Vào năm thứ 3 (1663) niên hiệu Khoan Văn (寛文), khi Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn, Vũ Trị (宇治, Uji) khánh thành, ông được cử làm chức quản lý Tây Đường. Đến tháng 5 năm sau, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Sau đó, thể theo lời cung thỉnh của Cận Đằng Trinh Dụng (近藤貞用) ở Kỳ Bổn (旗本), ông đến vùng Kim Chỉ (金指), Viễn Giang (遠江, Tōtōmi, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]). Vào tháng 11 năm sau, cũng tại địa phương này ông sáng lập Sơ Sơn Bảo Lâm Tự (初山寶林寺). Sống nơi đây được 18 năm, vào năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông kiến lập Quốc Thoại Tự (國瑞寺) ở Phụng Dương Sơn (鳳陽山), Tân Điền (新田), Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]). Đến tháng giêng năm thứ 2 (1682) niên hiệu Thiên Hòa (天和), ông làm trú trì đời thứ 4 của Vạn Phước Tự. Vào tháng 3 năm thứ 2 (1685) niên hiệu Trinh Hưởng (貞享) và tháng 9 năm thứ 3 (1689) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), ông mở Giới Đàn. Đến tháng giêng năm thứ 5 (1691) cùng niên hiệu trên, ông lui về ẩn cư tại Sư Tử Lâm (獅子林). Tuy nhiên, vào năm thứ 8 (1694) cùng niên hiệu trên, ông chuyển đến Bảo Lâm Tự, rồi đến năm thứ 10 thì thiết lập Giới Đàn Bồ Tát và trở về lại Sư Tử Lâm. Vào ngày 26 tháng giêng năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), ông thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ông là vị Thiền tăng có hành trì pháp môn Niệm Phật, cho nên được gọi là Niệm Phật Độc Trạm (念佛獨湛). Trước tác của ông để lại có Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (初山獨湛禪師語錄) 1 quyển, Sơ Sơn Lệ Hiền Lục (初山勵賢錄) 1 quyển, Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Hành Do (初山獨湛禪師行由) 1 quyển, Vĩnh Tư Tổ Đức Lục (永思祖德錄) 2 quyển, Ngô Sơn Cựu Cảo (梧山舊稿) 4 quyển, Khai Đường Pháp Ngữ (開堂法語) 1 quyển, Thí Thực Yếu Quyết (施食要訣) 1 quyển, Đương Ma Hóa Phật Chức Tạo Ngẫu Ty Tây Phương Cảnh Đồ Thuyết (當麻化佛織造藕絲西方境圖說) 1 quyển, Thọ Thủ Đường Tịnh Độ Thi (授手堂淨土詩) 1 quyển, Khuyến Tu Tác Phước Niệm Phật Đồ (勸修作福念佛圖), Xưng Tán Tịnh Độ Vịnh (稱讚淨土詠) 1 quyển, Độc Trạm Hòa Thượng Hành Lược (獨湛和尚行略) 1 quyển, Phù Tang Ký Quy Vãng Sanh Truyện (扶桑寄歸徃生傳) 2 quyển, Độc Trạm An Tâm Pháp Ngữ (獨湛安心法語) 1 quyển, Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (獨湛禪師語錄) 9 quyển, v.v. Môn nhân kế thừa dòng pháp của ông có 39 người như Viên Thông Thành Đạo (圓通成道), Duyệt Phong Đạo Chương (悅峰道章)—vị trú trì đời thứ 8 của Vạn Phước Tự, v.v.
(東大寺, Tōdai-ji): ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, hiện tọa lạc tại Zasshi-chō (雜司町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣). Chùa còn có các tên gọi khác như Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Chi Tự (金光明四天王護國之寺), Đại Hoa Nghiêm Tự (大華嚴寺), Thành Đại Tự (城大寺), Tổng Quốc Phận Tự (總國分寺), là một trong bảy ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Hiệu chùa có nghĩa là ngôi chùa lớn nằm ở phía đông kinh đô Bình Thành (平城). Tên chùa được tìm thấy lần đầu tiên trong phần Đông Đại Tự Tả Kinh Sở Giải Án (東大寺冩經所解案) ghi tháng 11 năm thứ 9 (747) niên hiệu Thiên Bình (天平) thứ 9 của Chánh Thương Viện Văn Thư (正倉院文書) và đôi khi trong văn thư này chùa được gọi là Đông Tự (東寺). Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本書紀), nhân ghé tham bái Tri Thức Tự (知識寺) ở tiểu quốc Hà Nội (河內, Kawauchi) vào tháng 2 năm thứ 12 (748) cùng niên hiệu trên, Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) thấy tượng Lô Xá Na Phật (盧舍那佛) tướng hảo trang nghiêm, bèn thốt lên rằng: “Trẫm cũng tạo tượng này để tôn thờ”; cho nên nhà vua phát nguyện tạc tượng Phật. Vào ngày rằm tháng 10 năm thứ 15 cùng niên hiệu trên, dựa trên cơ sở giáo lý của Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經), chiếu chỉ tạo lập tượng Đại Phật Lô Xá Na được ban bố. Chiếu chỉ này thể hiện đế quyền vĩ đại trên cơ sở của Chế Độ Luật Lịnh, kêu gọi sự viện trợ của đại chúng quốc dân. Chánh điện chùa thờ đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana Buddha), rất nổi tiếng với danh hiệu là Đại Phật Nại Lương. Vào năm 751 (năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), Đại Hùng Bảo Điện được hoàn thành, năm sau thì tiến hành lễ Khai Nhãn Cúng Dường tượng Đại Phật, rồi đến năm 754 vị Đường tăng của Trung Hoa là Giám Chơn (鑑眞, Ganjin) đã thiết lập Giới Đàn Viện tại chùa và đây được xem như là một trong ba giới đàn lớn nhất của Nhật Bản. Đến thế kỷ thứ 9, chùa có cả trang viên và Tăng binh rộng lớn, cho nên uy thế của chùa rất nổi bật. Kể từ khi thành lập cho đến nay, chùa hiện còn một số kiến trúc đường xá như Pháp Hoa Đường (法華堂), Chuyển Hại Môn (轉害門), Kinh Khố (經庫) và Chánh Thương Viện (正倉院), v.v. Chùa hiện tàng trữ các tượng Phật được làm vào thời đại Thiên Bình, và cổng Nam Đại Môn Nhân Vương thuộc thời đại Liêm Thương là do sự hợp tác của Vận Khánh (運慶) và Khoái Khánh (快慶). Chánh điện Đại Phật hiện tồn được trùng tu vào giữa thời Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1868), là kiến trúc làm bằng gỗ lớn nhất thế giới.
(唐招提寺, Tōshōdai-ji): ngôi Tổng Bản Sơn trung tâm của Luật Tông Nhật Bản, tọa lạc tại Gojō-chō (五條町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣), một trong 7 ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Tượng thờ chính của chùa là tượng ngồi Lô Xá Na Phật (盧舍那佛, thời đại Nại Lương) cao 6 trượng. Là ngôi tự viện có liên quan mật thiết với vị Đường tăng Giám Chơn (鑑眞, Ganjin), về sự tình xây dựng chùa được miêu tả rất rõ trong Đường Đại Hòa Thượng Đông Chinh Truyện (唐大和上東征傳) do Đạm Hải Tam Thuyền (淡海三船, Oumi-no-Mifune) soạn thuật vào năm 779. Vượt qua biết bao gian khổ để đến được triều đình Nhật, vào năm 754 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] 6), Giám Chơn đã thiết lập Giới Đàn trước tượng Đại Phật của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) để truyền thọ giới pháp cho Thiên Hoàng, Hoàng Hậu và hơn 440 người trong cung nội. Từ đó về sau, ông xác lập chế độ thọ giới. Sau đó, ông nhường lại Đường Thiền Viện (唐禪院) ở Đông Đại Tự cho đệ tử Pháp Tấn (法進, Hōshin), rồi xây dựng một ngôi Biệt Viện mới tại khu đất nhà ở cũ của cố Thân Vương Tân Điền Bộ (新田部, Nitabe)—khu đất do triều đình ban tặng vào năm 759 (Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] 3), và chuyển đến trú ở đây với tên do ông đặt là Đường Chiêu Đề Tự. Đây chính là duyên khởi của chùa này. Về quy mô của ngôi già lam, người tạo lập, v.v., có ghi rõ trong Chiêu Đề Tự Kiến Lập Duyên Khởi (招提寺建立緣起, năm 835). Quần thể đại quy mô của ngôi già lam này có Kim Đường (金堂) nối liền với Hành Lang chạy vòng quanh, Giảng Đường (講堂), Lầu Kinh (經樓), Lầu Chuông (金樓), Tăng Phòng (僧房), v.v., là những kiến trúc được dời từ Đông Triều Tập Điện của Bình Thành Kinh (平城京). Sau khi kinh đô được dời về Trường Cương (長岡), chùa vẫn tiếp tục xây dựng thêm. Dưới thời Bình An, do vì kinh đô dời đi nơi khác nên chùa phải chịu số phận suy vong cùng với những ngôi chùa khác của vùng Nam Đô. Trong phần Thật Phạm Luật Sư Truyện (實範律師傳) của bản Chiêu Đề Thiên Tuế Truyện Ký (招提寺千歳傳記) được hình thành vào năm 1701 (Nguyên Lộc [元祿] 14), có ghi lại lần hoang phế của chùa dưới thời đại này. Đến thời đại Liêm Thương, chùa bắt đầu tái hưng nhờ những hoạt động phục hưng giáo học vùng Nam Đô của Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Duệ Tôn (叡尊, Eison), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō), v.v. Vào năm 1202 (Kiến Nhân [建仁] 2), Trinh Khánh bắt đầu tu sửa Đông Thất (東室), thiết lập Đạo Tràng Niệm Phật; đến năm 1240 (Nhân Trị [仁治] nguyên niên) thì xây dựng Lầu Kinh, v.v. Năm 1244 (Khoan Nguyên [寬元] 2), Giác Thạnh—người được kính ngưỡng như là vị sơ tổ thời Trung Hưng của chùa—đến làm trú trì. Ông tiến hành phục hưng về mặt giáo học; và vị tổ thứ 2 là Chứng Huyền (証玄, Shōgen) cũng tận lực góp phần làm cho chùa xương thạnh. Bức tượng Thích Ca theo dạng thức của Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji) được tôn trí tại Lễ Đường (禮堂, năm 1202), tranh vẽ Đông Chinh Truyện (東征傳), v.v., nói lên một cách chân thật thời kỳ phục hưng này. Lịch sử của chùa từ thời Nam Bắc Triều trở đi thì không rõ lắm, nhưng giống như các ngôi tự viện khác, chùa cũng bị suy tàn mãi cho đến thời Cận Đại. Đến năm 1596 (Trường Khánh [長慶] nguyên niên), do vì động đất, toàn bộ ngôi già lam bị hư nát. Sau đó, nhờ Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) quy y với Long Quang (隆光, Ryūkō)—vị trú trì Hộ Trì Viện (護持院) của chùa, Tướng Quân phát nguyện tu bổ lại toàn bộ già lam để hồi hướng công đức cho thân mẫu ông. Từ khi chùa thành lập chưa có trận hỏa tai nào xảy ra cho đến thời Cận Đại; nhưng vào năm 1802 (Hưởng Hòa [享和] nguyên niên), ngôi tháp được dựng vào năm 810 bị sét đánh làm cháy rụi. Thêm vào đó, vào năm 1833 (Thiên Bảo [天保] 4), Tây Thất (西室), Khai Sơn Đường (開山堂) và năm 1848 (năm đầu niên hiệu Gia Vĩnh [嘉永]) thì Giới Đàn Đường (戒壇堂) bị cháy thành tro bụi. Tuy nhiên, cũng may mắn thay, trung tâm già lam thì không bị ảnh hưởng hỏa tai lớn, các kiến trúc quý giá như Kim Đường, Giảng Đường, Kho Kinh, Kho Báu, v.v., vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay. Bảo vật của chùa hiện có một quần thể tượng điêu khắc giá trị gồm mấy mươi pho như tượng ngồi Lô Xá Na Phật, tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm (thời đại Nại Lương), tượng đứng Dược Sư Như Lai (đầu thời Bình An), tượng ngồi Giám Chơn Hòa Thượng (thời đại Nại Lương), v.v. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảo vật khác như bình đựng xá lợi do Giám Chơn đem sang, tranh vẽ, kinh điển, v.v. Về tên gọi Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺), Đường (唐) ở đây có nghĩa nói đến vị Đường Tăng Giám Chơn sang truyền Luật Tông vào Nhật. Còn Chiêu Đề (招提) là âm dịch của tiếng Pāli hay Sanskrit cātuddisa, nghĩa là tứ phương, bốn phương. Vậy ngôi Đường Chiêu Đề Tự là ngôi chùa của vị Đường Tăng Giám Chơn dành cho người của bốn phương đến tu tập. Có lẽ đây cũng là chân ý của Hòa Thượng Giám Chơn.
(唐大和上東征傳, Tōdaiwajōtōseiden): 1 quyển, truyền ký của vị Đường tăng Giám Chơn (鑑眞, Ganjin), gọi tắt là Đông Chinh Truyện (東征傳, Tōseiden), do Chân Nhân Nguyên Khai (眞人元開, 722-785, tục danh là Đạm Hải Tam Thuyền [淡海三船, Oumi-no-Mifune]) soạn, thành lập vào năm 779 (Bảo Quy [寳龜] 10). Đây là thư tịch lấy ngòi bút hoa lệ của vị văn nhân nổi tiếng đương thời là Đạm Thuyền Mẫn Lang để hòa giải những phản đối cũng như ngộ nhận của chư tăng đối với Giám Chơn sau khi Tư Thác (思託, Shitaku)—đệ tử của Giám Chơn—sang triều đình Nhật Bản. Đạm Thuyền Mẫn Lang đã dựa trên bản Đại Đường Truyền Giới Sư Tăng Danh Ký Đại Hòa Thượng Giám Chơn Truyện (大唐傳戒師僧名記大和上鑑眞傳, còn gọi là Quảng Truyện [廣傳], 3 quyển) để chỉnh lý thành 1 quyển. Nội dung của tác phẩm này thuật rõ ý của Vinh Duệ (榮叡) và Phổ Chiếu (普照)—hai vị tăng sang nhà Đường với mục đích cung thỉnh Giám Chơn sang làm Truyền Giới Sư cho Nhật Bản, thông qua quyết tâm của Giám Chơn vượt biển để sang truyền trao giới luật, trãi biết bao gian khổ qua 6 lần vượt biển trong vòng 12 năm, từ đó viết nên câu chuyện về tinh thần bất khuất, nhiệt tâm đối với vấn đề truyền pháp như thế nào qua hình ảnh Giám Chơn. Phần đầu thuật về xuất thân cũng như quá trình hành đạo của ông tại Trung Quốc; sau khi sang Nhật vào năm 754 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] 6), ông đã thiết lập Giới Đàn Viện tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), rồi sáng lập Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji), v.v., giây phút qua đời và tán dương về đức hạnh cao cả của ông. Cuối sách có phụ thêm 2 đoạn Hán thi có lời tựa của Nguyên Khai và một số bài thơ khác truy niệm về Giám Chơn. Vào năm 1298 (Vĩnh Nhân [永仁] 6), trên cơ sở của tác phẩm này, Truyện Tranh Đông Chinh (東征繪傳, 5 quyển) được vẽ ra và tranh vẽ do ngòi bút của Lục Lang Binh Vệ Nhập Đạo Vận Hành (六郎兵衛入道運行).
(覺法, Kakubō, 1091-1153): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ đời thứ 4 của Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), Tổ của Dòng Nhân Hòa Ngự (仁和御流), húy là Giác Pháp (覺法), thông xưng là Cao Dã Ngự Thất (高野御室), Thắng Liên Hoa Tự Sư Tử Vương Cung (勝蓮華寺獅子王宮); tự là Chơn Hành (眞行), Hành Chơn (行眞); Hoàng Tử thứ 4 của Bạch Hà Thiên Hoàng (白河天皇, Shirakawa Tennō, tại vị 1072-1086). Năm 1104, ông theo xuất gia và thọ giới với anh mình là Giác Hạnh (覺行) ở Nhân Hòa Tự. Sau khi anh qua đời, ông theo học pháp với Khoan Trợ (寬助) ở Thành Tựu Viện (成就院); rồi đến năm 1109 thì thọ phép Quán Đảnh ở Quan Âm Viện (觀音院) và trở thành Nhất Thân A Xà Lê (一身阿闍梨). Năm sau, ông nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Phạm Tuấn (範俊); đến năm 1125, ông nhậm chức Kiểm Hiệu của Nhân Hòa Tự; năm 1130 thì làm Đại A Xà Lê cho lễ cúng dường của Pháp Kim Cang Viện (法金剛院), và năm 1137 thì làm Chứng Minh Đạo Sư cho buổi lễ khánh thành An Lạc Thọ Viện (安樂壽院). Đến năm 1139, ông biến Quan Âm Viện thành ngôi chùa phát nguyện của triều đình và được phép tiến hành Quán Đảnh Hội tại đây. Năm 1141, ông truyền trao giới pháp cho Điểu Vũ Thiên Hoàng (鳥羽天皇, Toba Tennō, tại vị 1107-1123) tại Giới Đàn Viện (戒壇院) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Năm 1144, ông tu Khổng Tước Kinh Pháp (孔雀經法) để cầu nguyện cho cận vệ của Thiên Hoàng được lành bệnh. Ông rất giỏi về sự tướng, và khai sáng Dòng Nhân Hòa Ngự. Đệ tử phú pháp của ông có Giác Thành (覺成), Giác Tánh (覺性), Kiêm Trợ (兼助), Thánh Huệ (聖惠), v.v.
(鑑眞, Ganjin, 688-763): vị học tăng nhà Đường, tổ sư khai sáng Luật Tông Nhật Bản, người Huyện Giang Dương (江陽縣), Dương Châu (楊州). Ông chuyên học tập về giới luật và Thiên Thai giáo học. Nhận lời thỉnh cầu của các vị học tăng Nhật Bản sang cầu pháp tại Trung Hoa lúc bấy giờ như Vinh Duệ (榮叡), Phổ Chiếu (普照), ông đã mấy lần lên thuyền sang Nhật, nhưng không thành công; mãi cho đến lần thứ 6 vào năm 753 (năm thứ 5 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳]), ông mới đến được Nhật Bản. Lần đầu tiên ông lập giới đàn tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), và truyền thọ giới pháp cho Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō), v.v. Sau đó, ông kiến lập Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) làm đạo tràng tu tập giới luật và được ban cho hiệu là Đại Hòa Thượng (大和尚). Ngoài ra ông còn có các hiệu khác như Quá Hải Đại Sư (過海大師), Đường Đại Hòa Thượng (唐大和尚).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập