Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đông Thiền Tự »»
(景德傳燈錄, Keitokudentōroku): bộ Đăng Sử tiêu biểu nhất do Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原) nhà Tống, tương đương đời thứ 3 của môn hạ Pháp Nhãn, biên tập thành thông qua kết hợp các bản Bảo Lâm Truyện (寳林傳), Tục Bảo Lâm Truyện (續寳林傳), Huyền Môn Thánh Trụ Tập (玄門聖冑集), Tổ Đường Tập (祖堂集), v.v., toàn bộ gồm 30 quyển. Có thuyết cho là do Củng Thần (拱辰) ở Thiết Quan Âm Viện (鐵觀音院), Hồ Châu (湖州) soạn. Nó được hoàn thành vào năm đầu (1004) niên hiệu Cảnh Đức (景德), sau khi được nhóm Dương Ức (楊億) hiệu đính thì được thâu lục vào Đại Tạng và san hành vào năm thứ 3 (1080) niên hiệu Nguyên Phong (元豐). Phần mạo đầu có lời tựa của Dương Ức và bản Tây Lai Niên Biểu (西來年表), từ quyển 1 cho đến 29 thâu lục các truyền ký cũng như cơ duyên của 52 đời, từ 7 vị Phật trong quá khứ, trải qua 28 vị tổ của Tây Thiên, 6 vị tổ của Đông Độ cho đến hàng đệ tử của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), gồm tất cả 1701 người (người đời thường căn cứ vào đây mà gọi là 1700 Công Án, nhưng trong đó thật ra có rất nhiều người chỉ có tên thôi, còn truyền ký và cơ duyên thì không có). Riêng quyển thứ 30 thì thâu lục các kệ tụng liên quan đến Thiền Tông, và phần cuối có kèm theo lời bạt. Ảnh hưởng của bộ này rất to lớn, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác lập giáo điều độc đáo của Thiền Tông. Bản được thâu lục vào trong Đại Chánh Đại Tạng Kinh (大正大藏經, Taishō) 51 là bản trùng san của niên hiệu Nguyên Hựu (元祐, 1314-1320) nhà Nguyên; trong đó có thêm lời tựa của Dương Ức, văn trạng trùng san, bảng Niên Biểu Tây Lai, lá thư của Dương Ức, lời bạt của Trịnh Ngang (鄭昂), lời tựa sau sách của Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) và Lưu Phỉ (劉棐). Tại Nhật bản, nó cũng được xem như là thư tịch căn bản nhất thể hiện lập trường của Thiền Tông. Từ cuối thời Thất Đinh (室町, Muromachi) trở đi, thỉnh thoảng nó được khai bản ấn hành, và dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo) có xuất hiện bộ Diên Bảo Truyền Đăng Lục (延寳傳燈錄) của Vạn Nguyên Sư Man (卍元師蠻) cũng do ảnh hưởng hình thái ấy. Tống bản hiện tồn có bản của Phúc Châu Đông Thiền Tự (福州東禪寺) được thâu lục vào Đại Tạng Kinh (hiện tàng trữ tại Đề Hồ Tự [醍醐寺, Daigo-ji], Đông Tự [東寺, Tō-ji] của Nhật), bản sở tàng của Kim Trạch Văn Khố (金澤文庫, Kanazawa-bunko, có khuyết bản), v.v. Thêm vào đó, một số bản san hành đang được lưu hành tại Nhật là bản năm thứ 4 (1348) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), Bản Ngũ Sơn năm thứ 3 (1358) niên hiệu Diên Văn (延文), bản năm thứ 17 (1640) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), v.v.
(東山寺): còn gọi là Ngũ Tổ Tự (五祖寺), Đông Sơn Thiền Tự (東山禪寺), Đông Thiền Tự (東禪寺); hiện tọa lạc tại Ngũ Tổ Trấn (五祖鎭), Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Tỉnh Hồ Bắc (湖北省); là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, một trong những ngôi danh lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường.
(懶庵鼎需, Ranan Teiju, 1092-1153): vị tăng của Phái Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Lãn Am (懶庵), xuất thân vùng Trường Lạc (長樂, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Lâm (林). Ban đầu ông rất nổi tiếng là Tiến Sĩ, đến năm 25 tuổi nhân đọc Kinh Di Giáo, ông phát tâm xuất gia. Sau hơn 10 năm trường đi khắp nơi tìm thầy học đạo, đến khoảng niên hiệu Thiệu Hưng (紹興, 1131-1162), ông đến tham yết Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) ở Dương Tự Am (洋嶼庵, Tỉnh Phúc Kiến) và được ấn khả. Về sau, ông sống nơi đây trong vòng 8 năm, đến cuối đời ông chuyển đến sống tại Đông Thiền Tự (東禪寺) và Tây Thiền Tự (西禪寺). Vào tháng 7 năm thứ 23 (1153) niên hiệu Thiệu Hưng, ông thị tịch, hưởng thọ 62 tuổi đời và 37 hạ lạp. Ông có để lại cho hậu thế cuốn Lãn Am Nhu Thiền Sư Ngữ Yếu (懶庵需禪師語要) 1 quyển.
(五祖寺): còn gọi là Đông Sơn Tự (東山寺), Đông Sơn Thiền Tự (東山禪寺), Đông Thiền Tự (東禪寺); hiện tọa lạc tại Ngũ Tổ Trấn (五祖鎭), Huyện Hoàng Mai (黃梅縣), Tỉnh Hồ Bắc (湖北省); là đạo tràng hoằng pháp của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, là một trong những ngôi danh lam quan trọng của Phật Giáo thuộc địa khu Hán tộc. Chùa được kiến lập vào năm 654 (Vĩnh Huy [永徽] 5) nhà Đường. Sau khi Hoằng Nhẫn khai sáng đạo tràng tại Đông Sơn (東山), gây chấn động toàn quốc, môn đồ thường trú đương thời có khi lên đến cả ngàn người. Từ khi Võ Tắc Thiên (武則天, tại vị 684-705) tức vị, phật giáo được xem trọng hơn. Vào năm 700 (Cửu Thị [久視] nguyên niên), bà cung thỉnh các đệ tử của Hoằng Nhẫn là Thần Tú (神秀), Huyền Ước (玄約), Huệ An (慧安), v.v., đến Nội Đạo Tràng (內道塲) để cúng dường, rồi ban tặng danh hiệu Quốc Sư; cho nên thanh danh của Ngũ Tổ Tự theo đó lại tăng thêm. Đến năm 848 (Đại Trung [大中] 2), kiến lập ngôi tự viện của Tổ Sư Ngũ Tổ, rồi đổi tên chùa thành Đại Trung Đông Sơn Tự (大中東山寺), cũng gọi là Ngũ Tổ Tự. Trong khoảng thời gian niên hiệu Cảnh Đức (景德, 1004-1007) nhà Bắc Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) nhà Tống lại ban cho tên là Chơn Tuệ Thiền Tự (眞慧禪寺). Vua Anh Tông (英宗, tại vị 1063-1067) nhà Tống thì ban cho bức ngạch với dòng chữ “Thiên Hạ Tổ Đình (天下祖庭).” Vào năm 1102 (Sùng Ninh [崇寧] nguyên niên), vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống, đề mấy chữ “Thiên Hạ Thiền Lâm (天下禪林)”. Trong khoảng thời gian này, các Pháp Sư như Sư Giới (師戒), Pháp Diễn (法演), Biểu Tự (表自), Tông Bạt (宗拔), v.v., đảm nhiệm chức Phương Trượng (Trú Trì) của chùa; đặc biệt dưới thời kỳ Pháp Diễn trú trì, ông đã xiển dương tông phong đến thời cực thịnh. Từ đó trở về sau, Phật Quả Khắc Cần (佛果克勤), Phật Giám Huệ Cần (佛鑑慧懃), Phật Nhãn Thanh Viễn (佛眼清遠), ba nhân vật được người đương thời tôn xưng là Tam Kiệt (三傑), đã tuyên dương Phật pháp và làm cho Thiền phong hưng thịnh. Đến cuối thời nhà Tống, Đông Sơn gặp nạn chiến hỏa, nhất thời chùa phải chịu cảnh tiêu điều. Vào năm 1282 (Chí Nguyên 19 [至元] nhà Nguyên), Thiền Sư Liễu Hành (了行) đến chùa, tiến hành trùng kiến tổ đình. Năm 1322 (Chí Trị [至治] 2), Thiền Sư Pháp Thức (法式) khôi phục lại mọi Phật sự ở đây và trở thành vị Tổ thời Trung Hưng của chùa. Năm 1331 (Chí Thuận [至順] 2), vua Văn Tông (文宗, tại vị 1328-1329) nhà Nguyên đổi tên chùa thành Đông Sơn Ngũ Tổ Tự (東山五祖寺) và chùa tồn tại cho đến ngày nay. Chính tại chùa này đã diễn ra truyền kỳ nổi tiếng của Thiền Tông về việc trình kệ kiến giải giữa Thần Tú và Huệ Năng (慧能). Sau đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã gọi Huệ Năng vào thất, giảng cho nghe Kinh Kim Cang, rồi truyền trao y bát. Lúc bấy giờ, Lục Tổ vâng mệnh đi về phương Nam; và từ đó Thiền Tông phân thành Nam Đốn Bắc Tiệm. Chùa vốn mang phong cách kiến trúc điển hình của Phật Giáo Hán truyền; chủ yếu nằm ở trục trung tâm, phân thành Sơn Môn (山門), Thiên Vương Điện (天王殿), Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿), Ma Thành Điện (麻城殿), Ngũ Tổ Chơn Thân Điện (五祖眞身殿), Thánh Mẫu Điện (聖母殿) v.v.. Tại Sơn Môn có khắc hai bài kệ của Thần Tú và Huệ Năng. Thiên Vương Điện là kiến trúc được tạo lập trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Trung (大中, 847-860) nhà Đường, trước cổng có con sư tử đá thời nhà Đường và trên cửa chính của điện có bức ngạch “Chơn Tuệ Thiền Tự” của vua Chơn Tông nhà Tống. Đại Hùng Bảo Điện cũng được kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Trung, có bức hoành “Đại Hùng Bảo Điện” do thủ bút của nhà Thư Pháp, thi nhân và là cư sĩ Phật tử nổi danh Triệu Phác Sơ (趙朴初, 1907-2000). Còn Ma Thành Điện, tức Tỳ Lô Điện (毘盧殿), tương truyền sau khi tín đồ vùng Ma Thành (麻城) đến chiêm bái Ngũ Tổ hiển linh, nên cùng nhau vác gạch ngói lên xây dựng ngôi điện này. Chơn Thân Điện là ngôi điện tôn trí chơn thân nhục tượng của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, kiến trúc rất độc đáo, tạo hình tráng lệ; phía trước hai bên có Lầu Chuông và Lầu Trống, ở giữa là Chánh Điện, bên trên có bức hoành với dòng chữ “Chơn Thân Điện”. Ngay chính giữa là Pháp Vũ Tháp (法雨塔), nơi tàng trí chơn thân Ngũ Tổ. Thánh Mẫu Điện là nơi tôn thờ bà họ Châu, mẫu thân của Ngũ Tổ. Ngoài ra, còn có một số kiến trúc khác như Quan Âm Điện, Tổ Đường, Địa Tạng Điện, Thiền Đường, Khách Đường, Phương Trượng Thất, Trai Đường, v.v. Âu Dương Tu (歐陽修[脩], 1007-1072), nhà Nho học thời nhà Tống có làm bài thơ Sơ Tình Độc Du Đông Sơn Tự Ngũ Ngôn Lục Vận (初晴獨游東山寺五言六韻) rằng: “Nhật noãn Đông Sơn khứ, tùng môn sổ lí tà, sơn lâm ẩn giả thú, chung cổ Phạm vương gia, địa tích trì xuân tiết, phong tình biến vật hoa, vân quang tiệm dung dữ, điểu lộng dĩ giao gia, băng hạ tuyền sơ động, yên trung minh vị nha, tự lân đa bệnh khách, lai thám dục khai hoa (日暖東山去、松門數里斜、山林隱者趣、鐘鼓梵王家、地僻遲春節、風晴變物華、雲光漸容與、鳥哢已交加、冰下泉初動、煙中茗未芽、自憐多病客、來探欲開花, rời Đông Sơn trời ấm, cửa tùng bóng chiều tà, núi rừng thú ẩn dật, chuông trống thoát tục gia, chốn hoang xuân về chậm, gió tạnh biến vật hoa, mây sáng bóng dần tỏ, chim ca buổi giao hòa, dưới băng suối vừa động, mầm non chè nhú ra, tự thương thân lắm bệnh, về đây chợt đơm hoa).”
(天童山景德禪寺): hay Thiên Đồng Tự (天童寺), Thiên Đồng Thiền Tự (天童禪寺); hiệu là Đông Nam Phật Quốc (東南佛國); là ngôi tự viện Thiền Tông trứ danh, được xếp hạng thứ 2 trong 5 ngôi chùa nổi tiếng của Thiền Tông Trung Quốc; hiện tọa lạc tại sườn núi Thái Bạch Sơn (太白山), Ngân Huyện (鄞縣), Phố Ninh Ba (寧波市), Tỉnh Triết Giang Thánh địa này có liên quan mật thiết với Thiền Tông Nhật Bản, Tào Động Tông nước này xem nơi đây là Tổ Đình. Vào năm 1983, chùa được Quốc Vụ Viện công nhận là ngôi tự viện trọng yếu thuộc địa khu Hán tộc của Phật Giáo toàn quốc. Thiên Đồng Tự được sáng kiến dưới thời nhà Tấn, tương truyền do vị tăng vân du tên Nghĩa Hưng (義興) từng kết thảo am tu tập tại đây vào năm đầu (300) niên hiệu Vĩnh Khang (永康) nhà Tây Tấn. Vào năm đầu nhà Đường (唐, 618-907), chùa được dời về vị trí hiện tại. Đến năm thứ 2 (759) niên hiệu Càn Nguyên (乾元) nhà Đường, vua Túc Tông (肅宗, tại vị 756-762) ban cho tên chùa là Thiên Đồng Linh Lung Tự (天童玲瓏寺). Năm thứ 10 (869) niên hiệu Hàm Thông (咸通) nhà Đường, vua Ý Tông (懿宗, tại vị 859-873) sắc phong tên chùa là Thiên Thọ Tự (天壽寺). Đến năm thứ 4 (1007) niên hiệu Cảnh Đức (景德) nhà Tống, vua Chơn Tông (眞宗, tại vị 997-1022) ban cho chùa tên Thiên Đồng Cảnh Đức Thiền Tự (天童景德禪寺). Vào năm 1125, Thiền Sư Như Tịnh (如淨, 1163-1228), vị Tổ đời thứ 13 của Tào Động Tông Trung Quốc, đến trú trì chùa này. Lúc bấy giờ, có Đạo Nguyên (道元, Dōgen) của Nhật bản đến tham học và sau khi trở về nước thì sáng lập Tào Động Tông Nhật Bản. Vào năm thứ 5 (1178) niên hiệu Thuần Hy (淳熙) nhà Tống, vua Hiếu Tông (孝宗, tại vị 1162-1189) ban cho 4 chữ Thái Bạch Danh Sơn (太白名山). Năm thứ 4 (1134) niên hiệu Thiệu Quang (紹光) nhà Tống, ngôi Đại Điện ở phía Đông Nam được mở rộng thêm. Trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Định (嘉定, 1208-1224) nhà Tống, chùa được liệt vào hàng thứ 3 trong Thiền Viện Ngũ Sơn Thập Sát. Sau đó, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tức vua Thái Tổ [太祖, tại vị 1368-1398]) nhà Minh sắc phong chùa là Thiên Hạ Danh Tự (天下名寺), xếp chùa vào hàng thứ 2 trong Thiên Hạ Thiền Tông Ngũ Sơn (天下禪宗五山). Về sau, vua Ung Chính (雍正, tức vua Thế Tông [世宗, tại vị 1722-1735]) nhà Thanh ban cho chùa tấm biển Từ Vân Mật Bố (慈雲密布). Về xuất xứ tên chùa, tương truyền khi Nghĩa Hưng đến đây lập thảo am tu hành thì có sao Thái Bạch (太白) xuất hiện, biến thành đồng tử, hằng ngày hái củi, gánh nước cúng dường; nên cảm niệm ơn đó, Nghĩa Hưng đặt tên cho ngọn núi này là Thiên Đồng Sơn. Ngoài Đạo Nguyên ra, Minh Toàn (明全, Myōzen), Vinh Tây (榮西, Eisai) cũng đã từng đến đây tham bái.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập