Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy lắng nghe trước khi nói. Hãy suy ngẫm trước khi viết. Hãy kiếm tiền trước khi tiêu pha. Hãy dành dụm trước khi nghỉ hưu. Hãy khảo sát trước khi đầu tư. Hãy chờ đợi trước khi phê phán. Hãy tha thứ trước khi cầu nguyện. Hãy cố gắng trước khi bỏ cuộc. Và hãy cho đi trước khi từ giã cuộc đời này. (Before you speak, listen. Before you write, think. Before you spend, earn. Before you retire, save. Before you invest, investigate. Before you critisize, wait. Before you pray, forgive. Before you quit, try. Before you die, give. )Sưu tầm
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Dương Minh Học »»
(藤原惺窩, Fujiwara Seika, 1561-1619): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Túc (, Shuku); tự Liễm Phu (, Rempu); biệt hiệu là Sài Lập Tử (柴立子), Bắc Nhục Sơn Nhân (北肉山人), Quảng Bàn Oa (廣胖窩); thân phụ là Lãnh Tuyền Vi Thuần (冷泉爲純, Reizei Tamezumi); sinh ra tại Quận Tam Mộc (三木郡, Miki-gun), tiểu quốc Bá Ma (播磨, Harima, nay thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), trong một gia đình danh vọng của dòng họ Lãnh Tuyền (冷泉, Reizei). Sau khi phụ thân và anh bị tử trận trong chiến loạn, ông lên kinh đô, xuất gia ở Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji), học về Nho và Phật. Vào năm 1590 (Thiên Chánh [天正] 18), sau cuộc hội đàm với sứ thần nước Triều Tiên, ông có khuynh hướng nghiêng về phía Nho học hơn. Đến năm 1596 (Khánh Trường [慶長] nguyên niên), ông quyết chí sang nhà Minh cầu học, nhưng không thành. Sau đó, trong khoảng thời gian 1598-1600, ông giao lưu với Khương Hãng (姜沆), Nho gia của Triều Tiên đang bị giam lỏng tại Nhật Bản với tư cách là tù binh và có ảnh hưởng rất lớn tư tưởng của vị này. Trong khoảng thời gian này, ông được sự bảo trợ của Xích Tùng Quảng Thông (赤松廣通, Akamatsu Hiromichi), Thành chủ của Long Dã Thành (龍野城, Tsuno-jō) ở Bá Ma; nhưng do vì Quảng Thông bị chết trong chiến trận Sekigahara (關ヶ原), ông lui về ẩn cư ở Lạc Bắc (洛北), kinh đô Kyoto. Lấy Chu Tử Học làm chủ yếu, ông dung hòa Dương Minh Học và Phật Giáo, chủ trương “giống nhau trong cái khác biệt”. Ông đưa ra học thuyết luân lý mang tính lý luận gọi là “tu thân trị thế”; và trở thành Tổ của Nho học thời Cận Đại. Đệ tử của ông có Khuất Hạnh Am (堀杏庵), Lâm La Sơn (林羅山), Na Ba Hoạt Sở (那波活所), Tùng Vĩnh Xích Ngũ (松永尺五), v.v.
(熊澤蕃山, Kumazawa Banzan, 1619-1691): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Bá Kế (伯繼); tự Liễu Giới (了介); hiệu Tức Du Hiên (息游軒); thông xưng là Thứ Lang Bát (次郎八); xuất thân kinh đô Kyoto; tên gọi Phiên Sơn (蕃山) vốn phát xuất từ Thôn Phiên Sơn (蕃山村), Bị Tiền (僃前, Bizen), nơi ông lui về ẩn cư. Năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), ông phục vụ cho Trì Điền Quang Trí (池田光致), Phiên chủ của Phiên Cương Sơn (岡山藩, Okayama-han), nhưng vì tu học chưa thuần thục, nên lấy lý do đó mà từ chức, rồi theo học với Trung Giang Đằng Thọ (中江藤樹, Nakae Tōju). Vào năm 1645 (Chánh Bảo [正保] 2), ông trở lại phục vụ cho Quang Trí và đã cống hiến những đối sách cứu nạn đói vào năm Minh Lịch (明曆) cũng như trị sơn, trị thủy, v.v. Sau đó, vào năm 1657 (Minh Lịch 3), ông lui về ẩn cư, chuyên tâm giảng dạy và trước tác ở kinh đô và các nơi khác; nhưng đến năm 1687 (Trinh Hưởng [貞享] 4), ông bị chính quyền Mạc Phủ kiêng kỵ vì phê phán chính trị, rồi bị cấm cố ở vùng Cổ Hà (古河, Koga), Hạ Tổng (下總, Shimōsa) và cuối cùng qua đời tại đây. Ông vốn là môn hạ của Đằng Thọ, nhưng Chu Tử Học hay Dương Minh Học, ông chẳng thuộc học phái nào cả; mà chủ trương thuyết gọi là Tâm Học (心學), cho rằng tâm là căn nguyên của vạn vật, đồng nhất với Thái Hư, và cần phải thể đắc đạo lý vốn có trong tâm này. Trước tác của ông có Tập Nghĩa Hòa Thư (集義和書), Tập Nghĩa Ngoại Thư (集義外書), Đại Học Hoặc Vấn (大學或問), Tam Luân Vật Ngữ (三輪物語), v.v.
(林羅山, Hayashi Razan, 1583-1657): Nho gia của phái Chu Tử Học, sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; Tổ của họ Lâm (林, Hayashi), Nho quan của chính quyền Mạc Phủ; tên là Tín Thắng (信勝); tăng hiệu là Đạo Xuân (道春); tự Tử Tín (子信); thông xưng là Hựu Tam Lang (又三郎); xuất thân kinh đô Kyoto. Ông từng xuất gia làm Tăng sĩ của Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji); nhưng đã sớm học Chu Tử Học và trở thành môn đồ của Đằng Nguyên Tinh Oa (藤原惺窩). Năm 1605 (Khánh Trường [慶長] 10), ông đến yết kiến Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), được vị này tín nhiệm và cho đảm trách về văn thư của Mạc Phủ. Sau đó, ông từng phục vụ cho Tú Trung (秀忠, Hidetada), Gia Quang (家光, Iemitsu), Gia Cương (家綱, Ietsuna), chuyên trách về văn thư ngoại giao cũng như thảo các văn kiện quan trọng, và cống hiến to lớn cho việc chỉnh bị chính quyền Mạc Phủ. Vào năm 1630 (Khoan Vĩnh [寛永] 7), ông mở trường Tư Thục ở Giang Hộ; và sau này trở thành trung tâm học vấn. La Sơn thông cả các điển tịch cổ kim của Nhật Bản cũng như Trung Quốc, là người bác học, kiến thức cao rộng, đã để lại những dấu ấn to lớn trong việc xuấn bản các thư tịch Hán văn và giảng thuật Kinh Thư. Về mặt tư tưởng, khác với Đằng Nguyên Tinh Oa, để làm sáng tỏ lập trường của Chu Tử Học, ông phân biệt với Dương Minh Học và tận lực bài xích Phật Giáo; chủ trương tư tưởng Thần Nho Nhất Trí Luận (神儒一致論). Trước tác của ông có Bản Triều Thông Giám (本朝通鑑) 310 quyển, Bản Triều Thần Xã Khảo (本朝神社考) 6 quyển, La Sơn Văn Tập (羅山文集) 150 quyển, v.v.
(岡山藩, Okayama-han): tên gọi một Phiên lãnh hữu toàn bộ tiểu quốc Bị Tiền (僃前, Bizen) và một phần của Bị Trung (僃中, Bicchū). Cơ sở hành chính của Phiên là Thành Cương Sơn (岡山城, Okayama-jō), phần lớn thời gian đều do dòng họ Trì Điền (池田, Ikeda) quản trị. Người từng phục vụ cho Phong Thần Ngũ Đại Lão (豐臣五大老) là dòng họ Vũ Hỷ Đa (宇喜田, Ukita). Tuy nhiên, vào năm 1600 (Khánh Trường [慶長] 5), trong trận chiến Sekigahara (關ヶ原), Vũ Hỷ Đa Tú Gia (宇喜田秀家, Ukita Hideie), chủ lực của quân phía Tây, lại bị thay đổi người; nên Tiểu Tảo Xuyên Tú Thu (早小川秀秋, Kobayakawa Hideaki) tiến vào, chiếm lãnh 51 vạn thạch ở Bị Tiền và Mỹ Tác (美作, Mimasaka). Thế nhưng, vào năm 1602 (Khánh Trường 7), Tú Thu và chẳng có con nối dõi; nên dòng họ Tiểu Tảo Xuyên (早小川, Kobayakawa) xem như bị tuyệt tự. Năm sau, 1603, người con thứ 2 của Trì Điền Huy Chính (池田輝政, Ikeda Terumasa) là Trì Điền Trung Kế (池田忠繼, Ikeda Tadatsugu) đến lãnh hữu vùng Cương Sơn (岡山, Okayama) với 28 vạn thạch, và tại đây dòng họ Trì Điền bắt đầu trị thế với tư cách là nhà Đại Danh thời kỳ Giang Hộ. Vào năm 1613 (Khánh Trường 18), Phiên nhận thêm khoảng 10 vạn thạch, trở thành 38 vạn thạch. Đến năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), Trung Kế qua đời và cũng chẳng có con nối nghiệp; nên người em Trì Điền Trung Hùng (池田忠雄, Ikeda Tadakatsu) lên thay thế với 31 vạn 5 ngàn thạch. Năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), Trung Hùng qua đời; thay vào đó, người anh em họ là Trì Điền Quang Chính (池田光政, Ikeda Mitsumasa) lên thay thế với 31 vạn 5 ngàn thạch. Từ đó trở về sau, gia hệ của Quang Chính thay nhau thống trị Phiên Cương Sơn. Quang Chính cùng với Đức Xuyên Quang Quốc (德川光圀, Tokugawa Mitsukuni), Phiên chủ Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han) và Bảo Khoa Chánh Chi (保科正之), phiên chủ Phiên Hội Tân (會津藩, Aizu-han), cả ba được gọi là Tam Danh Quân (三名君) vào đầu thời Giang Hộ. Quang Chính trọng dụng Hùng Trạch Phiên Sơn (熊澤蕃山, Kumazawa Banzan), nhà Dương Minh Học, vào năm 1669 (Khoan Văn [寛文] 9), ông tiên phong mở Cương Sơn Học Hiệu (岡山學校), trường Quốc Học đầu tiên. Năm sau, 1670, ông còn khai giảng Nhàn Cốc Học Hiệu (閑居學校, hiện tại Giảng Đuờng của trường được xếp hạng quốc bảo), trường học cho hàng thứ dân cổ nhất của Nhật Bản. Sau này, vào năm 1700 (Nguyên Lộc [元祿] 3), Trì Điền Cương Chính (池田綱政, Ikeda Tsunamasa), con của Quang Chính, đã dốc sức cho hoàn thành 3 đình viên nổi tiếng nhất của Nhật Bản, gồm: Giai Lạc Viên (偕樂園, Kairakuen, Mito-shi [水戸市]), Kiêm Lục Viên (兼六園, Kenrokuen, Kanazawa-shi [金澤市]) và Hậu Lạc Viên (後樂園, Kōrakuen, Tōkyō-to [東京都]). Lịch đại chư vị Phiên chủ của Phiên này có 12 đời, gồm: (1) Trì Điền Trung Kế (池田忠繼, Ikeda Tadatsugu); (2) Trì Điền Trung Hùng (池田忠雄, Ikeda Tadakatsu); (3) Trì Điền Quang Chính (池田光政, Ikeda Mitsumasa); (4) Trì Điền Cương Chính (池田綱政, Ikeda Tsunamasa); (5) Trì Điền Kế Chính (池田繼政, Ikeda Tsugumasa); (6) Trì Điền Tông Chính (池田宗政, Ikeda Munemasa); (7) Trì Điền Trị Chính (池田治政, Ikeda Harumasa); (8) Trì Điền Tề Chính (池田齊政, Ikeda Narimasa); (9) Trì Điền Tề Mẫn (池田齊敏, Ikeda Naritoshi); (10) Trì Điền Khánh Chính (池田慶政, Ikeda Yoshimasa); (11) Trì Điền Mậu Chính (池田茂政, Ikeda Mochimasa); và (12) Trì Điền Chương Chính (池田章政, Ikeda Akimasa). Các Phiên chi nhánh của Phiên Cương Sơn có Phiên Áp Phương (鴨方藩, Kamogata-han, 2 vạn 5 ngàn thạch) và Phiên Sanh Phản (生坂藩, Ikusaka-han, 1 vạn 5 ngàn thạch).
(中江藤樹, Nakae Tōju, 1608-1648): Nho gia sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ; tên là Nguyên (原, Hajime); tự Duy Mạng (惟命); thông xưng là Dữ Hữu Vệ Môn (與右衛門); biệt hiệu là Mặc Hiên (嘿軒), Cận Giang Thánh Nhân (近江聖人); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi). Ban đầu, ông làm việc Phiên Đại Châu (大洲藩, Ōzu-han) ở Y Do (伊予, Iyo); lúc còn thanh niên, bị một Thiền tăng làm xúc phạm, ông lấy bộ Tứ Thư Đại Toàn (四書大全) và bắt đầu học tập về Chu Tử Học. Năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), ông xin thôi việc với lý do hiếu đạo nuôi dưỡng mẹ đang lâm bệnh, nhưng không được cho phép; nên ông rời khỏi Phiên và trở về cố hương. Sau đó, ông viết cuốn Trì Kính Đồ Thuyết (持敬圖說), Nguyên Nhân (原人); có quan niệm nghi ngờ rất sâu về Chu Tử Học và bắt đầu có khuynh hướng tôn giáo tín ngưỡng Thần Thái Ất (太乙神). Năm 1640 (Khoan Vĩnh 17), ông có dịp tiếp xúc với các tác phẩm Tánh Lý Hội Thông (性理會通), Vương Long Khê Ngữ Lục (王龍溪語錄) thuộc hệ Dương Minh Học, nên thật sự giã từ Chu Tử Học. Ông Vấn Đáp (翁問答), trước tác của ông vào thời kỳ này, thuyết về tư tưởng hiếu đạo với văn chương trong sáng, là một trong những tác phẩm tiểu biểu nhất. Đến cuối đời, ông chuyên tâm viết bộ Dương Minh Toàn Tập (陽明全集) và chuyển hướng về Dương Minh Học; nên ông được xem như là Tổ của Dương Minh Học Nhật Bản. đệ tử của ông có Hùng Trạch Phiên Sơn (熊澤藩山), Uyên Cương Sơn (淵岡山), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập