Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đạo Kính »»
(藤原仲麻呂, Fujiwara-no-Nakamaro, 706-764): nhà quý tộc sống dưới thời đại Nại Lương, con của Võ Trí Ma Lữ (武智麻呂, Muchimaro). Ông được Quang Minh Hoàng Hậu (光明皇后) và Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) tín nhiệm, giao cho làm chức Tử Vi Nội Tướng (紫微內相), lật đỗ phe phản đối của nhóm Quất Nại Lương Ma Lữ (橘奈良麻呂) và chấp chưởng chính quyền. Khi Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 823-833) lên ngôi vua, ông được ban cho tên họ là Huệ Mỹ Áp Thắng (惠美押勝, Emi-no-Oshikatsu) và cuối cùng được thăng cử đến chức Thái Sư Chánh Nhất Vị (太師正一位, tức Thái Chính Đại Thần [太政大臣]). Đến khi vị tăng Đạo Kính (道鏡, Dōkyō) được Hiếu Khiêm Thiên Hoàng trong dụng, ông cử binh để dẹp trừ Đạo Kính, nhưng bị bại trận và bị giết ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi).
(孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758): vị nữ đế trị vì vào cuối thời kỳ Nại Lương, còn gọi là Cao Dã Thiên Hoàng (高野天皇), vị hoàng nữ thứ 2 của Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), mẹ là Hoàng Hậu Quang Minh (光明皇后), tên là A Bội (阿倍, Abe). Bà rất trọng dụng Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ (藤原仲麻呂) và Đạo Kính (道鏡, Dōkyō). Tuy đã có lần nhường ngôi cho Thuần Nhân Thiên Hoàng (淳仁天皇, Junnin Tennō, tại vị 758-764), nhưng sau đó bà lại lên ngôi lần thứ hai với hiệu là Xưng Đức Thiên Hoàng (稱德天皇, Shōtoku Tennō, tại vị 764-770).
(臨濟宗, Rinzai-shū): tông phái tôn Lâm Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄, Rinzai Gigen) làm tổ, một trong Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗) của Trung Quốc. Trải qua 11 đời từ vị sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨[摩]) cho đến Nghĩa Huyền, từ đó trải qua 7 đời truyền thừa và xuất hiện Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓). Môn hạ của Thạch Sương có Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) và Dương Kì Phương Hội (楊岐方會), từ đó phát sanh ra hai phái Hoàng Long (黃龍), Dương Kì (楊岐). Đối với Thiền Tông Trung Quốc, nếu thêm 2 phái này vào trong 5 tông phái Vân Môn (雲門), Pháp Nhãn (法眼), Tào Động (曹洞), Lâm Tế (臨濟), Quy Ngưỡng (溈仰) thì gọi là Ngũ Gia Thất Tông. Trừ Phái Hoàng Long của Minh Am Vinh Tây (明庵榮西) ra, Lâm Tế Tông đuợc truyền vào Nhật tất cả đều thuộc về hệ thống của Phái Dương Kì. Hàng cháu đời thứ 4 của Dương Kì Phương Hội có xuất hiện Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤); thế rồi từ môn hạ của Viên Ngộ có Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) và Hổ Kheo Thiệu Long (虎丘紹隆), từ đó ra đời hai phái Đại Huệ (大慧) và Hổ Kheo (虎丘). Hơn nữa, từ môn hạ của Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑)—pháp hệ của Hổ Kheo—phát sinh dòng phái môn lưu của Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), Phá Am Tổ Tiên (破庵祖先) và Tào Nguyên Đạo Sanh (曹源道生). Trước hết, người truyền thừa Thiền nhà Tống sang Nhật Bản đầu tiên là Duệ Sơn Giác A (叡山覺阿), vị tăng đã từng tham vấn Hạt Đường Huệ Viễn (瞎堂慧遠)—pháp từ của Viên Ngộ Khắc Cần. Tiếp theo đó là Minh Am Vinh Tây (明庵榮西), người đã sang nhà Tống lần thứ hai và kế thừa dòng pháp của Hư Am Hoài Sưởng (虛庵懷敞). Dòng pháp của Giác A bị dứt tuyệt; riêng Phái Hoàng Long (黃龍派) của Minh Am Vinh Tây vẫn kéo dài cho đến hiện tại thong qua hai chùa Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) và Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji). Người đồng thời đại với Vinh Tây là Đại Nhật Năng Nhẫn (大日能忍) thì trú tại Tam Bảo Tự (三寶寺, Sampō-ji), Nhiếp Tân (攝津, Settsu), nhân đọc các thư tịch Thiền mà độc ngộ, tự xưng là Đạt Ma Tông (達磨宗) và mở rộng giáo hóa khắp nơi, nhưng ông lại bị phê phán là “không thầy ngộ một mình”. Từ đó, ông giao phó cho đệ tử đem chỗ sở ngộ của ông sang nhà Tống trình lên cho Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光)—đệ tử của Đại Huệ Tông Cảo—để nhận ấn khả. Sau đó, môn lưu của ông được giáo đoàn của Vĩnh Bình Đạo Nguyên (永平道元, Eihei Dōgen) hấp thu rồi đi đến đoạn tuyệt. Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順), v.v., sang nhà Tống cầu pháp, trải qua 13 năm trường, rồi được ấn khả của Kính Tẩu Cư Giản (敬叟居簡)—đệ tử của Chuyết Am Đức Quang, đến trú trì Thắng Lâm Tự (勝林寺) vùng Thảo Hà (草河), nhưng môn lưu của ông chẳng phát triển được chút nào. Viên Nhĩ (圓爾)—người theo học môn lưu của Vinh Tây, sang nhà Tống cầu pháp và đến tham yết Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) thuộc Phái Phá Am—cũng trở về nước vào năm thứ 2 (1241) niên hiệu Nhân Trị (仁治), khai sáng Thừa Thiên Tự (承天寺, Shōten-ji) và Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji) ở vùng Bác Đa (博多, Hakata), rồi kiến lập Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) ở kinh đô Kyōto, được hàng công võ quy y theo và nỗ lực xây dựng cơ sở để phát triển một môn phái lớn. Đạo Hựu (道祐) ở Diệu Kiến Đường (妙見堂) vùng Lạc Bắc (洛北, Rakuhoku), Tánh Tài Pháp Thân (性才法身)—vị tổ khai sơn Viên Phước Tự (圓福寺) ở Tùng Đảo (松島, Matsushima), v.v., cũng là những người đồng môn của Viên Nhĩ. Kế đến, Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心)—vị tổ khai sơn Tây Phương Tự (西方寺, Saihō-ji) ở Do Lương (由良), Kỷ Y (紀伊, Kii)—cũng đã từng được Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇), Đạo Nguyên (道元), Thiên Hựu Tư Thuận (天祐思順) động viên và sang nhà Tống cầu đạo, thọ pháp với Vô Môn Huệ Khai (無門慧開)—người thuộc dòng phái của Đạo Giả Đạo Ninh (道者道寧), nhân vật huynh đệ với Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤), và trở về nước. Một loạt những người như vậy đều xuất thân từ hai tông Hiển Mật, đã truyền vào Nhật tôn giáo mới của nhà Tống để bổ sung thêm cho Phật Giáo cũ, nhưng lại mai danh ẩn tích ở các địa phương chứ không xuất hiện nơi chốn đô hội, và ý thức khai sáng giáo đoàn mới cũng rất mong manh. Tiếp theo, xuất hiện những vị tăng do vì tránh tình hình bất an dưới thời nhà Tống đã vượt biển sang Nhật Bản để tìm lẽ sống. Tỷ dụ như trường hợp của Lan Khê Đạo Long (蘭溪道隆) sang Nhật vào năm thứ 4 (1246) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元). Sau khi sống qua Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Bác Đa và Tuyền Dũng Tự (泉涌寺, Senyū-ji) ở kinh đô Kyōto, Lan Khê xuống vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Tướng Quân Bắc Điều Thời Lại (北條時頼, Hōjō Tokiyori) quy y theo và làm tổ khai sơn Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji). Đó là cuộc truyền thừa Thiền thuần túy, thoát xác khỏi các tông Hiển Mật. Thêm vào đó, thông qua môi giới của Viên Nhĩ, có đồng môn Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) sang Nhật, nhờ sự hộ trì của Thời Lại; nhờ vậy Thiền lâm Nhật Bản dần dần được chỉnh đốn, sản sinh ra nhiều môn đệ và các vị tăng Nhật Bản sang nhà Tống cầu pháp tăng thêm nhiều. Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明) và Cự Sơn Chí Nguyên (巨山志源)—những người truyền thừa dòng pháp của Phái Tùng Nguyên (松源派) cùng trở về nước, rồi Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念)—đồng hàng huynh đệ với Vô Tượng Tĩnh Chiếu (無象靜照) cũng thuộc Phái Tùng Nguyên—quy quốc, được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông (北條時宗, Hōjō Tokimune) và anh em Tông Chính (宗政) quy y theo. Hơn nữa, đáp lời thỉnh cầu của Thời Tông, Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇) cũng đáp thuyền sang Nhật; nhưng sau khi Lan Khê Đạo Long viên tịch, ông lại trở về nước. Sau đó, có Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元) và Kính Đường Giác Viên (鏡堂覺圓) sang Nhật. Được Tướng Quân Bắc Điều Thời Tông tín nhiệm và quy y theo, Vô Học trở thành tổ khai sơn của Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Giống như Vô Học và Kính Đường, có Tiều Cốc Duy Tiên (樵谷惟僊)—người thuộc Phái Tùng Nguyên—trở về nước và truyền trao dòng pháp mới. Trong khi đó, có vị tăng sang Nhật là Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱). Đến thời nhà Nguyên, có hai nhân vật làm sứ tiết hòa bình của hai triều Văn Vĩnh (文永), Hoằng An (弘安) và làm Thông Sự hướng dẫn cho Tây Giản Tử Đàm (西礀子曇), là Nhất Sơn Nhất Ninh (一山一寧) và Đông Lí Đức Hội (東里德會) của Phái Tào Nguyên (曹源派) cũng sang Nhật. Tiếp theo đó, có mấy người thuộc Phái Tào Nguyên lên thuyền sang Nhật như Thanh Chuyết Chánh Trừng (清拙正澄) theo lời thỉnh cầu của tướng quân Bắc Điều Cao Thời (北條高時, Hōjō Takatoki); Minh Cực Sở Tuấn (明極楚俊), Trúc Tiên Phạn Tiên (竺仙梵僊), v.v., theo lời mời của dòng họ Đại Hữu (大友) ở vùng Phong Hậu (豐後). Đồng môn với Trúc Tiên có Nguyệt Lâm Đạo Kiểu (月林道皎), Thạch Thất Thiện Cửu (石室善玖) thì sang nhà Tống cầu pháp và trở về nước. Trong hệ thống Thiền nhà Nguyên, tông phong của các vị tăng theo Thiền Niệm Phật rất thịnh hành; vì mến mộ tông phong của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) trên Thiên Mục Sơn (天目山), nên nhiều tăng sĩ Nhật Bản đã đến đây cầu pháp và trở về nước. Tỷ dụ như Viễn Khê Tổ Hùng (遠溪祖雄), Cổ Tiên Ấn Nguyên (古先印元), Phục Am Tông Kỷ (復庵宗己), Nghiệp Hải Bổn Tịnh (業海本淨), Minh Tẩu Tề Triết (明叟齊哲), Vô Ẩn Nguyên Hối (無隱元晦), Quan Tây Nghĩa Nam (關西義南), v.v. Bên cạnh đó, còn có mấy người kế thừa dòng pháp của Thiên Nham Nguyên Trường (千岩元長)—đệ tử của Trung Phong—như Đại Chuyết Tổ Năng (大拙祖能), Bích Nham Vi Xán (碧巖囗璨). Những người cùng dòng pháp của Vạn Phong Thời Úy (萬峰時蔚)—người đồng môn với Đại Chuyết và Bích Nham—có Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) thuộc Phái Hoàng Bá (黃檗派). Tông phong mang tính ẩn dật chính là đặc trưng dưới thời đại này. Giống như những người kế thừa Thiền Niệm Phật, môn hạ của Phái Phá Am (破庵派) có Vô Văn Nguyên Tuyển (無文元選)—nhân vật kế thừa dòng pháp của Cổ Mai Chánh Hữu (古梅正友), hay Tịch Thất Nguyên Quang (寂室元光)—pháp tôn của Lan Khê Đạo Long. Họ thọ nhận tông phong phái này, trở về nước và truyền bá khắp các địa phương. Về Phái Đại Huệ, Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月), Đông Truyền Chánh Tổ (東傳正祖), Vô Sơ Đức Thỉ (無初德始), v.v., truyền bá dòng pháp mới; riêng Ngu Trung Châu Cập (愚中周及) thì truyền thừa dòng pháp của Tức Hưu Khế Liễu (卽休契了) và hình thành nên một phái mới. Xưa nay, những người cầu pháp ở ngoại quốc có 24 dòng, 46 dòng hay 59 dòng; trong đó trừ 4 dòng của Tào Động Tông (曹洞宗, Sōtō-shū) ra, còn lại 55 dòng thuộc về Lâm Tế Tông. Trong số những nhà truyền pháp thuộc các dòng này, trừ những người bảo trì Thiền Niệm Phật mang tính ẩn dật ra, đại bộ phận các môn lưu đều được hàng công võ quy y theo, thường sống tại 5 ngôi danh sát lớn ở kinh đô Kyōto, Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và hình thành nên Phái Ngũ Sơn (五山派) với giáo đoàn phức hợp, đa dạng. Đó là hai chùa Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) cũng như Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji) của Vinh Tây; Tịnh Diệu Tự (淨妙寺, Jōmyō-ji) của Thối Canh Hành Dũng (退耕行勇); Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) của Viên Nhĩ; Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) của Lan Khê Đạo Long; Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) của Vô Học Tổ Nguyên; Tịnh Trí Tự (淨智寺, Jōchi-ji) của Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) và Nam Châu Hoằng Hải (南洲宏海); Vạn Thọ Tự (萬壽寺, Manju-ji) của Đông Sơn Trạm Chiếu (東山湛照); Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) của Vô Quan Huyền Ngộ (無關玄悟); Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji) và Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji) của Mộng Song Sơ Thạch (夢窻疎石), v.v. Ngoài Phái Ngũ Sơn chịu dưới sự quản chế của chính quyền Mạc Phủ, có xuất hiện Bạt Đội Đắc Thắng (拔隊得勝) và Từ Vân Diệu Ý (慈雲妙意)—pháp tôn của Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心), người đi về bố giáo ở các địa phương ngay từ ban đầu. Bạt Đội sáng lập Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji) ở vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai); còn Từ Vân thì khai sáng Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji) ở Việt Trung (越中, Ecchū) và hình thành nên một dòng phái riêng. Ngoài ra, Vô Văn Nguyên Tuyển kiến lập Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji) ở Áo Sơn (奥山, Okuyama), Viễn Giang (遠江). Tịch Thất Nguyên Quang là hàng pháp tôn của Lan Khê Đạo Long, không có mối quan hệ gì với Phái Ngũ Sơn, chuyên tâm giáo hóa ở các địa phương và xây dựng Vĩnh Quang Tự (永光寺, Eikō-ji) ở vùng Cận Giang (近江). Những Thiền tăng tại các địa phương có Ngu Trung Châu Cập thoát ly khỏi Phái Mộng Song của Ngũ Sơn; ông khai sáng Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji) ở An Nghệ (安芸), được sự ủng hộ đắc lực của dòng họ Tiểu Tảo Xuyên (小早川) và hình thành giáo đoàn nhỏ. Tại trưng ương kinh đô, trong số những người không chịu sự thống chế của chính quyền Mạc Phủ có Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超)—môn hạ của Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), vị tăng truyền dòng pháp của mình dưới thời đại Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn xuất hiện đệ tử của Tông Phong là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄). Tông Phong thì khai sáng Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji) ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino); Quan Sơn thì kiến lập Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji) ở Hoa Viên (花園, Hanazono) và trở thành sơ tổ của chùa này.Cả hai thầy trò đều được Hoa Viên Pháp Hoàng (花園法皇, Hanazono Hōkō) thâm tín quy y theo. Đối với Thiền lâm Ngũ Sơn, những ngôi chùa Hướng nhạc, Quốc Thái, Phương Quảng, Vĩnh Nguyên, Phật Thông, Đại Đức, Diệu Tâm được gọi là Lâm Hạ Thiền Lâm (林下禪林), vẫn duy trì tông phong từ ngàn xưa, khắc kỷ, đạm bạc mà không hề nhận sự ủng hộ của chính quyền Mạc Phủ. Chính nhân tài của Ngũ Sơn cũng lưu nhập vào hệ thống này, làm cho hưng thạnh; cuối cùng nhờ những nhà Đại Danh thời Chiến Quốc (戰國, Sengoku) quy y theo, hơn nữa những ngôi chùa con ở các địa phương thuộc Phái Ngũ Sơn đã quy hướng về Phái Diệu Tâm Tự (妙心寺派) của Quan Sơn. Cuộc biến động cải cách vào cuối thời nhà Minh và đầu nhà Thanh đã đưa đẩy Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦), Đạo Giả Siêu Nguyên (道者超元), v.v., sang Nhật, đem lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với Thiền lâm trong nước. Từ các phái nhỏ xuất hiện Cổ Nguyệt Thiền Tài (古月禪才), Tuyệt Đồng Bất Nhị (絕同不二), v.v., những nhân vật thuộc Phái Linh Vân (靈雲派) trong Diệu Tâm Tây Phái (妙心西派); cho nên các Tăng Đường ở địa phương được phục hưng và làm cho hồi phục quy cũ tu hành của tập đoàn. Thêm vào đó, từ Phái Thánh Trạch (聖澤派) trong Diệu Tâm Tây Phái lại xuất hiện Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴)—người kế thừa dòng pháp của Đạo Kính Huệ Đoan (道鏡慧端); nhờ vậy đã quét sạch những tệ hại lâu năm và vãn hồi được tông phong. Vào năm thứ 7 (1874) niên hiệu Minh Trị (明治, Meiji), qua bản cáo bố của Bộ Tuyên Giáo, hai tông Lâm Tế và Tào Động được độc lập. Đến năm thứ 9 cùng niên hiệu trên, từ Lâm Tế Tông, môn hạ của Ẩn Nguyên Long Kỷ cũng được độc lập với tên gọi là Hoàng Bá Tông (黃檗宗, Ōbaku-shū), trở thành thế chân vạc ba phái Thiền Tông. Trong những Bản Sơn (本山, Honzan, ngôi chùa tổ) các phái của Lâm Tế Tông có 14 phái với các chùa như Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji), Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji), Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji), Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji), Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji), Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Hướng Nhạc Tự (向嶽寺, Kōgaku-ji), Quốc Thái Tự (國泰寺, Kokutai-ji), Phương Quảng Tự (方廣寺, Hōkō-ji), Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji) và Phật Thông Tự (佛通寺, Buttsū-ji). Vị Quản Trưởng (管長, Kanchō) thống lãnh trong phái, đặt đạo tràng chuyên môn để đào tạo đàn hậu tấn.
(日霽, Nissei): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh; húy là Thông Nguyên (通源), Nhật Tễ (日霽), hiệu là Long Hoa Viện (龍華院); xuất thân vùng Liêm Thương (鎌倉). Năm lên 12 tuổi, ông theo xuất gia với Diệu Thật (妙實) ở Diệu Hiển Tự (妙顯寺) tại kinh đô Kyoto. Đến năm 30 tuổi, ông làm trú trì đời thứ 4 của chùa này. Ông rất tích cực trong việc giao tiếp với hàng công khanh để mở rộng thế lực của chùa mình; nhưng một mặt thì chúng đồ lại xa lánh ông, rồi mặt khác lại bị đồ chúng trên Tỷ Duệ Sơn phản bác; nên vào năm 1387, ông đã bỏ chùa này mà đi lánh nạn. Bảy năm sau, ông trở về kinh đô, được Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Mãn (足利義滿, Ashikaga Yoshimitsu) cúng đất cho xây chùa, nên ông đổi tên Diệu Hiển Tự thành Diệu Bổn Tự (妙本寺) và trùng tu lại chùa này. Trước tác của ông có Hiển Để Sao Kiến Văn (顯底抄見聞), Kỳ Đảo Kinh Áo Thư (祈禱經奥書).
(日像, Nichizō, 1269-1342): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tượng (日像), tên lúc nhỏ là Kinh Nhất Hoàn (經一丸); hiệu là Phì Hậu A Xà Lê (肥後阿闍梨), Nhật Tượng Bồ Tát (日像菩薩), Phì Hậu Phòng (肥後房), Long Hoa Thọ Viện (龍華樹院); xuất thân vùng Bình Hạ (平賀, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); con trai của Bình Hạ Trung Tình (平賀忠晴), em cùng mẹ khác cha của Nhật Lãng (日朗). Năm 1275, ông đầu sư với Nhật Lãng, rồi theo Nhật Liên tu hành, rồi khi Nhật Liên lâm chung thì ông được phó chúc truyền bá Kinh Pháp Hoa ở kinh đô Kyoto. Đến năm 1293, ông quyết tâm đến khai giáo ở kinh đô, và sau khi truyền đạo xong ở vùng Bắc Lục (北陸, Hokuriku) thì ông đến kinh đô. Nơi đây ông chuyên tâm truyền bá Kinh Pháp Hoa và được sự ủng hộ của tầng lớp thương nhân; nhưng bị phía các tông phái khác đả kích; nên ông đã 3 lần bị đuổi ra khỏi kinh đô. Vào năm 1326, ông được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) ban sắc chỉ hứa khả cho sáng lập Diệu Hiển Tự (妙顯寺) ở kinh đô. Ông có rất nhiều tín đồ thuộc tầng lớp võ gia chính quyền, nên đã xác lập được cơ sở vững chắc cho giáo đoàn Nhật Liên Tông ở vùng Tây Quốc (西國, Saigoku). Trước tác của ông có Pháp Hoa Tông Chỉ Vấn Đáp Sao (法華宗旨問答抄) 1 quyển, Bổn Tôn Tương Thừa (本尊相承) 1 quyển, Pháp Hoa Tông Hoằng Thông Sao (法華宗弘通抄) 1 quyển, Kỳ Đảo Kinh Chi Sự (祈禱經之事) 1 quyển, v.v.
(s: dharma-rāja, p: dhamma-rāja, 法王): có mấy nghĩa chính. (1) Là tôn xưng của đức Phật. Vương (王) có nghĩa là tối thắng, không ai bằng, tự tại, không ngăn ngại; đức Phật là chủ tể các pháp môn, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp vương. Như trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) giải thích rằng: “Phật vi pháp vương tôn siêu chúng Thánh, phổ vị nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王尊超眾聖、普爲一切天人之師, đức Phật là vua pháp, tôn kính hơn các bậc Thánh, là thầy của khắp tất cả trời người).” Hay trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方志, Taishō Vol. 51, No. 2088) quyển Thượng cho biết thêm rằng: “Phàm nhân cực vị danh viết Luân Vương, thánh nhân cực vị danh viết Pháp Vương (凡人極位名曰輪王、聖人極位名曰法王, ngôi vị cao tột của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao tột của bậc Thánh là Pháp Vương).” (2) Là tôn xưng của vị Bồ Tát. Căn cứ vào Kinh Hoa Nghiêm quyển 27 cho biết rằng vị Bồ Tát khi thọ chức, chư Phật lấy nước trí tuệ rưới lên đỉnh đầu để cho vị ấy đầy đủ Mười Lực của đức Phật, có thể chuyển hóa 10 con đường thiện, nên được gọi là Quán Đảnh Pháp Vương (灌頂法王). Theo Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 27, vì vị Bồ Tát có đủ 4 việc, nên được gọi là Pháp Vương. Bốn việc đó là không bỏ đạo tâm; khuyến hóa người khác phát ý; lấy gốc của các đức mà khuyên giúp đạo tâm; khiến cho hết thảy Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, các bậc Thanh Văn cũng như Duyên Giác, đạt đến nghiệp cùng tận không hoại. (3) Là tên gọi khác của vua Diêm Ma (閻魔) dưới cõi u minh. (4) Là phong hiệu vị thủ lãnh của Phật Giáo Tây Tạng. Bắt đầu từ năm 1270 (Chí Nguyên [至元] thứ 7) đời vua Thế Tổ Hốt Tất Liệt (世祖忽必烈, tại vị 1260-1271, 1271-1294) nhà Nguyên, nhà vua phong cho Bát Tư Ba (八思巴), thủ lãnh của Phái Tát Ca (薩迦派), là Đại Bảo Pháp Vương (大寶法王). Đến năm 1406 (Vĩnh Lạc [永樂] thứ 4), vua Thành Tổ (成祖, tại vị 1402-1424) nhà Minh cho mời Cáp Lập Ma (哈立麻), vị Lạt Ma thủ lãnh của Phái Ca Nhĩ Cư (迦爾居派) đến Bắc Kinh, rồi đến năm sau thì phong cho vị này là Vạn Hạnh Cụ Túc Thập Phương Tối Thắng Viên Giác Diệu Trí Tuệ Thiện Phổ Ứng Hựu Quốc Diễn Giáo Như Lai Đại Bảo Pháp Vương Tây Thiên Tự Tại Phật (萬行具足十方最勝圓覺妙智慧善普應佑國演敎如來大寶法王西天自在佛), gọi tắt là Đại Bảo Pháp Vương. Từ đó về sau, lại phân biệt phong cho các vị Lạt Ma thượng thủ của hai phái Tát Ca và Cách Lỗ (格魯) là Đại Thừa Pháp Vương (大乘法王), Đại Từ Pháp Vương (大慈法王). (5) Về phía Nhật Bản, dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794), có Thiếu Tăng Đô Đạo Kính (道鏡, Dōkyō, ?-772), tăng sĩ của Pháp Tướng Tông, thường ra vào cung nội, được Thiên Hoàng sủng ái, ban tặng cho hiệu là Đại Thần Thiền Sư (大臣禪師). Rồi đến năm 766 (Thiên Bình Thần Hộ [天平神護] thứ 2), ông được ban cho chức vị Pháp Vương. Ngoài ra, Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) cũng được tôn xưng là Thánh Đức Pháp Vương (聖德法王) hay Đại Pháp Vương Hoàng Thái Tử (大法王皇太子). Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có bài kệ Tán Phật (讚佛): “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ, ngã kim tạm quy y, năng diệt Tam Kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父、我今暫皈依、能滅三祇業、稱揚若讚歎、億劫莫能盡, đấng pháp vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại, con nay tạm quy y, dứt sạch nghiệp Ba Kỳ, xưng dương và tán thán, ức kiếp không cùng tận).”
(十善): hay Thập Thiện Nghiệp (s: daśakuśala-karmāni, 十善業), Thập Thiện Nghiệp Đạo (十善業道), Thập Thiện Đạo (十善道), Thập Thiện Căn Bản Nghiệp Đạo (十善根本業道), Thập Bạch Nghiệp Đạo (十白善道), tức là 10 việc làm tốt lành của thân, miệng và ý; gồm 3 nghiệp của thân là:
(1) Không Sát Sanh,
(2) Không Trộm Cắp,
(3) Không Tà Dâm; 4 nghiệp của miệng là
(1) Không Nói Dối,
(2) Không Nói Lời Thêu Dệt,
(3) Không Nói Lời Thô Ác,
(4) Không Nói Hai Lưỡi; và 3 nghiệp của ý là
(1) Không Tham Dục,
(2) Không Sân Nhuế,
(4) Không Tà Kiến.
Mười điều trên được gọi là Thập Thiện Giới (十善戒). Những pháp hành này nhằm đối trị với 10 điều bất thiện, hay 10 nghiệp ác là
(1) Sát Sanh,
(2) Trộm Cắp,
(3) Tà Dâm,
(4) Nói Dối,
(5) Nói Lời Thêu Dệt,
(6) Nói Lời Thô Ác,
(7) Nói Hai Lưỡi,
(8) Tham Dục,
(9) Sân Nhuế,
(10) Tà Kiến.
Trong Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh (十善業道經, Taishō No. 600, 1 quyển) do Thật Xoa Nan Đà (s: Śikṣānanda, 實叉難陀, 652-710) nhà Đường dịch, giải thích rất rõ và chi tiết về công đức hành trì từng nghiệp một của Thập Thiện; tỷ dụ như xa lìa việc sát sanh thì sẽ được thành tựu 10 pháp xa lìa phiền não: “Long Vương, nhược ly sát sanh, tức đắc thành tựu Thập Ly Não Pháp. Hà đẳng vi thập ? Nhất ư chư chúng sanh phổ thí vô úy, nhị thường ư chúng sanh khởi đại bi tâm, tam vĩnh đoạn nhất thiết sân nhuế tập khí, tứ thân thường vô bệnh, ngũ thọ mạng trường viễn, lục hằng vi phi nhân chi sở thủ hộ, thất thường vô ác mộng tẩm giac khoái lạc, bát diệt trừ oán kết tự giải, cửu vô ác đạo bố, thập mạng chung sanh thiên (龍王、若離殺生、卽得成就十離惱法、何等爲十、一於諸眾生普施無畏、二常於眾生起大慈心、三永斷一切瞋恚習氣、四身常無病、五壽命長遠、六恆爲非人之所守護、七常無惡夢寢覺快樂、八滅除怨結眾怨自解、九無惡道怖、十命終生天, Long Vương, nếu xa lìa sát sanh, tức đạt được Mười Pháp Lìa Phiền Não. Thế nào là mười ? Một là ban khắp sự không sợ hãi cho các chúng sanh; hai là thường khởi tâm từ bi lớn đối với chúng sanh; ba là mãi đoạn tất cả tập khí sân nhuế; bốn là thân thường không bệnh; năm là thọ mạng dài lâu; sáu là thường được hàng phi nhân bảo hộ; bảy là ngũ thường không có ác mộng, tỉnh thức khoái lạc; tám là diệt trừ mọi oan kết, các oan khiên tự giải mở; chín là không sợ hãi trong đường ác, mười là khi mạng hết được sanh lên Trời).” Hay như trong Phật Thuyết Tín Giải Trí Lực Kinh (佛說信解智力經, Taishō No. 802) có đoạn: “Hựu phục chúng sanh, dĩ thân khẩu ý hành Thập Thiện Nghiệp, bất báng hiền thánh, khởi ư Chánh Kiến, tác chư thiện nghiệp, hành chư thiện pháp, giai thị chánh nhân sở khởi, do thử Chánh Kiến nhân duyên cố, mạng chung chi hậu, sanh ư thiên giới (又復眾生、以身口意行十善業、不謗賢聖、起於正見、作諸善業、行諸善法、皆是正因所起、由此正見因緣故、命終之後、生於天界, lại có chúng sanh, lấy thân miệng ý hành Mười Nghiệp Thiện, không phỉ báng hiền thánh, khởi lên Chánh Kiến, làm các nghiệp thiện, hành các pháp thiện, đều là do khởi lên nhân đúng, do nhân duyên Chánh Kiến này, sau khi mạng hết, sanh lên cõi Trời).”
(慈訓, Jikun, 691-777): vị tăng của Pháp Tướng Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, húy Từ Huấn (慈訓), xuất thân vùng Hà Nội (河內, Kawachi, thuộc Ōsaka [大阪]). Ông theo học Pháp Tướng với Lương Mẫn (良敏, Ryōbin) ở Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), Hoa Nghiêm với Thẩm Tường (審祥, Shinjō) ở Đại An Tự (大安寺, Daian-ji) và trú tại Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Năm 740, lần đầu tiên thuyết giảng Hoa Nghiêm Kinh, ông làm giảng sư phụ, đến năm 742 mới chính thức làm giảng sư. Sau đó, ông làm giảng sư trong cung nội, thường khán bệnh cho Thánh Võ Thượng Hoàng (聖武上皇, Shōmu Jōkō), mở rộng thế lực ngang hàng với Đằng Nguyên Trọng Ma Lữ (藤原仲麻呂, Fujiwara-no-nakamaro). Vào năm 756, ông được thăng chức Thiếu Tăng Đô (少僧都) và làm Quản Chưởng Hưng Phước Tự. Năm 760, ông cùng với nhóm Lương Biện (良辨, Rōben) tâu trình lên nhà vua xin cải cách tăng giai và tận lực quản lý tăng ni. Vào năm 763, ông bị Đạo Kính (道鏡, Dōkyō) giải nhiệm, đến năm 770, khi vị này qua đời ông mới được phục chức. Ông thâu tập khá nhiều kinh luận và thỉnh thoảng có thỉnh kinh từ nơi chép kinh về. Trong Nguyên Hanh Thích Thư (元亨釋書, Genkōshakusho) có ghi lại ký sự lúc ông sang nhà Đường cầu pháp.
(稱德天皇, Shōtoku Tennō, tại vị 764-770): vị Thiên Hoàng sống vào khoảng cuối thời Nại Lương, người lên ngôi lần thứ hai (trước đó là Hiếu Khiêm Thượng Hoàng [孝謙上皇, Kōken Jōkō]). Vào năm 764 (niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] thứ 8), sau khi Thuần Nhân Thiên Hoàng (淳仁天皇, Junnin Tennō) bị phế vị, ông lên ngôi vua, bắt đầu trọng dụng Đạo Kính (道鏡, Dōkyō), ban cho vị này chức Pháp Vương và tiến hành chính trị chuyên chế.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập